- Ơ chú... - Chú ơiii... - Ơ chúúú... Một tiếng gọi lặp đi lặp lại như con sóng đập vào tai tôi. Giọng nhỏ nhẹ êm ru... Tôi cảm thấy dễ chịu. - Ơ chú... dậy di chú... - Ơ chú... mở mắt ra đi chúúú... Tiếng gọi khẩn thiết, run run như muốn khóc. Tôi chợt hiểu rằng tôi phải mở mắt ra, dù điều đó thật khó khăn. Tôi đang muốn chìm vào một cơn mê mới. – Ơ, ơ, ơ, chúúú... Tôi gắng cựa mình, làm đà để mở mắt. Vệt nắng chói khiến tôi vội nhắm chặt lại. Vài giây sau, tôi tử từ hé mắt nhìn. Trước mặt tôi có hai con mắt đen long lanh. Hai con mắt đó chăm chú nhìn tôi, ánh sáng viền quanh một mái tóc tơ với nửa khuôn má. Lát sau tôi mới nhận ra khuôn mặt nó. Đó là một khuôn mặt nhỏ, cân đối, hơi nghiêm trang. Thấy tôi đã hoàn toàn tỉnh táo, con bé lên tiếng: - Chú làm tui sợ. Giọng nói hãy còn run. Tôi định cất tiếng hỏi nhưng lưỡi như bị dính chặt vào hàm. Dường như hiểu ý tôi, nó nói tiếp: - Tôi gọi chú từ đầu hôm tới chừ, khản cả giọng. Chú cứ nằm im như chết... Chừ hết sợ rồi. Tôi đút cháo cho nghen... Nó tụt khỏi bộ ván, chạy vào phía trong. Nháy mắt sau, nó quay ra bưng một tô mẻ với chiếc thìa cụt đuôi. Có một làn hơi mỏng mảnh bay trên miệng tô cháo. Con bé trèo lên ván, đặt tô cháo cẩn thận bên chỗ tôi nằm, rồi nó nhấc đầu tôi lên đặt vào một bên đùi và múc từng thìa cháo bón cho tôi. Một chất nước sanh sánh, ấm, tỏa mùi thơm của cám mới lẫn với lúa non. Những hạt gạo nở chưa nhuyễn nghe lật sật trong hai hàm răng và mắc nghẹn nơi cổ họng sưng bỏng. "Cơm tẻ mẹ ruột", tôi sực nhớ tới lời mẹ tôi thường nói hồi xưa. Tôi cố gắng nuốt. - Ráng lên, ráng lên đi chú... Con bé, chừng như đoán ra tình trạng khó khăn của tôi nên cất tiếng dỗ dành: - Chú sốt cao lắm. Sốt cao thì nước miếng nhạt như nước hồ. Nhưng phải cố ăn kẻo đau nữa. Cháo gạo mới đấy, ngon hung! Hẳn là nước cháo đã kịp thấm vào cái dạ dày lép kẹp của tôi nên tôi thấy tỉnh táo hơn. Con bé nhanh tay xúc vì thấy tôi nuốt được dễ dàng. - Vài muỗng nữa thôi... ráng lên chú, ráng lên... sắp hết tô cháo rồi.. sắp... hết... Nó vét thìa quèn quẹt. Tô cháo chắc nhẵn như chùi. Con bé kéo vạt áo lau miệng cho tôi đoạn chuồi khỏi bộ ván, mang tô và thìa đi. Nó lục sục gì đó phía bên trong không rõ. Một lát sau, ước chừng quãng thời gian hút tàn điếu thuốc, con bé trở lại, hai bàn tay bưng chiếc chén sành khói bốc nghi ngút: - Nè chú, ráng uống chén mật này rồi hãy ngủ... Ráng chút xíu. Nào, nhấc đầu lên. Chén nước bốc mùi thơm của mật ong hòa với các loại lá đồi những thứ lá dân ở đây thường nấu nước uống và bọn lính chúng tôi thường cắt để ngụy trang pháo và xe. Chất nước ngọt ấm nóng lan tỏa trong tôi cảm giác êm dịu. Tôi nhắm mắt. Đùi con nhỏ mềm mại dưới đầu tôi, quần áo nó bốc mùi nắng khét. Cặp mắt đen đau đáu lo âu của nó chăm chú đưa theo chiếc thìa nhỏ khiến tôi không thể nào không hình dung đó là người mẹ trẻ, - nó chính là người mẹ thứ hai tôi tình cờ bắt gặp từ khi mẹ tôi bỏ tôi xuống tuyền đài. - Hết rồi. Chừ thì chú ngủ đi, nghen. Vị nữ thần hộ mệnh của tôi cất tiếng nói, đoạn lấy vạt áo lau miệng cho tôi. Rồi bò qua chân tôi, nó rút một mảnh chăn dù: - Chú ngủ cho ngon, nghen, đừng cục cựa mà chăn rớt. Độ này ông nội mắc việc chưa dọn hầm được... Tôi thấy nó trải tấm dù trên thân thể tôi, cẩn thận ém dưới chân và bên lưng. Tôi chưa thể cất lời. Con bé đặt bàn tay lên trán tôi rồi nó chuồi xuống hầm. Lúc ấy, tôi he hé nhìn. Con bé trạc sáu tuổi là cùng, mặc chiếc quần hoa vá miếng vải đen, chiếc áo xanh bạc phếch. Da đen mịn như phấn. Môi nhỏ xinh. Một bà cụ non tơ! Săn sóc tôi xong rồi, gương mặt nó trở nên nhẹ nhõm. Nó rút trong túi mảnh gương vỡ, mảnh lược dùa bằng nhôm máy bay, bắt đầu chải tóc. Bàn tay nhỏ xíu đưa nhát lược đều đặn, chải chuốt tựa một thiếu nữ. Mái tóc tơ xoè những mối nhỏ hoe hoe nhuộm nắng sau gáy khiến tôi liên tưởng tới bầy Chúa hài đồng vây quanh Đức Mẹ. Gác chuông nhà thờ vút lên sau đồi... Lão Bỏ già mặc quần áo thâm chùng đưa mẹ con tôi đi qua nhà nguyện vào cái ngày khốn khổ mẹ tôi sắp sinh nở. Chúng tôi đã nhờ cậy vị cha xứ quen thân ông bà ngoại tôi tìm cách liên lạc với Hà nội và xin viện trợ ít tiền... Cái ngày xa xôi... Nhưng gương mật xinh tươi của Chúa hài đồng... Gương mặt vị thần hộ mệnh tôi vừa xuất hiện... Thế giới của các ảnh tượng cũ và mới nhảy múa, ru tôi đi mãi... Trong giấc mơ thoạt tiên thanh bình rồi sau thảng thốt, tôi thấy nạn hồng thủy: Một đợt sóng lừng từ chân trời cuồn cuộn dâng ngọn thủy triều đen ập tới trùm phủ khắp nơi... rừng núi, khe suối, thành phố, làng xóm, - mặt trận bên đông, mặt trận bên tây, - những người lính chiến đấu cho quốc gia lẫn chúng tôi, đội quân chiến đấu cho chủ nghĩa xã hội, - những con chim tước và sơn ca, những con thỏ và những con cáo, những con chim kên kên chuyên ăn xác chết, - và các loại dòi bọ, các loại kiến mối... thảy thảy đều chìm. Ngọn thủy triều đen xóa mọi biên giới. Cả những đỉnh non đầy sao, cả những ngọn cây đầy nắng. Các gác chuông nhà thờ và các kho lưu trữ chồng chất các tuyên ngôn, các hệ thức luận, các biên bản bút chiến giữa những ông lớn đầu hói râu dài, những nghi quyết đẻ lổm ngổm từng đàn cừu đam mê và suy tưởng... Tất cả. Trong nụ cười lặng lẽ và ngạo mạn, thủy triều đen trải lên mặt nước vô cùng tận những bọt sóng màu lam xám. Và mặt trời trên cao rọi sáng, phản chiếu lên vẻ đẹp thê thảm của thế gian những giọt nước mắt xanh lơ rơi từ một tinh cầu xa lạ. “Thế là hết - Không còn ai - Luật công bằng dành cho con người. Quà tặng cuối cùng của tạo hóa..." Nhưng mà không! Nơi chân trời đen thẳm, bỗng hiện lên những chiếc mảng bập bềnh. Và tôi thấy khắp nơi, ngoi ngóp dưới làn nước màu chì, những con người tuyệt vọng trồi lên cố bám lấy những mảnh bè hy vọng. Có tôi trong đám đông ấy. Tất cả chúng tôi lúc nhúc như kiến bọ, chen chúc nhau trên những con thuyền. Nô-ê mỏng manh ghép bằng tre nứa. Tất cả chúng tôi đều trần truồng, ướt nhẳng, kẻ ít tóc thì phơi lớp da sọ, kẻ râu rậm tóc dài thì lướt thướt như lũ dê già lội sông. Toàn bọn đực rựa, không mảnh vải che thân, ngồng ngồng phơi bày các loại của nợ... Giữa cảnh ấy, chúa hài đồng nhỏ bé của tôi hiện ra trong tấm áo xanh bạc ngắn cũn, chiếc quần hoa cũ vá mụn đen, món tóc hoe vàng vì phơi nắng. Nàng tiên giản dị ấy lần lượt nhặt từng gã đàn ông nhỏ bé và trần truồng như con chuột nhắt, nàng tắm cho từng người trong một chiếc chậu sành. Những gã đàn ông ấy, bi cơn hồng thủy phù phép, trở thành thứ sinh vật nhỏ bé khốn khổ đã ngoan ngoãn ngồi trong chiếc chậu sành như thuở mới lọt lòng... – Ô, ông đã về... ông ơiii... Tiếng reo bất thình lình đập tan cơn mê. Tôi choàng dậy. Một ông già đứng giữa hầm, xây lưng lại phía tôi. Con bé ôm chặt lưng ông, kêu lớn: - Răng mà ông đi mô rứa? Ông làm cháu sợ cả đêm... - Chui cha, ông đi mô mà đi hoài vậy?...Hu hu hu... Con bé khóc, khóc nức nở, tức tưởi như bị đòn oan. Ông già ve vuốt nó: - Thôi mà... ông xin... Cho ông xin... - Hu hu hu... hu hu... Con bé càng khóc to hơn, chen vào từng cơn là những tiếng nức nở. Tấm thân nhỏ bé rung lên, ông già ngồi phục xuống, ỏm đầu nó mà hôn hít, thiết tha: - Cho ông xin mà. Ông xin con... Lặng nghe ông nói này: ông qua thăm ông Kiến, mẹ Kiến với đám con cháu trúng đạn cối chết cả lượt. ông phải ở lại giúp đám ma. Sau ông phải rẽ qua dì Hường, cho tụi nhỏ vài ký gạo. Rồi ông tạt lên rừng kiếm ít mật ong... Con xem nè, đõ ong nguyên. Còn cả ong non, lát nữa ông cháu mình ăn nghen... Con bé vẫn còn nức nở, dụi đầu vào cổ ông. Ông già vuốt ve nó gượng nhẹ. Chăm chú như trong mỗi cái vuốt ve ấy ông phải cố gắng chống lại sức nặng và thói quen của bàn tay người làm việc nặng. Tôi nhắm mắt, vờ ngủ. Cuộc đối thoại tiếp tục: - Con đừng khóc nữa nghen. - Dạ. - Sớm mai tới chừ con ăn chưa? - Con ăn cháo. - Sao không nấu cơm? còn gạo mà?... - Không. - A... ông biết rồi. Con nấu cháo cho chú bộ đội ăn... - Đau hả? - Dạ. - Chú ấy đau sao? Khi hôm, con ra sau vườn kiếm rau nấu canh. Lúc quay vào, thấy chú nằm úp dưới gốc chuối. Con kêu hoài chú không thưa. Con qua bên o Lài nhờ o Lài bồng chú xuống hầm. O ấy xoa dầu cho chú xong phải về cho thằng Lanh bú. Mình con ngồi canh. Mãi ông không về. Con đốt đèn cả đêm, hết kêu lại rứt tóc chú, chú chẳng thưa. - Sợ hả? - Con sợ chú chết luôn. Chết xuống dưới mồ, chẳng bao giờ dậy như cha. - Chú ấy không mở mắt, không thưa nên con không dám ngủ... - Chui cha, cháu ông ngoan quá. ông thương cháu nhất đời... Hai ông cháu lịch kịch giờ đồ đạc, sửa soạn nấu ăn. Vị thần hộ mệnh của tôi đã trở lại là một đứa bé được nuông chiều. Nó ăn ong non, mật, nhõng nhẽo đòi ông kết tóc đuôi sam. Thỉnh thoảng nó lại kêu to: - Không cơ... Ông già xoa suýt: - Đừng kêu... đừng kêu, chú bộ đội mất giấc ngủ... Lặng nghe ông bảo nè... Tôi lại ngủ tiếp giấc thứ hai cho tới tận hoàng hôn. Ngoài trời chạng vạng, trong hầm đã phải thắp đèn. ông lão cho tôi ăn cháo nấu với mật ong. Sau đó, ông ép tôi uống một bát nước đen đặc, gồm những lá cỏ, - một bài thuốc dân giã lưu truyền. Mồ hôi toát ra ướt như tắm, người tôi nhẹ bỗng như vừa xông hơi nước xông. Ông cụ đem tới mảnh nồi đất vỡ, chứa than hồng: - Lát nữa, khô hết áo quần con sẽ tỉnh... Nào, đã thấy đủ hơi nóng chưa? ' Tôi gật đầu. Hơi than tỏa trong hầm rất nhanh, làn gió ấm thoang thoảng chờn vờn trên da thịt. Tôi trôi tiếp vào một cơn mê khác, một giấc mơ an bình. Sáng hôm sau, khi mở mắt, tôi thấy mình lọt giữa một đám người. Bộ ván rộng đặc kín những chăn dù, vải tăng. Vào lúc tôi tỉnh ngủ, mọi người cũng thức giấc. Lần lượt, những tấm chăn tung lên. Tôi thấy bên trái mình là ba cô thanh niên xung phong, còn bên phải là hai anh thông tin kỳ cựu. Hai ông cháu nằm trong cùng. Căn hầm hừng hực hơi người, ấm nhưng ngột thở. Mọi người ngồi dậy. Các cô gái chải tóc, sửa sang quần áo một cách hồn nhiên trước mặt các chàng lính già. Hai anh thông tin tóc muối tiêu hí hởn chuyện trò, biết chẳng được xơ múi gì nhưng có âm có dương, đời thêm chất ngọt. Tiếng bom dội từ hướng tiền duyên vẫn ầm ì vọng đến. Ông lão bưng ra một nồi khoai khô nấu đậu: - Các con ăn buổi mai cho no, lấy sức lên đường. Vị chúa hài đồng bé xíu của tôi đem ra chồng bát đủ loại: bát sứ, bát sành, bát sắt Trung quốc, bát B.52... Bom đã phá vỡ hết thảy những đồ gia dụng quí bằng pha lê hoặc bằng sứ. Nhà nào cũng ước ao cớ được một chiếc hăng-gô lính và một chục bát sắt tráng men. Các cô thanh niên xung phong vừa đùa giỡn hai anh lính vừa xúc khoai nấu đậu ra bát. Họ mời nhau rầm ran: - Chúc anh ăn no, dẻo chân hành quân nhá. Từ đây vào tới trạm còn xơi đường đấy... - Chúc em ăn nhiều, chóng thành trục lăn nhé... Bao giờ chiến thắng, về quê em chơi, có mời tụi anh thịt gà không đấy? - Có chiến thắng, về quê, em thịt hẳn con nhái bén làm cỗ mời hai anh... Họ vừa ăn vừa cười rinh rích, vừa đấm lưng nhau thùm thụp. Bữa sáng xong, người nào người nấy chào chủ nhân rồi lên đường. Tôi nghe tiếng họ ngoài cửa hầm lẫn với tiếng rền của một đợt bom từ chân trời phía tây vọng tới: - Các anh đi, thắng lợi nhé... - Chào... Chào... - Tụi em chòng ghẹo quá lời, đừng giận nghe không? - Không... Không... Một bàn lay lạ, rất ấm và đầy sờ lên trán tôi. Một vật gì đó khá nặng đặt bên cạnh: - Bọ ơi, con chào bọ... Có hộp sữa để cho anh bộ đội bị ốm. Bọ nói tụi con gửi lời chào anh ấy, chúc anh ấy chóng khỏe. - Bọ ơi, đêm qua con nằm cạnh anh ấy. Thế là duyên trời đã định, như Chữ Đồng Tử hiện dưới màn chúa Tiên Dung. Bọ bảo anh ấy phải ghi tên tuổi con. Bao giờ chiến thắng, về làng Nga Mi đem trầu cau ăn hỏi... Họ đi xa dần, tiếng cười lanh lảnh vọng lại. Cả ngày hôm ấy, chập chờn những cơn mơ màng, tiếng cười trẻ trung inh ỏi của họ ám ảnh tôi. Tối đến, tôi dứt hẳn cơn sốt. Sáng hôm sau, tôi chào chủ nhân lên đường. Nhưng ông lão đã dằn ba-lô của tôi xuống tấm ván: - Con chưa đi được. - Thưa bọ, con phải tới K. Việc quan trọng không thể trì hoãn. - Từ đây tới K sức bò tót mới đi bộ được. Con xa lạ không biết, nhưng bọ biết. Ngày trước, người ta đi ngựa tới đó. Có khi ngựa chết dọc đường nếu không chọn giống ngựa khỏe! - Con sốt ruột lắm. Thời gian... Ông già nghiêm nghị bảo: - Chiến tranh còn dài. Con phải giữ sức chiến đấu. Con là người lính của nhân dân. Tôi im, ông nói tiếp: - Ở lại vài ngày. Bọ bồi dưỡng cho. Hồi hôm, bọ đã đổi chai mật ong, lấy con gà. Hôm nay đem nấu cháo. Sớm mai bọ vào khe bắt vài con cá về nướng. Cá nướng chấm mắm ăn chóng lại sức lắm... Thế, kha khá lên con mới đủ sức mà bò. Nói đoạn, ông lão lui cui vào hầm xách bu gà. Trong chiếc bu gà dẻo đó, một con gà mái tơ dương mắt thao láo nhìn tôi. Cái mào mới nhú, đỏ tươi... Chắc nó chưa kịp đẻ lứa đầu. Tôi nằm xuống ván, gối đầu lên tay, đăm đăm nhìn kèo hầm. Dọc theo kẽ nứt của cây kèo, một đàn rệp béo mọng xếp hàng nằm nghỉ. Lũ rệp thời chiến là những ông hoàng bà chúa. Chúng được tự do và luôn luôn no đủ. Người ta hiến máu cho chúng một cách vui vẻ vì, so với lệ phí của bom đạn thì đó chỉ là những khoản thuế còm... Tôi thờ ơ lướt qua lũ chúng, lặng nhìn khoảng trời bên ngoài. Hôm nay nắng. Trời tơ thắm tươi không gợn mây. Tôi thầm cầu mong cho sức khỏe mau chóng trở lại để lên đường... Chắc giờ này, Lương đang nhắc tôi. Tấm sơ đồ của người giao liên quá đơn giản! Nếu không gặp anh chàng Vân kiều Te Chiêng, tôi dám chắc không thể tìm đến K. được. Tôi gặp Chiêng trong lúc anh ta ngồi bên bờ suối, phơi la liệt những lá thư bị thấm nước. - Làm sao thế? Mình bị ngã, ướt hết gùi thư. Bộ đội đi đâu? - Tới K. - Thế cùng đi. Mình gùi thư tới cho lũ ở K. - Từ đây tới đó bao nhiêu cây số? Mình không hiểu. Cây số là cái cây gì? - A... Chừng một hay hai ngày đường? - Không, bộ đội có đi nhanh bằng ngựa được không? Con ngựa khỏe đi hết ba ngày đêm mới tới. Chúng tôi cùng đi, băng qua hai cánh rừng và một con suối lớn. Đêm xuống, hai chúng tôi chui vào một chiếc hang nhỏ vừa đủ kín tới khuỷ chân. Sáng hôm sau, một luồng ánh sáng đỏ rọi vào mắt khiến tôi bừng tỉnh. Tôi ngồi dậy, bàng hoàng. Không gian đỏ rợn như pha sắc máu vây phủ bốn bên. Tôi đập vào lưng Chiêng: - Dậy, dậy... Anh chàng Vân kiều trở mình, vùi đầu vào cánh tay: - Ngủ nữa đã, mình mệt lắm... chưa đi được đâu... Chiêng lại ngủ. Tôi tựa vào anh ta. Hơi ấm truyền từ con người hoang dã ấy cho tôi thêm sức mạnh. Tôi choáng váng trước cái không gian lộng lẫy khủng khiếp này. Nơi chúng tôi ngủ là rẻo núi đá cuối cùng, cái hang nhỏ như hang của con cáo độc. Từ hang đó trở đi là giải đất lởm chởm cỏ gai, dài ước chừng dăm chục mét. Sát mép cỏ là cát. Cát đỏ như máu, chạy xô tới tận chân trời. Một hoang nguyên cát đỏ. Một sa mạc máu kết tinh. Màu đỏ phản chiếu ánh rạng đông, hắt lên sắc hồng ma quái. Bầu trời nhuốm hồi quang trở nên tím rịm. Gió thổi từ chân trời trơ trụi cát, phả lên không trung những ngọn triều đẫm máu. Những ngọn triều xô dạt, rượt đuổi, phiêu du dưới những tia mặt trời tê quết. Cảnh tượng ấy đắm trong một giai điệu âm u, xa tít tắp, rì rầm không ngớt tựa hồ có bài kinh nguyện vô cùng, có bài ca cám dỗ vô cùng, có những lời rủa nguyền độc dịa vô cùng, tất thảy giao hòa trong phức điệu đẫm máu của thời gian, tồn tại từ niên kỷ này qua niên kỷ khác, và rắc xuống mặt đất những giọt máu oan khốc. Từ những giọt máu ấy, nảy sinh ra loài cây dại hình thù từa tựa như cây duỗi, quả kết chùm màu huyết làm chốn quanh quất cho những bầy bướm ma là loài bọ hóa thân của những oan hồn... - Chiêng, Chiêng... Tôi đập túi bụi vào vai anh chàng Vân kiều. Hắn ngồi dậy, dụi cặp mắt đỏ kè. Tôi bảo: - Nắng quá rồi. Chiêng lè nhè: - Thì nắng cả ngày mà... Có trốn được đâu? Chiêng đã quen thuộc vùng này, anh ta bình thản. Nhưng tôi sợ. Nơi chân trời, từng làn bụi đỏ bay, kéo lê trên mặt đất cái bóng mờ ảm đạm. Ngọn gió lo âu, phấp phỏng chờ... ai đó?... Có thể là tôi... Rất có thể là chính tôi. Bầu không gian tẩm máu tử trong các huyền sử đã thổi về hơi thở lạnh buốt của ân oán. Thịt da các tử thi nguội lạnh đi, tan rữa qua các thiên niên kỷ nhưng bóng dáng các âm hồn vẫn lảng vảng đi về... - Bộ đội làm sao xanh lét?... ốm à? - Vâng, tôi khó chịu. - Mình cho bộ đội uống thuốc nhé? - Thôi, cảm ơn. Tuổi trẻ của chúng tôi kiêu hãnh làm sao! Ngày lên đường, mười năm trước đây, tôi không mường tượng tới cảnh này. Lúc ấy, chúng tôi chỉ muốn hát khúc khải hoàn. Dù phải bắn cối, bắn liên thanh, gài mìn, đâm lê, thọc dao găm... các kiểu giết người đều tốt... miễn là được ca khúc khải hoàn... Bóp cò, băm vằm không chán tay trong hứng khởi thù hận và đòi công bằng trong thù hận. Bây giờ, hai mươi tám tuổi, tóc có dăm sợi bạc, tôi đi qua mảnh đất xưa kia chính là khải hoàn môn của tổ tiên mình. Bao nhiêu niên kỷ trước, có thể ông tổ tôi đội nón dấu, vác súng hỏa mai và đeo mã tấu đến đây, và hát khúc khải hoàn, và uống rượu khao quân trong những chiếc bát loe bằng đất, và sung sướng khôn cùng, và kiêu hãnh vô hạn... Anh chàng Vân kiều đái tồ tồ một bãi ngay bên tôi, không thèm bước quá vài bước chân. Rồi bảo: - Ta đi thôi. Tôi đeo ba-lô, lặng lẽ đi theo Chiêng, Mỗi bước, tôi phải bấm chân xuống cát vì không gian rung rung xung quanh như sóng... Nó làm tôi chòng chành, nó khiến tôi ngột thở. Chân trời cát đỏ tóe máu lên chân mây. Cả những gợn mây trắng li ti cũng nhuốm sắc đào. Những bụi gai xương rồng mọc ven tráng cát cũng có màu máu loãng. Những chùm hoa xương rồng ngậm sương, trông giống hệt những giọt máu vẩy trong ống thủy tinh... Tuổi trẻ cơ cực của tôi, tuổi trẻ tội nghiệp của tôi, cớ sao bắt tôi cảnh tượng này... Bất chợt, Chiêng dừng lại: - Bộ đội thấy đẹp chưa, sau cái gò cát đó. - Cái gì? Anh chàng Vân kiều giơ tay chỉ... Tôi nhìn thấy sau một gò cát nghiêng nghiêng, lởm chởm những búi cỏ mặt trời, hiện lên một cái tháp Chàm.