Bất chấp cái việc Harry đã giành hết từng giây phút không ngủ trong mấy ngày qua hy vọng một cách tha thiết rằng cụ Dumbledore sẽ đến đón mình đi thực sự, nó vẫn cảm thấy lúng túng lộ liễu khi hai thầy trò ra tới đường Privet Drive. Trước giờ nó chưa từng trải qua một cuộc chuyện trò thực sự nào với thầy hiệu trưởng ở bên ngoài khuôn viên trường Hogwarts; giữa hai người luôn có một cái bàn làm việc. Ký ức về cuộc gặp gỡ mặt-đối-mặt vừa qua giữa hai người lại cứ hay trỗi dậy, và chuyện đó càng làm Harry bối rối thêm; nó đã la thét hơi nhiều trong dịp đó, ấy là không kể nó đã thi thố hết tài năng để làm tan tành nhiều món đồ đạc được cụ Dumbledore tưng tiu nhất. Tuy nhiên, cụ Dumbledore có vẻ hoàn toàn thư thái. Cụ rạng rỡ nói: “Thủ sẵn cây đũa phép của trò nhé, Harry” “Nhưng thưa thầy, con tưởng con không được phép sử dụng pháp thuật bên ngoài trường học chớ?” “Nếu có một cuộc tấn công,” cụ Dumbledore nói, “thầy cho phép con sử dụng bất cứ phép kháng-bùa hay lời nguyền nào mà con biết xài. Tuy nhiên, thầy không nghĩ rằng con cần phải lo lắng về chuyện bị tấn công vào tối nay.” “Thưa thầy, tại sao không ạ?” “Con đang ở bên thầy,” cụ Dumbledore nói một cách đơn giản. “Điều này đủ đảm bảo an toàn, Harry à.” Cụ đột ngột dừng chân giữa đường Privet Drive. “Dĩ nhiên là con chưa trải qua kỳ Sát hạch Độn thổ, đúng không?” cụ hỏi “Dạ chưa,” Harry đáp. “Con tưởng phải đủ mười bảy tuổi mới được thi.” “Đúng vậy,” cụ Dumbledore nói. “Vậy là con phải bám vô cánh tay thầy thật chặt. Tay trái, nếu không phiền… như con đã nhận thấy đó, tay cầm cây đũa phép của thầy lúc này hơi yếu.” Harry bám chặt cánh tay cụ Dumbledore đưa ra. Cụ bảo: “Tốt lắm. Nào, chúng ta đi.” Harry cảm thấy cánh tay cụ Dumbledore xoắn tuột khỏi bàn tay nó. Nó bèn bám chặt hơn nữa. Việc tiếp theo mà nó nhận ra là mọi thứ bỗng đen hù; nó bị ép rất mạnh từ mọi hướng; nó không thể thở nổi, có những đai sắt chằng quanh ngực nó; tròng mắt nó bị đẩy ngược vô tuốt bên trong đầu, màng tai nó bị đẩy sâu hơn vô trong hộp sọ và rồi… Nó há họng đớp đầy phổi làn khí lạnh ban đêm và mở to đôi mắt đang trào nước. Nó cảm thấy như thể mới vừa bị nhét qua một cái ống cao su rất chặt. Nó mất vài giây định thần mới nhận ra con đường Privet Drive đã biến mất. Nó và cụ Dumbledore lúc này đang đứng ở một nơi có vẻ như một sân làng hoang phế, ở giữa sân có một tượng đài kỷ niệm chiến tranh và vài băng ghế dài. Khi đầu óc đã băts kịp cảm xúc, Harry hiểu ra nó vừa mới được độn thổ lần đầu tiên trong đời. “Con có sao không?” Cụ Dumbledore ngó xuống nó lo lắng hỏi. “Cảm giác đó rồi sẽ quen đi.” “Con không sao.” Harry nói, chà xát hai lỗ tai, có vẻ như hai lỗ tai nó hơi bất đắc dĩ phải rời bỏ con đường Privet Drive. “Nhưng con thấy khoái chổi bay hơn...” Cụ Dumbledore mỉm cười, kéo tấm áo khoác lữ hành lên sát quanh cổ hơn một chút, và nói: “Đi lối này.” Cụ bước đi rất nhanh, băng qua một cái quán tọ trống không và vài căn nhà. Theo như cái đồng hồ trên tháp một nhà thờ kế đó thì đã gần nửa đêm. Cụ Dumbledore nói: “Nào Harry, nói cho thầy nghe, cái thẹo của con… dạo này còn đau không?” Harry đưa bàn tay lên trán một cách vô thức và xoa xoa cái dấu hình tia chớp. Nó nói: “Dạ không. Và con đang thắc mắc về việc đó. Con tưởng nó sẽ phải rát hơn bao giờ hết chớ, vì bây giờ Voldermort đã lại có quyền lực rồi.” Nó ngước nhìn lên cụ Dumbledore và thấy vẻ hài lòng trên mặt cụ. Cụ Dumbledore nói: “Nhưng thầy thì nghĩ ngược lại. Chúa tể Voldermort cuối cùng đã nhận ra rằng lâu nay con hơi khoái việc tiếp cận nguy hiểm vào suy nghĩ và tình cảm của hắn. Có vẻ như bây giờ hắn đang xài bùa Bế quan chống lại con.” “Thế cũng được. Con cũng chẳng phiền,” Harry nói. Nó chẳng tiếc nhớ gì cả những giấc chiêm bao đầy xáo trộn đến những phát nháng đến sững sờ rọi vô bên trong đầu óc Voldermort. Hai người quẹo qua một góc đường, đi ngang qua một trạm điện thoại công cộng và một trạm chờ xe buýt. Harry lại nhìn ngang cụ Dumbledore một lần nữa. “Thưa thầy…” “Gì hở Harry?” “Ơ… Chúng ta đang ở đâu đây?” “Harry à, đây là làng Budleigh Babberton xinh đẹp.” “Chúng ta sẽ làm gì ở đây ạ?” “À phải, đương nhiên rồi, thầy chưa nói với con,” cụ Dumbledore đáp. “Chà, thầy đã đếm hết nổi số lần thầy đã nói điều này trong những năm gần đây, nhưng một lần nữa thầy lại phải nói rằng chúng ta thiếu một thành viên trong giáo ban. Chúng ta tới đây để thuyết phục một đồng nghiệp cũ của thầy đừng nghỉ hưu nữa để trở về dạy ở trường Hogwarts.” “Thưa thầy, con giúp gì được trong chuyện này ạ?” “À, thầy nghĩ sẽ kiếm được chỗ để xài tới con,” cụ Dumbledore nói một cách mơ hồ. “Quẹo trái, Harry.” Hai người đi lên một con đường hẹp rất dốc, hai bên nhà cửa san sát. Tất cả cửa sổ đều tối thui. Trận lạnh giá kỳ quái đã tan từ hai tuần trước ở đường Privet Drive, nhưng vẫn còn dai dẳng ở đây. Nghĩ đến bọn giám ngục, Harry ngoái lại sau liếc mắt nhìn, nắm chặt lấy cây đũa phép trong túi áo. “Thưa thầy, tại sao chúng ta không độn thổ thẳng vô nhà đồng nghiệp của thầy cho gọn?” “Bởi vì như vậy thì bất lịch sự không kém gì đá tông vô cửa nhà người ta,” cụ Dumbledore nói. “Phép lịch sự đòi hỏi chúng ta phải chừa lại cho các pháp sư cơ hội từ chối đón tiếp chúng ta. Vả lại, hầu hết nhà cửa của dân pháp thuật đều được bảo vệ bằng bùa chống lại những cuộc đột nhập bằng độn thổ. Chẳng hạn ở trường Hogwarts…” “Không ai có thể độn thổ ở bất cứ đâu bên trong lâu đài hay ngoài sân vườn. Hermione Granger có nói với con như vậy,” Harry nhanh nhẩu nói. “Và trò ấy hoàn toàn đúng. Chúng ta quẹo trái một lần nữa.” Đằng sau hai thầy trò, chuông đồng hồ nhà thờ điểm nửa đêm. Harry thắc mắc tại sao cụ Dumbledore không coi việc đến thăm đồng nghiệp cũ vào đêm hôm khuya khoắt như vầy cũng là bất lịch sự, nhưng giờ đây hai thầy trò đã trò chuyện thoải mái rồi, Harry có nhiều câu hỏi cấp bách hơn để mà hỏi. “Thưa thầy, con coi trên Nhật báo Tiên Tri ông Fudge đã bị mất chức…” “Đúng,” cụ Dumbledore đáp. Lúc này cụ đang đi ngược lên phía dốc đứng của con đường. “Thầy chắc là con cũng có đọc thấy rằng ông ấy đã bị ông Rufus Scrimgeour thay thế. Ông này vốn là Giám đốc Sở Thần sáng.” “Ông ấy… Thầy có nghĩ là ông ấy tốt không?” Harry hỏi. “Một câu hỏi thú vị,” cụ Dumbledore nói. “Chắc chắn là ông ấy có khả năng. Một tính cách mạnh mẽ cả quyết hơn ông Cornelius.” “Dạ, nhưng ý con…” “Thầy hiểu ý con. Rufus là một người hành động, và vì đã từng chiến đấu chống các phù thủy Hắc ám gần như suốt cả đời công tác, nên không đánh giá thấp Chúa tể Voldermort.” Harry chờ đợi, nhưng cụ Dumbledore chẳng nói gì tới chuyện cụ bất đồng với ông Scrimgeour mà tờ Nhật báo Tiên Tri đã tường thuật, và nó cũng chẳng dám theo đuổi chủ đề đó, cho nên nó đổi đề tài: “Và… thưa thầy… Con có đọc tin về bà Bones.” “Ừ,” cụ Dumbledore khẽ nói. “Một mất mát kinh khủng. Bà ấy là một phù thủy vĩ đại. Thầy nghĩ, ngay ở đây thôi… Ối.” Cụ đã chỉ hướng bằng bàn tay bị thương. “Thưa thầy, chuyện gì đã xảy ra với bàn tay của…” “Bây giờ thầy không có đủ thì giờ để giải thích cho con,” cuh Dumbledore nói. “Đó là cả một câu chuyện gay cấn mà thầy muốn dành cho nó lượng thời gian xứng đáng hơn.” Cụ mỉm cười với Harry. Nó hiểu rằng cụ không muốn làm cho nó cụt hứng, và rằng nó được phép tiếp tục hỏi. “Thưa thầy… Con nhận được bằng bưu cú một tờ bướm của Bộ Pháp thuật, về những biện pháp an ninh mà tất cả chúng ta cần thực hiện để chống lại bọn Tử thần thực tử…” “Ừ, chính thầy cũng nhận được một bản,” cụ Dumbledore nói, vẫn mỉm cười. “Con có thấy tờ đó có ích gì không?” “Không ích gì mấy ạ.” “Thầy cũng nghĩ là không. Nãy giờ con đã không hỏi thầy, thí dụ, mùi mứt nào thầy thích nhất, để kiểm tra coi thầy có đúng thật là giáo sư Dumbledore chứ không phải một kẻ giả danh đội lốt không.” “Con không…” Harry chỉ mới mở miệng, không hoàn toàn chắc là liệu có phải thầy đang rầy nó hay không. “Để dùng trong tương lai, Harry à, con nên biết đó là mùi mứt dâu đỏ… Mặc dù, dĩ nhiên, nếu thầy là một Tử thần thực tử thì thầy ắt sẽ phải nghiên cứu sở thích mùi mứt của chính thầy trước khi hóa thân thành chính thầy.” “Ơ… Đúng vậy,” Harry nói. “À, trong tờ bướm có nói cái gì đó về Âm binh. Chính xác là gì vậy thầy? Tờ bướm nói không rõ lắm.” “Chúng là những xác chết,” cụ Dumbledore bình tĩnh nói. “Những xác chết đó đã bị phù phép để làm theo lệnh của một phù thủy Hắc ám. Tuy nhiên, lâu lắm rồi chẳng ai nhìn thấy Âm binh đâu cả, kể từ khi Voldermort đầy quyền lực lần cuối… Hắn đã giết đủ người để thành lập cả một đội quân xác chết, tất nhiên. Chỗ này đây, Harry, ngay đây…” Hai thầy trò đang ở gần một ngôi nhà nhỏ xây bằng đá xinh xắn giữa một khu vườn riêng. Harry còn đang bận tiêu hóa cái khái niệm khủng khiếp về bọn Âm binh nên chẳng còn tâm trí đâu để ý đến cái gì khác, nhưng khi hai người đi tới gần cổng trước, cụ Dumbledore chợt đứng khựng lại khiến Harry đâm sầm vào cụ. “Ối, ôi thôi, ôi ôi…” Harry nhướng mắt theo cái nhìn chăm chú của Dumbledore vào lối đi nhỏ được chăm chút kỹ lưỡng phía trước nhà và cảm thấy trái tim nó chùng xuống. Cửa chính ngôi nhà đã bị bung khỏi bản lề. Cụ Dumbledore liếc nhìn từ đầu đường đến cuối đường. Con đường hoàn toàn vắng ngắt. Cụ khẽ nói: “Rút đũa phép ra và đi theo thầy, Harry.” Cụ mở cánh cổng và bước vừa nhanh vừa lặng lẽ trên lối đi nhỏ băng qua khu vườn, Harry bám sát gót thầy. Rồi cụ Dumbledore chầm chậm đẩy cánh cửa chính, cây đũa phép của cụ giơ cao và sẵn sàng. “Tỏa sáng.” Đầu cây đũa phép của cụ Dumbledore bùng lên ngọn lửa, soi ánh sáng của nó lên một hành lang hẹp. Một cánh cửa khác ở ngay bên trái để mở. Giơ cao cây đũa phép có đốm lửa, cụ Dumbledore đi vô phòng khách với Harry bám sát sau lưng. Mắt họ thấy một cảnh tan hoang hoàn toàn. Một cái đồng hồ cổ bể tanh banh nằm ngay dưới chân hai thầy trò, mặt đồng hồ rạn nứt, còn quả lắc bị văng ra nơi xa giống như một thanh kiếm rớt. Bên cạnh đó là một cây đàn dương cầm, phím của nó cũng bị văng ra sàn nhà. Mảnh vở của cây đèn chùm bị rớt nằm lấp lánh gần đó. Mấy cái gối nằm bẹp dí, lông nhồi gối phòi ra từ vết rạch; mảnh vụn của đồ sứ và thủy tinh bị nát như bột phủ lên mọi thứ. Cụ Dumbledore giơ cây đũa phép cao hơn nữa, để ánh sáng của nó rọi lên những bức tường, nơi có cái gì đó màu đỏ sậm và nhơn nhớt được trét lên giấy dán tường. Harry hít vô một hơi ngắn khiến cụ Dumbledore quay nhìn lại. Cụ nói một cách nặng nhọc: “Không đẹp lắm, hả?” Cụ di chuyển cẩn thận vô giữa phòng, chăm chú xem xét những mảnh vụn dưới chân. Harry đi theo, dáo dác nhìn quanh, có phần sợ sệt nhỡ đâu bắt gặp cái gì đó ẩn náu đằng sau đống tan nát của cây đàn dương cầm hay cái ghế sofa bị lật úp, nhưng chẳng có dấu vết của ai cả. “Thưa thầy, có lẽ đã có một trận quyết đấu và… và chúng đã lôi xác ông ấy đi.” Harry đưa ra giả thuyết, cố gắng không tưởng tượng rằng người đó ắt là bị thương nặng lắm mới để lại những vết máu văng tung tóe lên lưng chừng những bức tường. “Thầy không nghĩ vậy,” cụ Dumbledore nói khẽ, chăm chú nhìn phía sau của một cái ghế bành nhồi quá căng nằm lăn một bên. “Thầy muốn nói là ông ấy…” “Vẫn còn ở đâu đây. Đúng vậy.” Và không hề báo trước, cụ Dumbledore thụp xuống, thọc cây đũa phép vào chỗ ngồi của cái ghế bành nhồi quá căng ấy. Cái ghế bèn kêu ré lên: “Ối!” “Chào anh, Horace,” cụ Dumbledore nói. Cụ đứng thẳng trở lại. Harry há hốc miệng. Ở chỗ trước đó nửa giây vốn là cái ghế bành thì giờ đây lại ngồi thu lu một ông già đầu hói cực kỳ mập mạp. Ông ta đang xoa xoa bụng và liếc xéo lên cụ Dumbledore bằng đôi mắt buồn phiền ươn ướt. “Đâu có cần phải thọc cây đũa phép mạnh dữ vậy. Đau chết đi.” Ánh sáng của cây đũa phép soi lấp lánh cái sọ bóng lưỡng và đôi mắt lồi, bộ ria hải mã vĩ đại, và bộ nút được đánh bóng ngời ngời của tấm áo khoác nhung mà ông ta mặc bên ngoài bộ đồ ngủ màu tím hồng. Đỉnh đầu ông chưa nhóng tới cằm cụ Dumbledore. “Cái gì làm lộ vậy ta?” Ông càu nhàu khi lảo đảo đứng lên, vẫn xoa xoa cái bụng phệ. Bị phát hiện ra đang giả dạng một cái ghế bành như vậy mà ông vẫn chẳng hề nao núng thì quả là đáng nể. “Anh Horace thân mến của tôi ơi,” cụ Dumbledore nói, có vẻ vui thích. “Nếu bọn Tử thần thực tử thực sự đến tìm anh, thì phía trên mái nhà phải xuất hiện Dấu hiệu Hắc ám chớ.” Vị phù thủy vỗ một bàn tay múp míp lên cái trán rộng. “Dấu hiệu Hắc ám,” ông lẩm bẩm. “Đã biết là có cái gì đó... ờ, đúng vậy. Đằng nào thì cũng không có thì giờ, tôi chỉ mới bày biện xong đám đồ đạc khi anh bước vô phòng.” Ông ta thở khì ra một cái thiệt to khiến cho bộ ria run nhè nhẹ. “Anh có cần tôi dọn dẹp giúp giúp một tay không?” cụ Dumbledore lịch thiệp đề nghị. “Vâng, làm ơn,” ông ta đáp. Hai người đứng đâu lưng lại với nhau, một pháp sư gầy cao lêu nghêu và một pháp sư tròn quay lùn xủn, và cả hai cũng vẫy cây đũa phép của mình trong cùng một động tác quét y hệt nhau. Bàn ghế bay vèo vèo trở lại vị trí ban đầu của chúng. Chùm đèn trang trí lại treo lơ lửng trên không, lông nhồi gối chui hết trở vô gối, sách rách te tua tự lành lại khi bay lên kệ, đền dầu bay vút lên mặt bàn nhỏ và thắp sáng trở lại. Một đám khổng lồ những cái khung tranh bằng bạc bay vi vút ngang qua căn phòng và đáp xuống trên cái bàn làm việc, nguyên vẹn và không chút tì vết. Khắp nơi, những vết xước, vết nứt, những lỗ hổng đều tự bít lại, và những bức tường tự lau chùi sạch sẽ. “Nhân tiện xin hỏi, đó là loại máu gì vậy?” cụ Dumbledore hỏi to để át tiếng gõ boong boong của cái đồng hồ cổ vừa mới hết bể. “Trên tường hả? Rồng,” vị phù thủy tên là Horace hét lên, trong tiếng nghiến ken két và kêu leng keng của chùm đèn treo đang tự rút mình treo lên trần phòng. Một tiếng tưng cuối cùng vang ra từ cây đàn dương cầm, rồi im ắng. “ Ừ, rồng,” vị phù thủy lặp lại trong cơn hứng chuyện trò. “Chai cuối cùng của tôi, và giá cả lúc này thì cao tận trời. Dù vậy, có thể dùng lại được.” Ông chồm tới vớ một chai thủy tinh nhỏ để trên đầu tủ ly chén và giơ nó ra phía ánh sáng xem xét cái chất lỏng đậm đặc bên trong chai. “Hừm, hơi dơ.” Ông đặt cái chai trở lại đầu tủ và thở dài. Chính lúc đó cái nhìn chăm chú của ông rớt xuống Harry. “Ố ồ,” ông nói, con mắt tròn to của ông lượn lờ trên vầng trán của Harry và cái thẹo hình tia chớp của nó. “À há.” “Đây,” cụ Dumbledore nói, di chuyển tới trước để giới thiệu. “Đây là Harry Potter. Harry, đây là một người bạn và đồng nghiệp cũ của thầy, thầy Horace Slughorn.” Slughorn quay sang cụ Dumbledore, mặt ông nhăn lại. “Thế ra đây là cách anh tưởng sẽ thuyết phục được tôi à? Chà, câu trả lời là không, anh Albus à.” Ông đẩy Harry qua một bên, ngoảnh mặt đi một cách cương quyết với cái vẻ của một người dang cố gắng kháng cự lại một ham muốn. “Thì ít nhất chúng ta cũng có thể làm một ly. Để ôn kỷ niệm xa xưa,” cụ Dumbledore nói. Ông Slughorn ngập ngừng. “Thôi được, một ly vậy,” ông nói một cách miễn cưỡng. Cụ Dumbledore mỉm cười với Harry và dẫn nó đến một cái ghế, không giống cái mà ông Slughorn đã giả dạng, đặt ngay bên cạnh cái lò sưởi vừa được đốt lên và ngọn đèn dầu tỏa ánh sáng rực rỡ. Harry ngồi xuống ghế với một cảm tưởng rõ rệt rằng cụ Dumbledore, vì lý do nào đó, muốn cho người ta phải luôn thấy nó rõ. Rõ ràng là ông Slughorn, lúc ấy đang bận bịu với bình cổ cong và ly pha lê, khi quay mặt lại căn phòng một lần nữa, thì ngay lập tức ánh mắt rớt trúng phải Harry. “Hừm,” ông nói, nhìn thiệt lẹ sang hướng khác như thể sợ làm đau mắt mình. “Đây...” ông đưa ly rượu cho cụ Dumbledore, cụ đã ngồi xuống mà không cần mời mọc, đoạn ông đẩy cái khay về phía Harry, rồi ngồi lọt thỏm vô đống gối trên cái ghế sofa đã được sửa sang, và rồi một sự im lặng khó chịu lan ra. Chân của ông ngắn quá nên không chạm tới sàn. “Sao, dạo này sức khỏe ra sao, anh Horace?” “Không khá lắm,” ông Horace đáp ngay. “Phổi yếu. Khò khè. Thấp khớp nữa. Không thể đi đứng như trước đây. Ôi, tất phải vậy thôi. Già rồi. Mệt mỏi.” “Thế nhưng mà anh ắt là di chuyển khá lẹ mới chuẩn bị được một cuộc đón tiếp chúng tôi ngoạn mục như vầy, với thời gian báo trước quá ngắn đó chớ,” cụ Dumbledore nói. “Anh đâu có được báo trước nhiều hơn ba phút đâu nhỉ?” Ông Slughorn nói, nửa quạo quọ nửa tự hào: “Hai. Không nghe cái bùa Đột nhập của tôi báo động, tại đang tắm. Dù vậy,” ông nghiêm trang nói thêm, dường như đang cố gắng lấy lại thế tự chủ, “cái sự thật vẫn sờ sờ ra đó, tôi là một ông già, anh Albus à. Một ông già về hưu xứng đáng có được một đời sống yên tĩnh và chút ít rượu ngon.” Ông chắc chắn là đang có những thứ đó, Harry vừa nghĩ, vừa nhìn chung quanh căn phòng. Căn phòng ngột ngạt và lộn xộn, nhưng đừng ai nói là nó không tiện nghi thoải mái; có ghế nệm êm và ghế gác chân, có rượu và sách, mấy hộp sôcôla và mấy cái gối phồng xốp. Nếu Harry không biết ai sống ở đây, nó sẽ tưởng chủ nhân là một bà già giàu có và kiểu cọ. “Anh đâu đã già bằng tôi, anh Horace?” cụ Dumbledore nói. “Ừ, có lẽ chính anh cũng nên nghĩ đến chuyện về hưu đi,” ông Slughorn huỵch tẹt. Hai con mắt xanh nhạt màu trái chùm ruột của ông đã nhìn thấy bàn tay bị thương của cụ Dumbledore. “Phản xạ không còn như xưa nữa, tôi hiểu.” “Anh hoàn toàn đúng,” cụ Dumbledore nói một cách bình thản, hất ống tay áo ngược lên để lộ đầu những ngón tay bị phỏng và thâm đen; cảnh tượng này làm Harry nổi gai ốc một cách khổ sở. “Tôi chắc chắn chậm hơn xưa. Nhưng mặc khác...” Cụ nhún vai và xòe bàn tay rộng ra, như thể muốn nói rằng tuổi tác cũng có sự đền bù, và Harry nhận thấy một chiếc nhẫn đeo trên bàn tay không bị thương của cụ mà nó chưa từng thấy cụ đeo trước đây: chiếc nhẫn đó to, hơi thô, làm bằng một thứ có lẽ là vàng, và được nạm bằng một viên đá đen đã bị nứt xuống ở chính giữa. Đôi mắt của ông Slughorn cũng ve vãn chiếc nhẫn một lát, và Harry nhìn thấy một tí cau mày thoáng qua làm nhăn vầng trán rộng của ông. “Vậy, tất cả những sự đề phòng chống đột nhập này, anh Horace à... chúng nhằm chống lại bọn Tử thần thực tử, hay là tôi?” cụ Dumbledore hỏi. “Bọn Tử thần thực tử thì cần gì ở một cái gối đệm cũ te tua tội nghiệp như tôi?” ông Slughorn hỏi vặn lại. “Tôi cho rằng chúng muốn anh biến những tài năng đáng kể của mình thành áp bức, tra tấn, và ám sát.” Cụ Dumbledore nói. “Chẳng lẽ anh đang nói với tôi rằng chúng chưa tìm đến anh để chiêu dụ sao?” Ông Slughorn nhìn cụ Dumbledore một cách độc địa trong một lát, rồi làu bàu: “Tôi chưa tạo cho chúng cơ hội nào. Tôi đã di chuyển liên tục trong suốt một năm qua. Không bao giờ ở một nơi nào lâu hơn một tuần lễ. Cứ dọn hết từ nhà dân Muggle này sang nhà dân Muggle khác... Chủ nhân ngôi nhà này đang đi nghỉ ở quần đảo Canary – thiệt là thoải mái dễ chịu, thiệt là tiếc khi phải ra đi. Một khi mình biết cách rồi thì cũng dễ thôi, chỉ cần một lá bùa Đông cứng dán lên mấy cái còi báo động chống trộm ngớ ngẩn mà họ dùng thay vì mấy cái Kính Mách lẻo và liệu sao cho bà con lối xóm không dò ra chuyện mình khuân vô một cây đàn dương cầm.” “Tài tình thật,” cụ Dumbledore nói. “Nhưng tồn tại kiểu đó nghe cũng hơi mệt đối với một cái gối đệm cũ te tua muốn tìm một cuộc sống yên tĩnh. Này nhé, nếu anh chịu trở về trường Hogwarts...” “Nếu anh định nói với tôi là cuộc sống của tôi sẽ bình yên hơn ở cái trường thổ tả đó, thì anh nên để dành hơi, anh Albus à! Rất có thể là tôi sống ẩn dật lâu nay, nhưng mấy chuyện đồn đại khôi hài vẫn lọt vào tai tôi kể từ khi bà Dolores Umbridge ra đi! Nếu đó là cách anh đối xử với giáo viên vào những ngày này...” “Giáo sư Umbridge đã húc vô một đàn nhân mã,” cụ Dumbledore nói. “Tôi nghĩ anh, anh Horace à, anh chắc phải biết điều hơn khi rảo bước vô rừng và gọi một đám nhân mã đang cơn giận là nhân mã đồ lai căng bẩn thỉu’.” “Bà ta đã nói vậy hả?” Ông Slughorn nói. “Mụ này ngu thiệt. Chưa bao giờ ưa được.” Harry chắt lưỡi và cả cụ Dumbledore lẫn ông Slughorn đều quay lại nhìn nó. Harry vội vã phân bua: “Con xin lỗi. Chẳng qua… Con cũng chẳng ưa gì bà ấy.” Cụ Dumbledore đột ngột đứng dậy. “Anh đi hả?” ông Slughorn hỏi ngay tức thì, vẻ hớn hở đầy hy vọng. “Không, tôi đang thắc mắc là tôi có thể dùng nhà vệ sinh của anh không?” cụ Dumbledore nói. “Ồ,” ông Slughorn nói, rõ ràng là thất vọng. “Đi xuống hành lang, cửa thứ hai, bên trái.” Cụ Dumbledore rảo bước ra khỏi phòng. Khi cánh cửa đã đóng lại sau lưng, chỉ còn lại sự im lặng. Một lát sau, ông Slughorn đứng dậy nhưng dường như không biết chắc là mình định làm gì. Ông lén ngó Harry một cái, rồi đi tới bên lò sưởi và quay lưng lại để sưởi ấm tấm lưng rộng thênh thang của mình. Bỗng nhiên ông nói: “Đừng tưởng là tôi không biết tại sao lão dắt theo cậu tới đây.” Harry chỉ ngước nhìn ông Slughorn. Đôi mắt ươn ướt của ông lướt qua cái thẹo trên trán của Harry, lần này nhìn luôn cả gương mặt nó. “Cậu trông rất giống cha cậu.” “Dạ, con có nghe nói vậy,” Harry đáp. “Ngoại trừ đôi mắt, cậu thừa hưởng đôi mắt của…” “Mẹ con. Dạ, đúng vậy.” Harry đã nghe nhận xét đó thường xuyên đến nỗi nó phát mệt. “Hừm. Ừ, phải. Với tư cách thầy giáo, mình không nên có học trò cưng, dĩ nhiên rồi, nhưng con bé ấy là một trong những học trò cưng của tôi. Mẹ cáu ấy mà.” Ông Slughorn nói thêm, để đáp lại cái nhìn thắc mắc của Harry. “Lily Evans. Một trong những học sinh thông tuệ nhất mà tôi từng dạy. Lanh lợi, cậu biết đấy. Một nữ sinh duyên dáng. Tôi thường nói với trò ấy là đáng ra trò ấy phải thuộc về Nhà của tôi. Tôi cũng thường nhận được những câu trả lời rất táo tợn.” “Thầy thuộc nhà nào ạ?” “Tôi là giáo viên chủ nhiệm Nhà Slytherin,” ông Slughorn đáp. “Ôi thôi,” ông nói tiếp rất nhanh, do thấy cảm xúc hiện lên mặt Harry; ông ngoe nguẩy một ngón tay múp míp trước mặt nó. “Đừng cớ trách tôi về chuyện đó! Tôi đoán là cậu cũng thuộc nhà Gryffindor như mẹ cậu chứ gì? Ừ, thường là theo gia đình. Mặc dù không phải lúc nào cũng thế. Có nghe nói đến Sirius Black không? Ắt hẳn là cậu có nghe – đăng báo đầy ra đấy trong suốt hai năm qua – Chết cách đây vài tuần lễ.” Như thể có một bàn tay vô hình đang vặn ngoéo ruột gan Harry và bóp chặt lại. “Thôi, dù sao đi nữa hắn cũng là một người bạn lớn của cha cậu. Toàn bộ dòng họ Black đều vô Nhà của tôi, nhưng Sirius lại lọt vô Nhà Gryffindor, thật là xấu hổ. Hắn là một học sinh tài giỏi. Tôi thì được người em của hắn, Regulus, khi cậu ấy xuất hiện, nhưng tôi vẫn khoái có cả bộ.” Ông nói như thể một nhà sưu tập máu me vừa mua hụt món cổ ngoạn ở một cuộc bán đấu giá. Rõ ràng là bị chìm đắm trong ký ức, ông đăm đăm nhìn bức tường đối diện, lười nhác xoay qua xoay lại tại chỗ cho đến khi bảo đảm hơi nóng phả đều lên cả tấm lưng. “Mẹ của cậu là một phù thủy gốc Muggle, dĩ nhiên. Không thể tin nổi lúc phát hiện điều đó. Tưởng trò ấy phải thuộc dòng thuần huyết, trò ấy giỏi quá mà.” “Một trong những người bạn thân nhất của con cũng có gốc Muggle,” Harry nói. “Và bạn ấy là học sinh giỏi nhất trong lứa tụi con.” “Thỉnh thoảng xảy ra chuyện như vậy, thiệt là khôi hài hả?” ông Slughorn nói. “Không hẳn,” Harry lạnh lùng đáp. Ông Slughorn ngó xuống nó ngạc nhiên. “Cậu chớ có nghĩ rằng tôi thành kiến. Không, không, không! Chẳng phải tôi vừa nói mẹ của cậu là một trong những học trò cưng muôn thuở của tôi đó sao? Rồi nào là Dirk Cresswell trong lứa sau mẹ cậu một năm – bây giờ là Giám đốc đầu ngành Sở Liên lạc Yêu tinh, tất nhiên – một trò nữa cũng gốc Muggle, một học sinh xuất sắc, và vẫn còn cho tôi những thông tin nội bộ tuyệt vời về hiện tình ở Gringotts!” Ông Slughorn hơi nhún lên nhún xuống một tí, mỉm cười kiểu tự mãn nguyện, và chỉ vào vô số khung hình lấp lánh trên đầu tủ ngăn kéo, trong mỗi khung có hình một người tí hon đang nhúc nhích. “Tất cả cựu học sinh, đều có chữ ký. Cậu sẽ nhận thấy có Barnabas Cuffe, chủ bút tờ Nhật báo Tiên Tri, trò ấy luôn khoái nghe tôi bình luận tin tức trong ngày. Và Ambrosius Flume, tiệm Công tước Mật – cả thùng mỗi lần sinh nhật, và tất cả chỉ vì tôi đã giới thiệu hắn với Ciceron Harrykiss, người đã cho hắn công việc đầu tiên. Và ở hàng sau – cậu có thể thấy nếu cậu chịu khó nhóng cổ lên – đó là Gwenog Jones, đương nhiên là người cầm đầu tập đoàn Holyhead Harrypies... Người ta cứ luôn ngạc nhiên khi nghe tôi nằm trong danh sách khách hàng thân thiết của Harrypies, và vé miễn phí bất cứ khi nào tôi muốn!” Ý tưởng này dường như khiến ông Slughorn phấn khởi hẳn lên. “Và tất cả những người này đều biết thầy ở đâu mà tìm, mà gởi đồ cho thầy à?” Harry hỏi, nó vẫn không thể không thắc mắc tại sao bọn Tử thần thực tử vẫn còn chưa dò ra tông tích của ông Slughorn khi mà những thùng kẹo, vé coi Quidditch, và những người đến xin lời khuyên hay ý kiến đều có thể kiếm ra thầy. Nụ cười tuột khỏi gương mặt ông Slughorn nhanh y như vết máu biến mất khỏi bức tường. “Dĩ nhiên là không,” ông đáp, ngó ngó xuống Harry. “Tôi đâu có tiếp xúc với bất kỳ ai trong suốt một năm qua.” Harry có một ấn tượng là những lời nói đó khiến chính ông Slughorn cũng giật mình. Ông có vẻ bồn chồn một lúc. Rồi ông nhún vai. “Tuy nhiên... pháp sư khôn ngoan đều nhẫn nhục trong những lúc như thế. Dumbledore nói cái gì thì cũng tốt cả, nhưng nhận một vị trí ở trường Hogwarts lúc này thì cũng cầm như tuyên bố tôi đồng minh công khai với Hội Phượng hoàng! Tôi thì vẫn tin chắc họ là những người dũng cảm và đáng ngưỡng mộ và đủ thứ tốt vân vân, nhưng tôi, với tư cách cá nhân, tôi không tưởng tượng nổi tỉ lệ tử vong...” “Thầy đâu cần phải gia nhập Hội mới được dạy ở trường Hogwarts,” Harry nói. Nó không thể hoàn toàn giữ cho giọng nói của nó đừng lộ ra sự chế giễu. Thật khó mà thông cảm với cách sống bo bo giữ miếng của ông Slughorn khi nó nhớ đến chú Sirius lúc đó thu mình trong một cái hang và sống bằng những con chuột. “Phần lớn các giáo sư đâu có ở trong Hội, và chẳng có ai bị giết cả - À, trừ khi thầy tính đến Quirrel, nhưng đáng đời ông ta vì ông ta làm tay sai cho Voldermort.” Harry đã biết chắc ông Slughorn là một trong những phù thủy không thể chịu đựng nổi khi nghe tên của Voldermort được nói to lên, và nó đã không thất vọng: ông Slughorn rùng mình và kêu oai oái phản đối, nhưng Harry cứ giả nai. Nó tiếp tục nói: “Con cho rằng khi cụ Dumbledore là hiệu trưởng thì giáo ban được an toàn hơn so với hầu hết những người khác. Cụ được coi là người duy nhất mà Voldermort sợ, đúng không ạ?” Ông Slughorn nhìn đăm đăm vào khỏang không một lúc: dường như ông đang ngẫm nghĩ về những lời Harry vừa nói. “Ừ, phải, đúng là Kẻ-chớ-gọi-tên-ra chưa bao giờ tìm cách đánh nhau với Dumbledore,” ông làu bàu với vẻ miễn cưỡng. “Và tôi cho rằng người ta có thể lập luận rằng bởi vì tôi không gia nhập bọn Tử thần thực tử, thì Kẻ-chớ-gọi-tên-ra đời nào coi tôi như một người bạn... Trong trường hợp đó nếu tôi gần gũi anh Albus hơn thì có thể an toàn hơn... Tôi không thể giả bộ như cái chết của Amelia Bones không làm tôi rúng động... Nếu cô ấy, có tất cả những quan hệ và sự bỏa vệ ở Bộ Pháp thuật thế, mà còn...” Cụ Dumbledore quay trở lại căn phòng và ông Slughorn nhảy dựng lên như thể ông quên mất có cụ trong nhà. Ông nói: “A, đây rồi, anh Albus. Anh ở trong ấy lâu dữ à, bị đau bụng hả?” “Không, tôi chỉ đọc mấy tờ tạp chí Muggle,” cụ Dumbledore nói. “Tôi quả thực khoái những mẫu đan. Thôi, Harry, chúng ta lợi dụng lòng hiếu khách của anh Horace đủ lâu rồi; thầy nghĩ đã đến lúc chúng ta phải ra đi thôi.” Harry đứng phắt dậy, chẳng cần miễn cưỡng vâng lời chút nào. Ông Slughorn dường như bị dội. “Anh đi à?” “Ừ, đi thật. Tôi nghĩ có gặp thì mới hiểu thế nào là một sự nghiệp tiêu tùng.” “Tiêu tùng...?” Ông Slughorn dường như bị kích động. Ông xoay xoay hai ngón tay cái mập mạp và bồn chồn bứt rứt khi nhìn cụ Dumbledore thắt chặt tấm áo choàng đi đường, và Harry kéo dây khóa cái áo gió của nó. “Thôi vậy, tôi rất tiếc là anh đã không nhận công việc, anh Horace à,” cụ Dumbledore nói. Cụ giơ bàn tay không bị thương ra để chào giã biệt. “Trường Hogwarts sẽ rất vui mừng đón anh trở lại. Mặc dù an ninh của chúng tôi phải tăng cường ghê gớm, chúng tôi vẫn sẽ luôn rộng cửa đón tiếp anh, nếu anh muốn đến thăm trường.” “Vâng... ừ... rất tử tế... như tôi nói...” “Vậy thì, tạm biệt nhé.” “Chào thầy,” Harry nói. Hai thầy trò vừa đi tới cửa chính thì nghe một tiếng hét đằng sau lưng họ. “Được rồi! Được rồi! Tôi sẽ nhận!” Cụ Dumbledore quay lại thấy ông Slughorn đứng nín thở trong hành lang từ phòng khách ra cửa chính. “Anh sẽ không nghỉ hưu nữa?” “Ừ, ừ,” ông Slughorn nôn nóng. “Chắc là tôi điên rồi, nhưng mà, ừ.” “Tuyệt vời!” Cụ Dumbledore tươi cười, nói. “Vậy thì anh Horace à, chúng tôi sẽ đón anh vào ngày một tháng chín.” “Ừ, tôi dám nói là các anh sẽ gặp tôi vào tháng chín,” ông Slughorn lẩm bẩm. Khi hai thầy trò đi xuống con đường nhỏ băng qua vườn, giọng nói của ông Slughorn vẫn còn đuổi theo họ. “Anh Dumbledore, tôi muốn được lên lương!”