àm sao tôi có thể miêu tả được cuộc đời ở thời Trung cổ mà Marianne Engel nói là của cô, khi mà - dĩ nhiên - cô cũng như tôi, không còn sống ở thế kỷ mười bốn nữa? Thách thức không chỉ nằm ở tính thiếu chân thực trong câu chuyện, mà còn bởi tôi không còn có thể chỉ viết bằng giọng của chính mình nữa: bây giờ tôi phải viết theo cả giọng của cô. Tôi đã rất nỗ lực để viết lại câu chuyện về Engelthal chính xác theo những gì cô kể, nhưng nếu việc ghi lại những lời cô nói có gì sai sót thì rất mong được lượng thứ. Tôi đã cố hết sức rồi. Câu chuyện cũng đặt ra câu hỏi rằng Marianne Engel thực ra đã điên đến mức độ nào. Cô có thật sự tin rằng mình đã được nuôi dạy trong một tu viện thời Trung cổ không, hay cô chỉ đang cố mua vui cho một bệnh nhân bỏng? Khi tôi cố bắt cô thú nhận cô chỉ đang bịa chuyện, cô nhìn tôi như thể chính tôi mới là kẻ điên và, vì tôi muốn cô lại đến nữa, nên tôi cũng khó lòng bắt cô nói khác đi được. Cuối cùng, tôi quyết định cứ để cô kể chuyện cho tới khi sự thật bị lột trần. Tôi không phải người duy nhất nghĩ ngợi về tình trạng thần kinh của vị khách này. Bác sĩ Edwards đã đến thăm tôi với mục đích xa xôi là khuyên tôi hạn chế các cuộc viếng thăm tiếp theo của người phụ nữ mới xuất hiện trong cuộc đời tôi đây. Cuộc trò chuyện bắt đầu bằng lời cảnh báo về những rủi ro sức khỏe Marianne Engel có thể mang tới; do cô cứ lén lút vào khi các y tá không để ý và cô chẳng thèm quan tâm đến nội quy đồng phục dành cho khách thăm bệnh, ai mà biết được cô sẽ mang các thể loại vi trùng gì đến? Tôi gật gù tán thành ý kiến này nhưng bẻ lại rằng việc trông đợi một cái gì đó - một ai đó - đến thăm hiển nhiên không hại gì đến quá trình hồi phục của tôi. “Có thể là thế, nhưng anh cần phải tập trung vào việc hồi phục, chứ không phải là quan tâm tới…” Nan dừng một chút để soạn ra một cụm từ mang tính chính trị, “… những vấn đề chẳng có ích gì cho anh cả.” Bà mới nhanh nhảu làm sao khi cho tôi biết tôi cần gì, tôi nghĩ. “Tôi đã làm nghề này lâu rồi và tôi thấy gia tăng căng thẳng có thể gây hại cho bệnh nhân thế nào.” Tôi hỏi liệu có phải bà lo lắng vì khách của tôi là bệnh nhân không thường xuyên của bệnh viện không, và Nan khẳng định chuyện đó chẳng có lợi cho Marianne Engel chút nào. Tuy nhiên, bà cũng mau miệng thêm rằng họ không, hay không thể, viện cớ này để cấm cửa Marianne Engel; vì cô được đánh giá là đủ khả năng hòa nhập xã hội, thế nên cô cũng đủ điều kiện đến thăm bệnh nhân. Tuy nhiên, tôi thấy Nan có thể dùng ảnh hưởng của mình để gây khó dễ hết mức. “Tôi muốn nói với chị,” tôi đề nghị, “nếu chị cho phép cô ấy tiếp tục đến, tôi sẽ tập luyện với Sayuri chăm chỉ hơn.” “Kiểu gì thì anh cũng vẫn phải làm thế thôi.” “Nhưng mà tôi sẽ không làm thế,” tôi nói, “và chị sẽ chỉ nhận được cái chị đáng nhận được thôi.” Nan hẳn xét thấy bà sẽ không có vụ thương lượng nào tốt hơn cái tôi đang đề nghị, vì bà đã chấp nhận. Tuy nhiên, bà không thể không thêm vào, “Tôi không bắt buộc phải thích chuyện đó đâu nhé.” “Không, chị không cần phải thích đâu,” tôi nói. “Chị chỉ cần để cô ấy yên thôi.” Không lâu sau cuộc gặp với bác sĩ Edwards, Connie đến cùng một tay hộ lý để đưa tôi tới một căn phòng biệt lập, cách xa các bệnh nhân bỏng khác. Tôi hỏi cô chuyện gì đang xảy ra - chắc chắn có nhầm lẫn gì rồi. Không đâu, cô trấn an tôi, tôi sẽ có phòng riêng, theo chỉ thị của bác sĩ Edwards, dù cô không biết tại sao. Cô nói với tôi rằng tôi nên cố hưởng thụ sự riêng tư của mình khi còn có thể vì nếu điều này là một nhầm lẫn, nó sẽ nhanh chóng bị sửa chữa thôi. Thay vì mang tôi ra khỏi chiếc giường xương, họ chỉ làm mỗi việc là đẩy cả cái giường ấy xuống hành lang rồi vào một căn phòng nhỏ hơn, nhưng rất đẹp và trống không. Trống không, ấy là, cho tới khi Sayuri đến vẽ ra một bài tập mà cô muốn tôi bắt đầu luyện tập hằng ngày. “Bác sĩ Edwards bảo tôi là anh đang rất háo hức được tập những bài tập khó hơn,” cô vừa nói vừa đặt một cái ván dài bằng thành giường lên giường, dựng nghiêng cách xa tôi. Trên tấm ván xẻ một cái rãnh lấy chỗ cho cô đặt hai quả bóng bạc nặng một cân vào. Tôi phải đẩy quả bóng lên tận đỉnh ván, và rồi lại nhẹ nhàng đỡ lấy khi nó lăn xuống chân ván. Cứ thế lặp đi lặp lại. Tôi đã từng kéo những thiết bị quay phim nặng hàng chục cân đi quanh giường vào mỗi thước phim, thế mà giờ đây tôi lại phải hạ mình đẩy một quả bóng lên trên một cái ván gỗ. Tệ hơn, ngay cả nhiệm vụ đơn giản này cũng khiến tôi phải tập trung hết sức mình. Tôi có thể nhìn thấy khuôn mặt băng bó của mình phản chiếu trên mặt cong của quả bóng bạc, và tôi càng đẩy quả bóng ra xa bao nhiêu, hình ảnh phản chiếu của tôi càng chạy ra xa bấy nhiêu. Sayuri tán thưởng mọi thành công của tôi. “Hoàn hảo!” Khi chúng tôi kết thúc, cô nhẹ nhàng đẩy quả bóng như thể nó là - ừm, như thể nó là một quả bóng nặng một cân vậy. Không những làm tôi nóng mắt vì khỏe hơn tôi, người phụ nữ Nhật Bản nhỏ bé này còn làm tôi nóng mắt hơn khi cô khẽ cúi đầu chào rời khỏi phòng. Sau đó, khi bác sĩ Edwards tới bên giường bệnh của tôi, tôi đã hỏi về căn phòng riêng. Tại sao, tôi vặn vẹo, tôi lại được xài sang đến thế? Nó chẳng có vẻ gì là phần thưởng cho thái độ tốt của tôi, hay cho sự luyện tập khắt khe tôi vừa bắt đầu và sẽ còn phải tiếp tục cả. Nan, theo lời bà, đang tiến hành một nghiên cứu mà bà rất mong được xuất bản về ảnh hưởng của phòng riêng trong việc chữa trị cho bệnh nhân bỏng so với phòng chung. Bà hy vọng trường hợp của tôi có thể cung cấp thêm một số góc nhìn sâu sắc về những bệnh nhân được chuyển phòng trong quá trình điều trị, và thật may mắn làm sao khi ngẫu nhiên lại còn một phòng trống. Khi tôi hỏi liệu điều này có đồng nghĩa với việc một lúc nào đó tôi có thể bị chuyển lại về phòng chung không, bà chỉ nói là vẫn chưa biết được. Tôi trấn an bà rằng tôi rất vui được làm con chuột thí nghiệm bé bỏng bị cách ly cho bà chừng nào bà muốn, nhưng có chua thêm: “Chị chắc là không còn điều kiện nào nữa chứ?” Bà nghĩ một chút, rồi quyết định hé thêm một sự thật - điều mà tôi đã đoán từ trước: “Anh cứ thoải mái tiếp nhận những cuộc viếng thăm của cô Engel, nhưng tôi thấy cô ấy không có lý do nào để đến thăm những bệnh nhân khác.” Tôi nói rằng tôi rất cảm kích sự quan tâm của bà dành cho những người khác, và bà gật đầu. Khi cả hai đều thấy rõ là chẳng còn gì để nói thêm, bà lại gật đầu cái nữa rồi nhanh chóng rời phòng. Những chuyến thăm của Marianne Engel càng thêm phần thú vị vì giờ chỉ có hai chúng tôi, chẳng cần phải kéo rèm nhựa, và vì các bác sĩ đã thôi không bắt cô mặc đồng phục bảo vệ nữa. Quần áo thường ngày của cô được chấp nhận, phần vì tôi đang dần trở nên khỏe hơn và việc mặc đồng phục không còn bắt buộc nữa, nhưng, có lẽ quan trọng hơn, đó là vì đội ngũ y tá bác sĩ đã quá ngán cái cảnh cứ phải tranh luận với cô rồi. Marianne Engel là một vị khách mà tất cả bọn họ đều đồng lòng phản đối nhưng tôi lại đấu tranh để được có, cho nên tôi nghĩ họ đã quyết định là có rủi ro gì thì tôi tự đi mà chịu lấy. Giờ đây khi đã có thêm nhiều không gian riêng, những cuộc chuyện trò của tôi với Marianne Engel ngày càng đa dạng: làm thế nào để nấu món mì lasagna chay; những trò chơi gì đang được tổ chức tại lễ hội ở Hamburg; vẻ đẹp buồn bã của bản giao hưởng cung D thứ dành cho kèn Oboe của Marcello; tập quán định cư của thổ dân da đỏ vùng duyên hải phía Tây nước Mỹ; vì sao người ta lại hát trong các ban nhạc rock; giá trị của văn học Canada trên tương quan so sánh với văn học Nga; khí hậu khắc nghiệt đã hình thành phẩm chất con người như thế nào; lịch sử nạn mại dâm ở châu Âu; vì sao người ta lại đam mê ý tưởng trong album “Heavyweight Champion of the World” của ban nhạc rock Reverend and The Makers; những cuộc hội thoại có thể diễn ra giữa một thành viên của giáo phái Nhân chứng Jehovah với một nhà khảo cổ học; và cả kẹo cao su giữ được hương vị trong cổ họng bao lâu. Những năm tháng thăm thú thư viện quả rất có ích cho tôi. Tôi hỏi về Ba Vị Chủ Nhân của cô, và hỏi kháy rằng liệu những đấng phù trợ ấy có được nhiều nữ tu Trung cổ biết đến không. Cô nghiêm túc trả lời rằng không hề có chuyện đó nhưng thực tế thì Heinrich Seuse cũng có Ba Vị Chủ Nhân mà ông cần có được sự đồng thuận (với cùng bài kinh tiếng Latin cô đã dùng) khi muốn nói chuyện với họ. Cha Sunder luôn mặc áo rơm và rất hay tự xỉ vả bản thân, gọi chính mình là kẻ tội đồ - chủ yếu là vì “những tội ác thời trai trẻ của ông”, gì cũng được - và luôn cầu xin tha thứ. Ông tin rằng mình bị “ô nhiễm” bởi những việc đã làm trước khi theo đạo. Ông không hay làm những trò này trước mặt tôi nhưng, khi ông làm thế, huynh trưởng Heinrich sẽ lặng lẽ đứng nơi góc phòng với đôi mắt long lên sòng sọc. Dù trách cứ bản thân nhưng cha Sunder không bao giờ ngần ngại tha thứ cho người khác. Và ông có giọng nói, giọng nói ngọt ngào nhất bạn có thể tưởng tượng được. Khi ông nói, ta không thể không nghĩ rằng không chỉ mình ông mà cả Chúa cũng yêu ta. Xơ Christina - tôi thậm chí không biết phải bắt đầu từ đâu. Bà quả thật là một người phụ nữ lạ lùng. Bà sinh vào ngày thứ Sáu Tuần Thánh, dấu hiệu đầu tiên của những ân huệ đến trong đời bà. Mọi người đều nói trong tất cả những đại diện của Chúa trên trái đất này, bà là một trong mười lăm người được ưu ái nhất. Khi còn nhỏ, tôi chưa một lần nghi ngờ tính chân thực của điều đó, chỉ đến mãi sau này tôi mới tự hỏi làm sao một điều như thế lại có thể đem ra định lượng được. Những ảo giác và tài văn chương của xơ Christina đã làm tu viện nức tiếng thơm. Bà sáng tác luôn tay và viết nên hai kiệt tác - Khải huyền và Sách về các xơ tại Engelthal, lịch sử về những vị nữ tu có vai trò trọng yếu trước thời chúng tôi. Các tác phẩm của bà đã khơi nguồn cảm hứng sáng tác cho những người khác trong tu viện. Ví dụ, xơ Gertrud của phòng viết đã cho ra lò Cuộc đời nữ tu Gertrud tại Engelthal với sự giúp đỡ của huynh trưởng Heinrich và huynh trưởng Cunran nhưng, thành thật mà nói, tôi luôn có cảm giác cuốn sách ấy được viết với nỗ lực chính là thêm mắm thêm muối cho cái truyền thuyết của chính bà mà thôi. Gertrud có một thói quen rất kỳ lạ là không ngừng nuốt không khí. Thật không thể không để ý và cũng không thể không ghét được. Người ta nói mẹ bà đã sinh tám cậu con trai trước khi sinh bà, toàn là đẻ khó, nhưng khi sinh Gertrud thì không tốn chút sức lực nào. Có lẽ bạn sẽ băn khoăn chuyện đó thì có ảnh hưởng gì, nhưng ngay từ đầu nó đã đặt Gertrud ngang hàng với Chúa vì sự ra đời của Người cũng được cho là không hề đau đớn - việc sinh nở cũng thuần khiết như sự thụ thai. Mọi người đều nói em bé sơ sinh Gertrud không bao giờ bú mẹ; cô bé có vẻ thích húp không khí soàm soạp như thể đang hút trực tiếp dòng sữa ngọt ngào thần thánh từ đó vậy. Tôi luôn ngờ rằng việc bà cả đời nuốt không khí chẳng qua chỉ để không ai quên được câu chuyện ấy mà thôi. Trong tất cả những cuốn sách được viết vào thời kỳ cảm hứng này, cuốn sách tôi yêu thích nhất là Gnaden(19) - cuộc đời của Friedrich Sunder. Ừm, tôi thích nó nhưng không thích những việc xảy đến với nó chút nào. Sau khi cha Sunder mất, cuốn sách bị đem đi chỉnh lý và rồi toàn bộ phần đề cập đến tôi bị xóa bỏ, ấy là chưa kể còn những gì gì nữa. Không phải lòng tự tôn của tôi bị xúc phạm, mà tôi đã - vẫn đang - bị xúc phạm vì họ đã hủy hoại ý định của ông. Dù thế nào đi nữa, họ là những người sống quanh tôi khi tôi còn nhỏ. Một lần tôi hỏi xơ Christina khi nào tôi sẽ được phép ra ngoài sống, thì bà trả lời là không bao giờ - nhưng đó không phải chuyện đáng phiền não mà là một món quà cần được ăn mừng. Chúa đã rất rộng lượng khi hé lộ kế hoạch của Người cho tôi ngay từ khi tôi mới ra đời, ngay lập tức đặt tôi vào Engelthal. Không một nữ tu nào khác, kể cả bản thân Christina, được phép dành cả đời mình trong vinh quang được phụng sự Chúa. “Con mới may mắn làm sao,” bà nói, báo hiệu câu chuyện đã đến hồi kết thúc. Mọi người đều kỳ vọng khi trưởng thành tôi cũng sẽ bắt đầu cầm bút. Kỳ vọng này được nhen nhóm khi tôi biết nói rất sớm và học tiếng Latin cũng dễ dàng như tiếng mẹ đẻ vậy. Hiển nhiên là tôi không thể nhớ được, nhưng họ nói tôi hầu như không phải tập nói từng từ đơn một trước khi bắt đầu nói một câu hoàn thiện. Anh phải hiểu, thời đó, trẻ con về cơ bản được coi như một người lớn chưa hoàn thiện. Bản chất của một đứa trẻ không phải thứ có thể phát triển, vì tâm tính đã được xác định ngay từ lúc mới sinh; thời thơ ấu là quá trình giúp trẻ bộc lộ bản thân, không phải để phát triển bản thân, vì thế khi khả năng ngôn ngữ của tôi xuất hiện, nó nghiễm nhiên được coi như luôn tồn tại, được Chúa đặt sẵn ở đó, chờ được khám phá mà thôi. Tôi yêu những vị khách đến thăm Engelthal. Dân địaay tôi vì dám nói thế nhưng hiển nhiên vẫn dịch cho mẹ mình từng từ một. Mẹ cô gật đầu lia lịa, tỏ vẻ rất đồng tình: “So,so,so,so,so,so,so!” Trong suốt lúc ấy bà cứ lấy tay che miệng, như thể cố nén cười. Khi câu chuyện của chúng tôi sắp đến hồi kết thúc, bà Mizumoto cúi đầu chia buồn lần cuối. Khi ngẩng đầu lên, bà nở một nụ cười đầy hy vọng, đặt tay mình lên bụng của Sayuri, và nói, “Rinne tenshou.” Sayuri khá vất vả khi phải dịch câu này, cô gợi ý câu này có thể hiểu là “Tất cả mọi thứ đều quay trở lại” hoặc “Cuộc sống luôn luôn lặp lại.” Sayuri nói thêm đây là kiểu nói quen thuộc của các bà già Nhật Bản khi họ nghĩ mình hiểu tư tưởng đạo Phật hơn thực tế. Tôi có thể đoán, từ cái nhìn khó chịu bà ném cho con gái, rằng bà Ayako hiểu nhiều tiếng Anh hơn những gì bà thể hiện. Nhưng khi quay lưng đi, hai người họ đã ôm chặt lấy nhau. Bà Ayako có vẻ nhanh chóng tha thứ cho con gái về câu nhận xét về các bà già Nhật Bản, và Sayuri cũng mau mắn tha thứ cho mẹ mình về chuyện cười trước cái hình ảnh sóc chuột của Gregor. Sau khi Marianne Engel biến mất, các nhà chức trách đã tìm kiếm khắp dọc bờ biển trong suốt ba ngày nhưng chẳng tìm được thi thể nào. Chẳng có gì ngoài những ngọn sóng đơn côi giữa đại dương mênh mông. Vấn đề với biển cả là bạn không thể lục tung nó lên được, và như thể là đại dương đã xóa bỏ hoàn toàn mọi bằng chứng về sự sống của cô nhưng lại không đưa ra một xác nhận nào về việc cô đã ch...t hay chưa. Marianne Engel không có bảo hiểm nhân thọ, nhưng mọi nghi ngờ kiểu gì cũng đổ dồn về tôi. Chẳng trách được: chưa đầy sáu tháng trước khi biến mất, cô đã thay đổi chúc thư và điền tên tôi vào chỗ người thừa kế chính. Tình huống này không làm các ông cảnh sát hài lòng cho lắm, đặc biệt là việc tôi đã ở cùng cô khi cô biến mất. Họ thẩm vấn tôi liên hồi nhưng cuộc điều tra đã chỉ ra rằng tôi chẳng hề biết đến sự tồn tại của bản di chúc ấy, và đám thanh niên ngồi uống bia trên bờ biển cũng làm chứng rằng việc “gã bỏng” và “cô nàng xăm mình có mái tóc kỳ cục” ra biển vào ban đêm là chuyện thường. Cô ấy thường đi bơi, họ xác nhận thế, dù thời tiết có thế nào chăng nữa. Vào cái đêm bất thường ấy, tôi chẳng làm gì ngoài ngồi trên bãi biển nhìn con chó chạy vòng quanh cả. Jack cũng nói hộ tôi. Lời của bà có trọng lượng đặc biệt vì bà không những là người bảo hộ cho Marianne Engel mà còn là người đã bị tôi thế chân trong bản di chúc. Bất chấp điều này, Jack vẫn nói tốt về tôi và tuyên bố với cảnh sát rằng bà không nghi ngờ gì về tình yêu giữa tôi và Marianne Engel. Dù đã xác nhận là tôi chẳng biết gì về chuyện thay đổi di chúc, bà cũng nói thêm, “Tôi nghĩ mình sẽ có nhiều thời gian để nói chuyện phải trái cho Marianne loại chuyện đó ra khỏi đầu. Tôi không hề nghĩ cô ấy lại ch...t sớm như vậy.” Jack Meredith có thể nói những từ mà tôi không thể viết ra. Những từ như là ch...t. Những từ như là tự tưưử. Những từ ngữ đó làm tôi trở nên hèn nhát. Viết chúng ra chỉ khiến sự thật thêm rõ ràng. Công việc giấy tờ pháp lý kéo dài gần hết mùa hè, nhưng thực tế tôi chẳng bận tâm chút nào. Tôi chẳng quan tâm việc cảnh sát quyết định gì về trách nhiệm của tôi trong việc Marianne Engel biến mất và tôi cũng không đoái hoài mấy ông luật sư nói gì về bản di chúc. Cuối cùng, Jack đã phải thuê một luật sư đứng ra hộ tôi, bởi vì nếu không được tư vấn, tôi sẽ lại ký tất cả những giấy tờ bày ra trước mặt mình, y như hồi tôi ở trong bệnh viện khi hay tin công ty sản xuất phim của mình đã phá sản. Marianne Engel đã để lại gần như tất cả cho tôi, bao gồm ngôi nhà và mọi thứ bên trong. Thậm chí cả Bougatsa. Jack, dù đã dành bao năm tháng giúp Marianne Engel quản lý công việc kinh doanh, chỉ nhận được những bức tượng hiện đang ở sẵn trong phòng triển lãm của bà. Trong một bộ sưu tập hộp giày cất phía sau một cái tủ quần áo, tôi đã tìm thấy những sổ tài khoản ngân hàng cất hàng trăm nghìn đô la, giờ thuộc về tôi. Marianne Engel hoàn toàn không nợ nần gì hết, có lẽ vì không cơ quan hành chính nào dám mạo hiểm cho cô nợ cả. Tôi cũng phát hiện ra một loạt hóa đơn tiết lộ sự thật về căn phòng riêng trong bệnh viện của tôi. Đó không phải, như Nan đã nói lúc ấy, là một “sự ngẫu nhiên may mắn” khi có một phòng trống và bà đã sử dụng nó để nghiên cứu tỷ lệ hồi phục của những bệnh nhân được ở phòng riêng so với những những bệnh nhân ở phòng chung. Và cũng không phải, như tôi đoán hồi đó, là tôi bị tống vào phòng riêng chủ yếu để Nan có thể tách Marianne Engel ra khỏi những bệnh nhân khác. Sự thật là Marianne Engel đã trả tiền thuê cái phòng trống đó để cô có thể kể chuyện cho tôi nghe mà không bị quấy rầy. Cô chỉ không nói với tôi mà thôi. Không thứ gì tôi được thừa kế thực sự thuộc về tôi cho tới vài năm nữa, bởi vì người ta chưa tìm được thi thể của cô. Chỉ sau một khoảng thời gian thích hợp thì một “giấy chứng t... giả định” mới được cấp cho Marianne Engel, và cho đến khi đó thì mọi tài sản của cô sẽ được giao cho một người thứ ba trông coi. May mắn thay, tòa quyết định tôi có thể tiếp tục sống tại pháo đài vì nó vốn đã là nơi cư trú chính của tôi khi cô mất tích rồi. Những tờ báo địa phương, và thậm chí cả vài tờ quốc tế, đã đăng những bài ngắn về sự biến mất của một nữ nghệ nhân tạc tượng có vấn đề thần kinh nhưng lại cực kỳ tài năng. “Được xem là đã ch...t,” họ đều nói vậy. Vì chẳng có gì giúp nghệ sĩ nổi danh hơn là một kết cục bi thảm, Jack đã bán được những bức tượng còn lại trong phòng triển lãm với một tốc độ kỷ lục. Dù đã phá luật, tôi vẫn đưa cho Jack hầu hết chỗ tượng còn lại ở pháo đài. (Tôi chỉ giữ lại bức tượng của chính mình, và một vài bức tượng tôi thích.) Luật sư của tôi khuyên tôi không nên làm thế, nhưng các ông cảnh sát có vẻ không hề theo dõi mọi hoạt động của tôi. Những chiếc xe tải vẫn luôn đến và đi, vì thế chẳng có ai trong vùng để ý gì đến việc có thêm một vài bức tượng nữa được chở đi cả. Khi Jack mang séc đến trả, trừ đi phần tiền hoa hồng của mình, tôi ấn chỗ tiền lại vào tay bà. Bà xứng đáng có nó hơn tôi. Và dù tài khoản ngân hàng đã bị đóng băng, tôi vẫn có đủ tiền để sống. Marianne Engel, dù rất hay nghĩ lung tung, đã thấy trước khả năng có thể mình sẽ không luôn ở bên để trả các hóa đơn cho tôi. Sau khi cô mất tích, tôi đã tìm thấy một phong bì gửi cho tôi, chứa một chiếc chìa khóa mở một két an toàn cô đã sắp xếp để tôi có thể rút tiền được. Khi tôi mở két, tôi phát hiện ra rằng nó chứa nhiều hơn cả số tiền cần thiết để trang trải cho các nhu cầu của tôi cho tới khi chúc thư có hiệu lực. Có hai thứ nữa ở trong két. Rốt cuộc thì cảnh sát cũng đi đến kết luận rằng tôi không liên quan gì đến việc Marianne Engel biến mất. Nhưng họ sai rồi. Tôi đã giết Marianne Engel. Tôi đã giết cô rõ ràng như cầm một khẩu súng hoặc đổ một lọ thuốc độc vậy. Khi cô đi về phía biển, tôi đã biết cô không định đi bơi. Tôi đã biết cô sẽ không quay trở lại, và tôi sẽ không giả vờ nữa. Tuy thế, tôi đã không làm gì cả. Tôi đã không làm gì cả, như cô từng yêu cầu tôi làm thế, để chứng tỏ tình yêu của mình. Tôi có thể cứu cô chỉ bằng vài lời nói. Nếu tôi bảo cô đừng bước xuống nước, cô sẽ không thực hiện kế hoạch của mình. Tôi biết thế. Cô sẽ phải quay lại với tôi, bởi vì Ba Vị Chủ Nhân của cô đã nói rằng tôi cần phải chấp nhận trái tim của cô nhưng rồi sẽ giải phóng cho nó, để giải thoát cho cô. Mọi nỗ lực ngăn cản cô sẽ cấu thành lời từ chối để giải phóng cô, vì thế tất cả những gì tôi phải nói là “Marianne, quay lại đi.” Tôi đã không làm thế, và giờ đây tôi suy sụp khi nhận ra rằng tôi đã không nói ba từ đơn giản có thể cứu mạng cô. Tôi suy sụp vì biết rằng tôi đã không cố đưa cô tới tòa để bắt cô nhập viện, rằng tôi đã không cố hết sức cho thuốc vào thức ăn của cô, rằng tôi đã không còng cô vào giường mỗi khi việc tạc tượng của cô vượt ra khỏi tầm kiểm soát. Thực sự có bao nhiêu hành động có thể ngăn cô khỏi ch...t, tôi đã không làm gì cả. Marianne Engel tin rằng cô đã giết tôi bảy trăm năm về trước, với mục đích nhân đạo, nhưng đó chỉ là câu chuyện cô hư cấu mà thôi. Sự thực là tôi đã giết cô chính trong kiếp này: không phải vì lòng nhân đạo, mà vì không làm gì cả. Trong khi cô tin rằng mình đang tự giải phóng bản thân khỏi ràng buộc trói chặt những trái tim ăn năn hối cải của mình, tôi đã tỉnh táo hơn. Tôi không bị tâm thần phân liệt. Thế mà tôi vẫn giữ im lặng. Vô dụng. Sát nhân. Tôi đối mặt với sự thật này vài phút mỗi ngày, nhưng đó là tất cả những gì tôi có thể chịu được. Thỉnh thoảng tôi còn định viết ra giấy trước khi cảm xúc trôi tuột đi, nhưng bàn tay tôi cứ luôn run lên bần bật trước khi tôi có thể để những con chữ thoát ra. Chẳng mấy chốc tôi lại tiếp tục tự lừa dối, cố gắng thuyết phục bản thân rằng quá khứ của Marianne Engel có thật chỉ bởi vì cô đã quá tin vào nó. Quá khứ của tất cả mọi người, tôi cố lý lẽ, chẳng là gì ngoài bộ sưu tập những ký ức người đó chọn để nhớ. Nhưng tận sâu trong tim mình, tôi biết đó chỉ là một cơ chế tự vệ tôi tạo ra để tôi có thể tiếp tục sống. Tất cả những gì tôi phải nói là, “Marianne, quay lại đi.” Từ paleography bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp, palais (cổ) và graphia (bản thảo), thế nên chẳng có gì ngạc nhiên khi các nhà nghiên cứu chữ cổ lại đi nghiên cứu văn bản. Họ phân loại sổ sách bằng việc kiểm tra nét chữ (kích cỡ, độ nghiêng cách đưa bút) và cả chất liệu viết nữa (giấy cói hoặc giấy da, giấy cuộn hoặc giấy khâu, các loại mực.) Những nhà nghiên cứu chữ cổ giỏi có thể xác định được số người làm việc trên một bản thảo, có thể đoán định được kỹ thuật của họ, và thậm chí còn có thể xác định bản thảo đó được làm tại vùng nào. Đối với những văn bản tôn giáo, họ không những chỉ ra được một tu viện cụ thể nào đó mà thỉnh thoảng còn có thể chỉ ra đích danh người viết nữa. Tôi đã nhanh chóng tìm được hai trong số những nhà nghiên cứu chữ cổ giỏi nhất thế giới: một là chuyên gia về các tài liệu thời Trung cổ của Đức và một là chuyên gia về các tài liệu thời Trung cổ của Ý. Tôi thuê họ kiểm tra những thứ tôi đã tìm được, cùng với chỗ tiền, ở trong két an toàn. Hai bản Địa ngục đều được viết tay nhưng bởi hai người khác nhau: bản đầu tiên bằng tiếng Ý và bản thứ hai bằng tiếng Đức. Cả hai, trước con mắt không chuyên của tôi, đều có hàng trăm năm tuổi. Trước khi nói cho hai nhà nghiên cứu chữ cổ là tôi muốn kiểm tra cái gì, tôi đã bắt họ ký giấy cam kết tuyệt đối không được tiết lộ bất cứ điều gì. Cả hai người đều thấy đề nghị của tôi rất bất bình thường, thậm chí còn nực cười, nhưng đều đồng ý. Tò mò nghề nghiệp, ta có thể đoán vậy. Nhưng khi tôi đưa hai cuốn sách ra, cả hai người đều nhận ra ngay lập tức rằng họ đã được trao một thứ cực kỳ đặc biệt. Người Ý buột một câu chửi thề, còn góc miệng người Đức thì méo xệch đi. Tôi thì tỏ vẻ hoàn toàn mù tịt trước nguồn gốc của hai cuốn sách, chẳng nói gì về việc có được chúng từ đâu cả. Bởi vì Địa ngục đã tạo được tiếng vang ngay lập tức với độc giả, nó là một trong những tác phẩm còn lưu lại được nhiều bản nhất từ thế kỷ mười bốn. Nhà nghiên cứu chữ cổ người Ý không mấy nghi ngờ phiên bản của tôi là một trong những bản ra đời sớm nhất, có lẽ được làm trong thập kỷ cuốn sách được xuất bản lần đầu tiên. Ông ta nài nỉ tôi cho phép mình công bố phát hiện đó với những chuyên gia khác, nhưng tôi từ chối thẳng thừng. Chuyên gia Đức không nhanh chóng xác định tuổi của bản dịch, một phần là vì những kiểm tra ban đầu của ông ta cho những kết quả trái ngược nhau đến khó tin. Đầu tiên, ông ta đã băn khoăn là tại sao một bản thảo được bảo quản tốt thế này lại không được ai biết tới trong một thời gian lâu như vậy. Thứ hai, có vẻ như một người đã dịch toàn bộ tác phẩm ấy, một điều rất bất bình thường với một tác phẩm dài như vậy. Thứ ba, ai đã tạo nên tác phẩm ấy phải là người cực kỳ tài năng. Bản thảo được viết bởi một nét chữ rất đẹp, mà bản thân bản dịch cũng tuyệt vời hơn hầu hết, nếu không nói là tất cả, những phiên bản hiện đại. Nhưng điểm thứ tư mới thật là đánh đố người ta: những thứ có liên quan đến bản thảo - giấy da, mực, nét chữ - đều dẫn đến kết luận là nó được viết tại vùng sông Rhine của Đức, có lẽ sớm nhất là khoảng nửa đầu thế kỷ mười bốn. Nếu điều này là thật - dù rằng rất khó có thể như thế - thì bản thảo của tôi đã tồn tại trước mọi bản dịch Địa ngục bằng tiếng Đức từng được biết tới hàng thế kỷ. “Vậy anh thấy đấy, tôi hẳn là đã nhầm lẫn đâu đó.” Ông ta run lên. “Hẳn là thế! Trừ phi… trừ phi…” Ngài chuyên gia Đức yêu cầu được chiếu xạ lên cả giấy da lẫn mực viết. Khi tôi đồng ý, khuôn mặt ông ta lộ vẻ sung sướng tột đỉnh đến nỗi tôi tưởng ông ta sắp ngất đến nơi. “Danke, danke schon, ich danke Ihnen vielmals!” Khi quá trình kiểm tra đã hoàn tất và các trang giấy được xác định niên đại là vào năm 1335, trên dưới hai mươi năm, tâm trạng của ông người Đức còn phấn khích hơn. “Đây là một khám phá vĩ đại hơn tất cả những gì tôi đã… tôi đã…” Ông ta thậm chí chẳng thể nói hết câu vì ngất ngây sung sướng; bản dịch ra đời trong khoảng vài chục năm sau bản gốc tiếng Ý. Tôi quyết định nghiên cứu thêm chút nữa cũng chẳng hại gì, và tôi thậm chí còn cho ông người Đức manh mối tìm kiếm tiếp: tôi gợi ý là ông ta có lẽ sẽ muốn tập trung điều tra về phòng viết tại Engelthal. Mồm ông người Đức lại méo xệch ra, và ông ta tiếp tục quay lại làm việc. Khi liên lạc lại với tôi vài tuần sau đó, ông ta dường như đã chịu chấp nhận thực tế là mình đang nghiên cứu một vấn đề không thể hoàn thành được. Phải, ông ta xác nhận, tác phẩm có rất nhiều dấu hiệu cho thấy nó đã được viết tại Engelthal. Và phải, bản thảo có rất nhiều minh chứng cho thấy nó được thực hiện bởi một người chép sách đặc biệt đã có những đóng góp rõ ràng vào những năm khoảng từ 1310 cho tới 1325. Thực tế, người chép sách này luôn là một bí ẩn với những học giả nghiên cứu tôn giáo và những hiện tượng kỳ bí người Đức: dấu vân tay của cô ấy có mặt trên hàng loạt tài liệu quan trọng. Tài năng của cô ấy vượt xa tất cả những người cùng thời, vậy mà tên cô ấy thì chẳng thấy ở đâu cả. Một bí mật như thế chỉ có thể được giữ kín nếu có sự hợp sức của cả nữ tu viện trưởng lẫn nữ trưởng phòng viết tại thời điểm đó, nhưng vì Engelthal cũng là một tu viện nổi tiếng văn chương, câu hỏi lớn ở đây là: người nữ tu này có gì đặc biệt mà lại bị che phủ bởi một màn sương bí mật đến thế? Ria mép của ông người Đức dường như đang nhảy múa khi ông ta nói tất cả những chuyện này nhưng ông ta cũng thừa nhận là có một số điểm mâu thuẫn với giả thiết Engelthal. Chất lượng những tờ giấy da này khác với giấy của những văn bản khác trong tu viện, và mực cũng có vẻ có những thành phần hóa học khác. Thế nên dù người viết có lẽ xuất thân từ Engelthal, ông người Đức giải thích, chất liệu vật chất thì lại không thế. Và - liệu ông ta có cần phải nói thêm điều này không? - Engelthal hầu như không thể liên quan tới tuyệt tác thơ văn của Dante. “Nó không phải là thứ mà người ở đó hay làm, nếu anh hiểu tôi muốn nói gì. Không chỉ vì nó được viết bằng tiếng Ý, mà còn vì thời bấy giờ nó còn là một thứ cực kỳ báng thánh bổ thần nữa.” Ông người Đức hỏi, có vẻ khá ngây ngô, rằng liệu tôi có chút “gợi ý” nào cho ông ta nữa không? Hóa ra là có. Tôi gợi ý rằng ông từ giờ nên chuyển hướng chú ý của mình từ Engelthal sang thành phố Mainz, đặc biệt chú ý tới những cuốn sách được xuất bản tư nhân từ khoảng giữa những năm 1320. Người viết ấy, tôi nói, có lẽ đã viết sách dưới cái tên là Marianne Engel. Cặp lông mày rậm rì của ông người Đức nhíu lại dưới sức nặng của nguồn thông tin mới này và ông ta nài nỉ được biết tại sao tôi có thể đưa ra những lời chỉ dẫn cụ thể đến thế. Tôi nói rằng đấy chỉ là linh cảm thôi. Ông ta dành gần hết tháng để tìm những bản thảo nằm trong phạm vi tôi đã đề ra. Ông ta thường xuyên gọi điện, thỉnh thoảng là để cập nhật tiến độ nhưng thường là để phàn nàn về việc hợp đồng tuyệt mật đã làm chậm mọi việc. “Anh có biết là kiếm những tài liệu đó khó thế nào khi tôi không thể nói được là tôi kiếm chúng để làm gì không? Anh nghĩ là tôi cứ thế mà ra thư viện rồi kiếm sách từ thế kỷ mười bốn à?” Tôi có thể thấy rằng ông ta sắp sửa nói với các đồng nghiệp của mình, dù tôi có đồng ý hay không, vì thế tôi tuyên bố là cuộc điều tra của ông ta nay đã kết thúc. Tôi nghĩ ông ta sẽ đấm cho tôi một cú vào mặt, nhưng thay vào đó là một màn xin xỏ ỉ ôi: “Đây là một trong những phát hiện cực kỳ quan trọng của cả ngành nghiên cứu này… một sự kiện ngoài sức tưởng tượng… thay đổi toàn bộ những gì chúng ta nghĩ về lịch sử dịch sách của người Đức…” Khi tôi tiếp tục từ chối, ông ta liền đổi giọng. Ông ta nài nỉ xin được nghiên cứu thêm vài ngày và tôi thề rằng ông ta thậm chí còn nháy mắt với tôi nữa kia. Tôi cũng chối luôn yêu cầu này, biết chắc là ông ta sẽ dùng khoảng thời gian đó để làm một bản copy chất lượng cao. Khi tôi đòi lấy lại bản thảo của mình ngay giây phút đó, ông ta đã dọa là sẽ công bố tất cả những gì ông ta biết. “Một bản hợp đồng đầy đủ tính pháp lý cũng chẳng là gì so với một món quà tuyệt vời đến thế này cho thế giới văn chương!” Tôi nói với ông ta rằng tôi rất trân trọng cảm xúc của ông ta; tuy nhiên, tôi vẫn có thể kiện cho ông ta phá sản nếu ông ta dám hé nửa lời. Nghe thấy điều này, ông ta đã hậm hực nói rằng lẽ ra Dante phải thêm một tầng Địa ngục cho những kẻ “ghét sách” như tôi đây. Trong nỗ lực cố làm nguôi ngoai phần nào cái tôi của ông ta, tôi đảm bảo với ông ta rằng nếu có khi nào đó công bố bản dịch tiếng Đức của tác phẩm Địa ngục, tôi sẽ công nhận cho cả thế giới biết những nghiên cứu ông ta đã thực hiện. Thực tế là, tôi sẽ mời ông ta xuất bản những nghiên cứu của mình cùng lúc ấy, thế là ông ta sẽ không hề bị tước quyền công bố những phát hiện mang tính hàn lâm của mình. Và rồi ông người Đức đã làm tôi cực kỳ ngạc nhiên. “Tôi chẳng quan tâm anh có cho thêm thông tin gì của tôi vào hay không. Phát hiện này quan trọng đến mức không thể bị giấu đi được.” Cho tới tận hôm nay, tôi vẫn chưa biết phải làm gì với hai cuốn Địa ngục mà Marianne Engel đã để lại cho tôi. Khi cảm thấy đặc biệt phấn khích, tôi sẽ tự nhủ rằng tôi sẽ mang bản tiếng Đức cùng xuống mồ, phòng khi tôi có thể gặp được Francesco Corsellini lần nữa để trả lại cuốn sách này cho cha anh. Tôi giữ lại những ngón chân giả nhưng từ chối lắp ngón tay giả; những ngón chân giúp tôi giữ thăng bằng, trong khi những ngón tay chẳng được ích lợi gì. Hơn nữa, với một thân thể như của tôi đây, việc dùng những ngón tay giả cũng y như việc thay đèn pha cho một cái ô tô nát vậy. Vẫn có một số thủ thuật tôi có thể thực hiện để cải thiện diện mạo của mình, vài cuộc tiểu phẫu hoặc chỉnh hình thẩm mỹ để là phẳng các mô sẹo gồ ghề nhất của tôi. Phẫu thuật thẩm mỹ giúp tái tạo tai tôi bằng cách dùng sụn xương sườn, hoặc cung cấp tai giả giống tai thật. Nhưng, cũng như ngón tay giả, tai giả thiếu mất tác dụng thực tế: sụn hoặc tai nhựa đặc biệt không thể giúp tôi có lại thính giác như trước kia. Trên lý thuyết chúng sẽ giúp tôi trông giống người hơn bằng việc làm tôi trông “bình thường” hơn, nhưng khi tôi thử đeo cái tai giả lên, tôi trông chẳng khác gì Ngài Đầu Khoai Tây cả. Về chuyện phẫu thuật tái tạo dương vật mới, tôi vẫn chưa có ý định thực hiện. Có lẽ một ngày nào đó tôi sẽ làm, nhưng giờ tôi đã chịu đủ loại phẫu thuật rồi. Tôi mệt. Thế là gần đây tôi nói với bác sĩ Edwards, đơn giản là: “Đủ rồi.” “Tôi hiểu,” bà nói. Và rồi cái nhìn ấy lại hiện lên trên gương mặt của Nan, cái nhìn tôi đã quá rõ, cái nhìn bà thể hiện khi đang cân nhắc lợi hại của việc nói thật hay cứ giữ im lặng. Theo thói quen, bà lại chọn sự thật. “Có lần anh đã hỏi tại sao tôi lại chọn làm việc trong khoa bỏng. Tôi sẽ cho anh xem một thứ tôi chưa bao giờ cho một bệnh nhân nào khác xem.” Bà cởi cái áo choàng trắng ra và kéo áo sơ mi lên, để lộ ra một vết sẹo lồi to tướng trùm cả nửa phải người bà. “Chuyện xảy ra khi tôi mới có bốn tuổi. Tôi đã làm đổ ấm nước khỏi bếp. Những vết sẹo của chúng ta đã làm nên chúng ta ngày hôm nay.” Và rồi bà rời phòng làm việc. Thế là tôi bị bỏ lại với cái đầu lâu giữa vùng cát bụi của thời đại Tuyệt vọng. Đỉnh đầu tôi trông y như những cánh đồng khô cằn sau trận bão, chất đầy những đống đất bùn bẩn thỉu. Có những mảng màu nhạt, ánh lên sắc đỏ và nâu. Tất cả đều khô khốc và nghèo nàn, như thể làn da đã đợi hàng năm trời mà mưa vẫn chưa tới. Vài cọng tóc bướng bỉnh rung rung trên vùng da đầu nhăn nheo sần sùi của tôi, như những cọng cỏ dại cố sống tiếp mà không biết rằng định mệnh của chúng là phải chết. Khuôn mặt tôi là cánh đồng sau khi những gốc rạ đã bị đem đi đốt. Môi của tôi, từng rất đầy đặn, giờ mỏng dính như những con giun chết khô. Biết thuật ngữ y học miệng nhỏ bất thường cũng chẳng giúp làm môi tôi đỡ xấu xí đi. Tuy thế, tôi vẫn thích đôi môi này hơn đôi môi tôi từng có trước khi nói với Marianne Engel là tôi yêu cô ấy. Trước vụ cháy, xương sống của tôi cực kỳ khỏe mạnh; sau vụ cháy, nó được thay thế bởi một con rắn. Giờ con rắn đã biến mất và tôi đã bắt đầu có lại xương sống của mình, một khởi đầu tốt. Chân phải của tôi đầy những cái đinh kim loại và tôi có thể coi chúng là những cái xiềng được rèn từ tàn tích của cái ô tô nát bét của mình. Tôi cân nhắc có nên tiếp tục gặm nhấm tai nạn của mình hay không. Tôi sẽ không làm thế. Tôi đang tập luyện chăm chỉ hơn bất kỳ thời điểm nào trước đây. Vài lần một tuần, Sayuri dẫn tôi tới bể bơi trong vùng, hướng dẫn tôi làm một loạt bài tập rèn luyện cơ thể. Bản thân nước cũng giúp các cơ khớp của tôi được thư giãn và bớt co cứng. Vào những ngày tôi không ra bể bơi, Sayuri dạy tôi tập nhảy ở sân sau. Tôi nghĩ chuyện này sẽ làm bất cứ ai đứng nhìn từ phía nhà thờ Romanus phải ngạc nhiên. Họ nghĩ gì về con quái vật cứ nhảy chồm chồm quanh sân, bị lùa bởi một người phụ nữ Nhật Bản bé tí tẹo? Thỉnh thoảng cha Shanahan thấy tôi và vẫy tay chào, tôi luôn vẫy tay chào lại. Tôi đã quyết định sẽ không ghét ông, bất chấp việc ông là mục sư. Sau khi tôi tập luyện xong, Gregor đến đón Sayuri và ba người chúng tôi cùng ngồi uống trà. Tại buổi họp mặt gần đây nhất của chúng tôi, tôi đã chia sẻ với họ thông tin cuốn sách này sắp được xuất bản. Họ chẳng biết chút gì về việc tôi đang viết câu chuyện này cả; tôi đã luôn giữ bí mật, bởi vì tôi chẳng biết sẽ làm gì với nó khi nó được xuất bản nữa. Nhưng dù vẫn đang cất giữ hai cuốn Địa ngục, tôi đã quyết định sẽ đưa quyển sách này ra trước cả thế giới. Tôi vẫn không chắc đây có phải một quyết định đúng đắn hay không - suy nghĩ của tôi về vấn đề này rất hay thay đổi - nhưng cứ giữ yên lặng thì thật là một điều quá đau đớn. Những người bạn của tôi đều rất hào hứng trước thông tin đó, mặc dù Sayuri thú thực rằng cô vẫn chưa đọc tiếng Anh nhanh như cô muốn. Rồi cô phấn khích bấu chặt cánh tay chồng như thể cô vừa nghĩ ra phát kiến vĩ đại nhất trong đời. “Đợi chút! Anh sẽ đọc cho em trước khi chúng ta đi ngủ mỗi tối nhé? Bằng cách đó chúng ta sẽ đọc truyện được cùng một lúc!” Gregor trông khá ngây ngô trước sự thể hiện tình cảm của Sayuri nhưng tôi bảo đảm với ông rằng đây là một ý kiến rất hay, và nói thêm, “Rồi hai bạn sẽ biết thêm vài điều về món quà cưới của mình.” Tôi không chỉ là những vết sẹo. Khi trở về nhà sau khi cô biến mất, sau khi bị cảnh sát thẩm vấn lần đầu tiên, tôi đi xuống xưởng tạc tượng và đọc những dòng chữ Marianne Engel đã tạc vào bục bức tượng của tôi. Dû bist mỵn, ich bin dỵn: des solt dû gewis sỵn; dû bist beslozzen in mỵnem herzen, verlorn ist daz slüzzelỵn: dû muost och immer darinne sỵn. “Em là của tôi, tôi là của em: em có thể chắc chắn về chuyện đó. Em đã bị khóa chặt trong trái tim tôi, chìa khóa đã bị ném đi, trong trái tim tôi, em sẽ luôn phải ở lại.” Lebrecht Bachenschwanz đã dịch bản tiếng Đức đầu tiên được biết tới của Thần khúc (Die gottliche Komodie) trong khoảng năm 1767 đến 1769, và bản dịch Địa ngục của tôi ra đời trước đó ít nhất là bốn trăm năm. Dù đây là một điều rất đáng ngạc nhiên, nó cũng hầu như chẳng chứng tỏ được là Marianne Engel đã dịch cuốn sách đó vào nửa đầu thế kỷ mười bốn; nó chỉ có nghĩa là có ai đó đã dịch thôi. Nhưng nếu Marianne Engel không phải người dịch, thì làm sao nó có thể nằm trong két an toàn của cô được? Sao nó có thể tồn tại gần bảy trăm năm mà không có bất cứ ghi chép gì về sự tồn tại ấy? Cũng như với rất nhiều chuyện khác, tôi chẳng biết gì cả. Tôi đã viết về bản dịch tiếng Đức nhiều đến nỗi các bạn hẳn phải nghĩ là bản tiếng Ý chẳng có gì đặc biệt, trừ cái niên đại của nó. Tôi có thể đảm bảo với bạn là không gì có thể xa rời sự thật hơn cái suy nghĩ đó. Cuốn sách có vài hư hại nhỏ, dù làm giảm giá trị vật chất của nó, nhưng đã thu hút sự chú ý đặc biệt của tôi. Rõ ràng cuốn sách đã từng bị cháy. Các trang giấy đều bị cháy sém ở rìa, nhưng ngọn lửa không trườn vào đủ sâu để đốt đi bất cứ con chữ nào. Bằng cách nào đó, cuốn sách đã thoát khỏi số phận bị lửa tàn phá nặng nề; thực tế là, có một hư hại khác còn rõ rệt hơn. Có một vết cắt rộng xuyên qua bìa cuốn sách, gây ra bởi một vật nhọn. Có lẽ là một con dao hoặc một mũi tên gì đó. Vết cắt xuyên sâu vào cuốn sách đến nỗi khi lật trang bìa ra, vết rạch vẫn gần như giữ đúng độ rộng đấy trên trang đầu tiên. Vết cắt này, nằm ngay giữa mỗi trang sách, nhỏ dần mỗi khi bạn lật sâu vào trong. Bìa sau của cuốn sách chỉ có một vết rách rất nhỏ; rõ ràng là vật nhọn đó đã gần như, nhưng không hoàn toàn, bị ngăn lại bởi độ dày của tập bản thảo. Tôi phải mất một thời gian khá lâu mới có đủ can đảm tháo sợi dây chuyền ra và khớp đầu mũi tên vào vết rách trên bìa cuốn sách. Nó hoàn toàn vừa khít, như một chiếc chìa khóa đã tìm đúng ổ. Tôi ấn mạnh hơn cho tới khi đầu mũi tên ngập vào trong cuốn sách và đầu nhọn của nó chỉ nhú ra một chút xíu ở vết rách trên bìa sau. Dạo này, tôi rất hay thích tưởng tượng rằng nếu một người có thể đi xuyên qua lỗ hổng trên bìa cuốn sách đó, như thể đó là một cánh cửa, thì anh ta sẽ có thể đi thẳng vào ngay trái tim của Địa ngục. Có rất nhiều lý do khiến tôi và Jack không làm mộ cho Marianne Engel, nhưng có hai lý do nổi bật hơn tất cả những lý do khác. Thứ nhất, chẳng có thi thể nào mà lại xây mộ thì thật là kỳ cục. Và thứ hai, thực sự thì sẽ có ai tới viếng ngôi mộ đó ngoài tôi và Jack cơ chứ? Tôi không muốn đi thăm một ngôi mộ. Hằng ngày tôi đều tỉnh dậy với Bougatsa đang ngủ ngon lành dưới chân. Tôi cho nó ăn tụy sống, và rồi chúng tôi lại nhảy lên xe đi về phía biển. Tôi nhìn khắp đại dương mỗi khi mặt trời lên. Đó là thời khắc cầu nguyện của tôi, một giờ trong ngày để nhớ tới Marianne Engel, và đó cũng là thời khắc duy nhất tôi có thể để bản thân mìng tôi dậy rồi đột ngột buông tôi ra. Cơ thể xiêu vẹo của tôi sụp xuống; tôi có thể cảm thấy con rắn ở xương sống cuộn mình lại rồi uốn éo vặn vẹo. NGƯƠI NGHĨ MÌNH CÓ THỂ TỰ ĐỨNG ĐƯỢC SAO? Nan ném phi tiêu về đống đổ nát vô dụng là tôi trong khi các y tá đập tay ăn mừng thất bại của tôi. Tôi nhìn xuống cái giường xương của mình. Lửa cháy, hàng ngàn ngọn nến đang cháy. Tôi muốn vươn tay ra dập tắt chúng nhưng cứ như thể có ai đó đã tháo hết cơ tay của tôi, biến tôi thành một con rối không dây. Lửa hóa thành những khuôn mặt cười giận dữ nhìn tôi và lưỡi lửa chẻ đôi liếm những tấm ga trên chiếc giường xương, khiến chúng trông như những tấm vải liệm cháy bùng bùng. Xương vỡ nát xung quanh tôi, kêu răng rắc giận dữ như một giàn giáo đang sụp đổ. Nhóm bác sĩ y tá cứ tiếp tục cười. Một trong số họ nói bằng giọng Đức khàn đục: “Alles brennt, wenn die Flamme nur heik genug ist. Die Welt ist nichts als ein Schmelztiegel.” Hình như trong mơ, tôi cũng có khả năng như Marianne Engel trong đời thực: khả năng đa ngôn ngữ. Tất cả mọi thứ sẽ cháy nếu lửa đủ nóng. Thế giới chỉ là một lò lửa đang hừng hực cháy. Tôi bị mắc kẹt dưới những mảnh xương trong khi tấm vải liệm tiếp tục cháy. Những khuôn mặt trong lửa vẫn giữ nguyên nụ cười đầy căm hờn của chúng, những cái lưỡi phản trắc cứ liếm, liếm, liếm. TA ĐANG TỚI ĐÂY VÀ NGƯƠI CHẲNG THỂ CẢN ĐƯỢC ĐÂU. Tôi nghe tiếng những mũi tên rít trong gió. Tôi cảm thấy chúng cắm ngập vào tay tôi, tôi cảm thấy chúng cắm ngập vào chân tôi. Tôi đã mơ một giấc mơ dài về lửa cháy, khi cuối cùng cơn ác mộng cũng kết thúc và tôi tỉnh lại, sự bồng bềnh của chiếc giường hơi làm tôi bối rối. Phải mất một lúc tôi mới chắc chắn mình đang mơ hay tỉnh. Tôi kể với Marianne Engel về việc đứng được tám giây trong ngày đầu tiên cố gắng, và đứng được những mười ba giây vào ngày thứ hai. Cô cố gắng tỏ ra thán phục đúng cách đối với những thành tựu của tôi, nhưng hiển nhiên là cô đang bị rối trí vì chuyện gì đó. “Có chuyện gì vậy?” “Hả? Không, không, không có gì cả.” Cô chạm tay lên cái u nằm thù lù, đang lớn lên từng ngày, trên vai tôi. “Cái gì thế?” “Cái này gọi là giãn mô.” Tôi giải thích với cô là dưới da tôi có một quả bóng hơi nhỏ làm bằng silicone, và hằng ngày các bác sĩ tiêm thêm một chút muối vào đó. Khi quả bóng hơi phình ra thì da tôi cũng giãn theo, giống như khi người ta tăng cân ấy. Cuối cùng, quả bóng hơi bị hút cạn và tôi sẽ được thêm một mảnh da nữa, mảnh da ấy sẽ được cấy từ vai tôi xuống một điểm nhận nào đó trên cổ. “Thật tuyệt, ước gì trong lần đầu tiên tôi có thể làm điều tương tự cho anh.” “Cái gì cơ?” “Đừng bận tâm.” Cô chạm vào chỗ u lần nữa, rồi mỉm cười. “Anh biết không, sự phát triển đó làm tôi nghĩ đến những đinh nhọt do Dịch hạch Đen gây ra.” “Cái gì?” “Tôi có người bạn…” Cô dần nín bặt như thể đã đánh mất suy nghĩ của mình trong không trung. Cô ngồi đó vài phút, nhìn đăm đăm vào khoảng không, nhưng thay vì ngồi yên, tay cô vung vẩy còn nhiều hơn lúc nghịch điếu thuốc chưa hút hay chạm vào cái vòng cổ. Trông chúng như muốn xòe ra và tiết lộ câu chuyện cô đang giấu giếm tôi. Cuối cùng, cô hất đầu về phía chiếc bàn đầu giường tôi. Trên đó là chồng sách tâm lý học mà cô đã luôn kìm nén để không hỏi gì về chúng. “Anh đang tìm hiểu tôi,” cô nói. “Liệu tôi có nên thuê vài bộ phim khiêu dâm của anh để hiểu anh rõ hơn không?” Điều này - dù tôi nghĩ sẽ không nói thẳng ra với cô dưới bất cứ hình thức nào - là điều mà tôi không bao giờ muốn cô làm. Tôi bắt cô hứa không bao giờ được xem bất kỳ bộ phim nào của tôi cả. “Tôi đã nói với anh là tôi không quan tâm rồi mà,” cô nói. “Anh thấy xấu hổ à?” Tôi bảo đảm với cô là tôi chả xấu hổ gì đâu; tôi chỉ không muốn cô xem chúng thôi. Đó là sự thật, nhưng không phải tất cả: tôi không muốn cô xem chúng bởi vì tôi không muốn cô biết một tôi trước đây, rồi đem so sánh với tôi bây giờ. Tôi không muốn cô nhìn thấy vẻ đẹp của tôi, làn da mềm mại của tôi, thân hình cường tráng của tôi, và rồi lại phải nhìn lên cái thứ kinh tởm đang nằm trên chiếc giường trước mặt cô. Tôi nhận ra điều này rất vô lý, và dĩ nhiên cô cũng biết tôi từng có thời không bị bỏng, nhưng tôi không muốn điều đó trở nên thực tế với cô hơn nữa. Nếu cô có thể chấp nhận tôi như thế này, có lẽ chỉ vì cô không có gì để so sánh cả. Marianne Engel đi về phía cửa sổ và nhìn chằm chằm ra ngoài trong giây lát, trước khi quay lại buột miệng: “Tôi ghét phải rời xa anh, và tôi muốn luôn được ở bên giường anh. Tôi cần anh hiểu là khi tôi nhận chỉ thị thì điều đó hoàn toàn nằm ngoài khả năng của tôi.” Đây là một trong những lúc hiếm hoi tôi hiểu được chính xác cô đang nghĩ gì: cô có một bí mật muốn chia sẻ, nhưng biết rằng đó là loại bí mật mà hầu hết mọi người không hiểu được. Bật mí là một vấn đề sống còn nhưng cô lại luôn lo rằng điều đó quái dị đến độ khó có thể nói ra. Chẳng hạn giống như khi giải thích rằng có một con rắn ký sinh trong xương sống của bạn ấy. “Khi chuẩn bị làm việc,” Marianne Engel bắt đầu, hít thật sâu, “tôi thường ngủ trên đá trong ít nhất mười hai tiếng đồng hồ, nhưng thường là lâu hơn. Đó là công đoạn chuẩn bị. Khi nằm trên một tảng đá, tôi có thể cảm nhận được nó. Tôi có thể cảm nhận được tất cả những gì thuộc về nó, mọi thứ bên trong. Nó rất... ấm áp. Cơ thể tôi chìm vào những đường nét của nó rồi tôi cảm thấy mình không trọng lượng, như đang trôi vậy. Tôi gần như... mất khả năng cử động. Nhưng điều đó thật tuyệt vời; nó hoàn toàn trái ngược với sự tê liệt. Nó giống như sự thức tỉnh, siêu thức tỉnh, đến nỗi tôi không thể cử động vì cảm giác ấy đã hoàn toàn lấn át.” “Cô có ý gì khi nói mình có thể cảm nhận được những gì bên trong tảng đá?” tôi hỏi. “Tôi thu nhận những giấc mơ của tảng đá, và những con gargoyle trong đó nói cho tôi biết những gì tôi cần làm để giải thoát chúng. Chúng cho tôi nhìn mặt và chỉ cho tôi cách biến chúng trở nên trọn vẹn. Khi đã có đủ thông tin, tôi liền bắt tay vào làm. Cơ thể tôi tỉnh táo, nhưng tôi không có ý niệm gì về thời gian, không có gì trừ công việc. Nhiều ngày trôi qua tôi mới nhận ra mình không hề ngủ và cũng gần như không ăn gì. Như thể tôi đang cố đào một nạn nhân sống sót ra khỏi trận tuyết lở của thời gian đã tích tụ qua hàng thế kỷ rồi bất ngờ đổ ập xuống núi cùng một lúc. Những con gargoyle vẫn luôn ở trong tảng đá nhưng, chính giây phút này, chúng không thể chịu nổi việc phải ở lại thêm chút nào nữa. Chúng đã ngủ vùi cả mùa đông trong tảng đá, và cái đục trong tay tôi mang mùa xuân đến. Nếu tôi đục đúng chỗ thì những gargoyle sẽ hiện ra như những bông hoa bừng nở trên bờ sông lởm chởm đá. Tôi là người duy nhất có thể làm điều đó, vì tôi hiểu ngôn ngữ của chúng và cũng là người duy nhất có thể trao cho chúng những trái tim cần thiết để bắt đầu cuộc đời mới.” Cô ngừng lại, dường như đợi tôi nói gì đó, bất cứ điều gì - nhưng người ta làm sao có thể đáp lại những lời tuyên bố như thế chứ? Vì cô muốn một câu trả lời nhanh gọn và tôi cũng muốn cô tiếp tục nói, nên tôi đã nói rằng đó có vẻ là một quá trình cực kỳ sáng tạo. “Không, ngược lại là đằng khác. Tôi là một cái ống dẫn cho nước chảy ra chảy vào. Đó là một vòng tròn, một vòng tròn nước cuộn chảy giữa Chúa, những con gargoyle và tôi, vì đó chính là Chúa - một vòng tròn mà tâm ở khắp mọi nơi và chu vi thì không xác định. Và trong suốt thời gian tôi đục đẽo, giọng của gargoyle ngày càng to hơn. Tôi làm nhanh hết mức vì tôi muốn giọng nói đó dừng lại, nhưng nó cứ thúc giục tôi, đòi tôi giúp nó được tự do. Tiếng nói chỉ câm lặng khi tôi hoàn thành, và rồi tôi kiệt sức tới mức đến lượt tôi chìm vào giấc ngủ. Đó là lý do tôi mất hút năm, sáu ngày liền. Phải mất ngần ấy thời gian để giải phóng gargoyle và để tôi có thể hồi phục. Tôi không thể quyết định lúc nào một gargoyle sẵn sàng sinh ra và tôi cũng không thể từ chối nguyện vọng của nó. Vì thế hãy tha thứ cho tôi những khi tôi không xuất hiện, vì tôi không có sự lựa chọn nào khác.” Ừm, được rồi. Ít nhất bây giờ tôi cũng biết cô làm gì với những trái tim mà cô nghĩ là đang ở trong ngực mình. Chúng sẽ nằm trong những bức tượng cô tạc. Tôi đã từng chắc chắn rằng Marianne Engel bị tâm thần phân liệt, nhưng căn cứ vào thói quen làm việc của cô thì giờ tôi phải tính đến khả năng cô có thể bị khủng hoảng tinh thần. Mọi bằng chứng đều dẫn đến hướng đó: khi tôi gặp cô lần đầu, trông cô mệt mỏi và vận toàn đồ đen; giờ cô thật rạng rỡ trong cả cách ăn mặc và tính cách. Những người bị tâm thần phân liệt thường có xu hướng lảng tránh các cuộc trò chuyện, thỉnh thoảng còn ngồi yên hàng giờ liền, nhưng Marianne Engel lại hoàn toàn trái ngược. Và còn bản chất công việc của cô nữa. Rất nhiều nạn nhân khủng hoảng tinh thần trở nên nổi tiếng trong lĩnh vực nghệ thuật vì chính tình trạng bệnh lý của họ đã thắp lên ngọn lửa nhiệt tình cần thiết để sáng tạo ra những kiệt tác. Đây, dĩ nhiên, chính là việc Marianne Engel đang làm: sáng tạo tượng đài. Nếu những thói quen chạm khắc của cô không phải đặc điểm của một người loạn thần kinh, tôi cũng chẳng tưởng tượng được đó là cái quái gì nữa. Nhưng cũng có rất nhiều bằng chứng về bệnh tâm thần phân liệt. Cô miêu tả những tiếng nói phát ra từ tảng đá, trao cho cô những chỉ dẫn. Cô coi bản thân mình là sợi dây kết nối với các đấng thần linh, và sản phẩm của cô là quỹ đạo trao đổi thông tin giữa Chúa, những gargoyle và bản thân cô. Chưa kể đến cái “quá khứ” ở Engelthal và niềm tin Địa ngục là một ấn phẩm văn hóa thích hợp cho phòng điều trị bỏng nữa. Tóm lại, hiếm có sự kiện nào trong đời cô mà không động chạm cách này hay cách khác đến Thiên Chúa giáo và, như đã nói từ trước, những người mắc chứng tâm thần phân liệt thường bị ám ảnh bởi các vấn đề tôn giáo. Thống kê cũng đưa ra một dấu hiệu bệnh lý nữa. Bệnh tâm thần phân liệt hay gặp ở nam giới hơn nữ giới, nhưng hơn tám mươi phần trăm bệnh nhân tâm thần phân liệt nghiện thuốc lá nặng, và Marianne Engel thường xuyên nhảy khỏi phòng bỏng để hít chút nicotine. Và trong khi đang nói chuyện với tôi, mắt cô luôn bồn chồn, ánh nhìn cứ luôn khóa chặt lấy mắt tôi: điều này chỉ bắt đầu có ý nghĩa sau khi tôi đọc một cuốn sách của Gregor nói rằng những bệnh nhân tâm thần phân liệt rất hiếm khi chớp mắt. Từ chối điều trị là tình trạng chung của cả hai bệnh lý, nhưng với những lý do khác nhau. Một người khủng hoảng tinh thần có thể từ chối dùng thuốc vì khi dùng liều cao thì cô ấy tin rằng không cần phải dùng liều thấp nữa, hoặc cô ấy đã quá nghiện liều cao đến nỗi liều thấp chỉ đơn giản là cái giá phải trả. Những người tâm thần phân liệt, mặt khác, lại có xu hướng từ chối dùng thuốc vì họ tin mình đang bị đầu độc - lời tuyên bố Marianne Engel đã đưa ra không chỉ một lần. Giờ đây rất nhiều bác sĩ nghiêng theo giả thuyết là cả hai tình trạng bệnh lý này cùng song song tồn tại thường xuyên hơn nhiều so với những chẩn đoán thông thường, vì thế có thể người ta sẽ áp dụng cả hai chẩn đoán một lúc. Cùng lúc lật các trang sách về sức khỏe tâm thần để hiểu cô rõ hơn, tôi càng ngày càng hiểu rõ bản thân mình, và tôi cũng không hoàn toàn thoải mái với những gì đọc được. Tôi luôn so sánh mất mát của cô với mất mát của tôi, tự nhủ rằng cô không thể nào hiểu được nỗi đau thể xác của tôi trong khi tôi thực sự có thể hiểu được bản chất nỗi đau tinh thần của cô. Và trong khi rất nhiều chứng bệnh thần kinh có thể chữa khỏi nếu được điều trị đúng cách thì chẳng có một viên thuốc nào có thể khiến tôi trở lại bình thường. Một người điên điên dở dở vẫn có thể hòa mình vào đám đông nhưng tôi sẽ luôn luôn nổi bật với tư cách là một ngón tay cái cháy dở nhô lên khỏi nắm đấm loài người; điều này làm tôi có cảm giác mình là kẻ chiến thắng trong một cuộc thi không hề tồn tại. Ngày hôm sau Marianne Engel xuất hiện trong bộ váy trắng giản dị với xăng đan hở ngón, nhìn cô người ta có thể lầm tưởng là một phụ nữ đến từ làng chài bên bờ Địa Trung Hải. Cô mang tới hai giỏ thức ăn, một trắng một xanh da trời, và tôi có thể nói chúng nặng đến thế nào theo cách cô khệ nệ xách vào phòng. Cúi người xuống, cái đầu mũi tên trên vòng cổ của cô nảy ra nảy vào trong cổ áo hình chữ V như miếng mồi gắn trên dây câu. “Cuối cùng tôi cũng có thể thực hiện được lời hứa là sẽ cho anh ăn rồi.” Tôi sẽ giải thích một chút về việc bác sĩ Edwards cho phép khách thăm bệnh mang đồ ăn vào phòng điều trị bỏng. Ngoài lợi ích tinh thần của một buổi picnic (nó là thế mà), còn có cả lợi ích thể chất nữa. Cùng với việc sức khỏe khá lên, cơ thể tôi đã xảy ra tình trạng gọi là tăng chuyển hóa: một cơ thể bình thường chỉ cần hai nghìn calo một ngày thì sau một vụ bỏng nặng có thể tiêu thụ đến bảy nghìn calo. Dù các ống thông mũi họng hằng ngày vẫn cung cấp chất dinh dưỡng vào thẳng dạ dày nhưng thế vẫn chưa đủ cho tôi và tôi đã được phép, thậm chí còn được khuyến khích, ăn thêm thức ăn ngoài. Trước đây Marianne Engel cũng đã mang đồ ăn nhẹ đến cho tôi, nhưng rõ ràng bữa ăn hôm nay thịnh soạn hơn rất nhiều. Cô mở hai cái giỏ ra - một đựng đồ nóng còn một chất đầy đá để làm lạnh - và bắt đầu bày thức ăn ra. Có một cái bánh mì focaccia tròn mới nướng, vẫn còn vương mùi củi cháy, một chai dầu ô liu và giấm balsamic. Cô phết một lớp màu đen lên trên mặt chất màu vàng rồi nhúng một mẩu bánh focaccia vào hỗn hợp chất lỏng lốm đốm đó. Cô đọc câu kinh quen thuộc trước khi nâng miếng bánh bỏ vào miệng tôi: “Jube, Domine benedicere.” Cô cũng mang cả pho mát nữa: Camembert, Gouda, pho mát xanh, pho mát sữa dê Iran. Cô hỏi tôi thích loại nào và khi tôi chọn loại làm từ sữa dê, cô toét miệng cười. Tiếp, vài cái bánh bốc khói trong giấy gói trông giống như bánh kếp nhưng mùi thì kinh không chịu nổi. Bánh ngọt Gordonzola không phải ai cũng ăn được, cô giải thích, nhưng cô mong là tôi sẽ thích nó. Tôi thích thật. Những miếng dưa lưới tròn nằm ngoan ngoãn giữa những lát thịt muối prosciutto mỏng dính, sắc vàng mọng nước lấp ló qua màu đỏ của thịt. Cô tiếp tục khai phá hai cái giỏ. Những quả ô liu xanh mọng đến chói mắt, bị nhồi ớt ngọt đến căng tròn, nằm ườn thỏa mãn trong một cái tô vàng. Một đĩa đầy cà chua tẩm giấm đen với pho mát bocconcini tròn trắng như tuyết. Hàng ổ bánh mì pita và những chiếc chén tràn đầy món khai vị hummus và xốt tzatziki. Hàu, cua, sò điệp chìm đắm trong một cái chết êm ái giữa biển nước xốt marinara; những lát chanh nhỏ đứng thăng bằng trên rìa đĩa như những chiếc phao cứu sinh đang chờ được ném xuống. Xúc xích lợn rắc hạt tiêu đen. Những miếng chả lá nho, cố ra vẻ phong trần nam tính trong bộ com lê nhỏ xinh màu xanh, được ướp thơm bằng rượu vang đỏ. Những khoanh mực ống dày dặn. Thịt soulvaki được nướng xiên cùng những củ hành phết bơ ngọt ngào và hạt tiêu om. Một miếng thịt cừu vai nấu kỹ đến nỗi nó sẽ rời ra nếu bạn chỉ cần vừa nhìn nó vừa nghĩ đến cái nĩa vây quanh là gia đình khoai tây nướng nhỏ bé mà hạnh phúc. Tôi ngồi như bị mắc kẹt giữa ngồn ngộn thức ăn, không dám cử động vì sợ sẽ hất đổ một cái đĩa nào đó. “Chúng ta không thể nào ăn hết chỗ này được.” “Hết hay không không phải vấn đề.” Cô lấy một cái chai ra khỏi giỏ lạnh. “Hơn nữa, tôi chắc chắn các nữ y tá sẽ rất vui vẻ giúp đỡ chúng ta xử lý chỗ còn lại. Anh sẽ không nói với họ là tôi uống rượu chứ, nhỉ? Tôi thích rượu nho Hy Lạp vì có thể nếm được cả vị đất trong đó.” Mấy cô y tá nhanh chóng đứng lố nhố quanh cửa như một bầy chim hải âu háu đói. Tôi có một cảm giác hãnh diện kỳ lạ rất đàn ông, cái cảm giác ta có được khi bị bắt gặp đang hẹn hò với một phụ nữ xinh đẹp. Đám y tá cười rúc rích và bình phẩm vài câu trước khi bỏ đi trực ca. Marianne Engel đưa từng miếng nhỏ vào miệng tôi. “Thử cái này đi… Anh sẽ rất thích. Nữa nhé.” Chúng tôi rất nỗ lực, nhưng số phận đã định sẵn là chúng tôi không bao giờ có thể ăn hết được. Khi chúng tôi cuối cùng cũng chịu thua, cô mang ra một cái bình giữ nhiệt bằng kim loại mỏng và đổ cà phê Hy Lạp vào hai tách nhỏ. Cà phê đặc quánh đến mức mất đến ba mươi giây mới đổ xong. Rồi cô mang món tráng miệng ra: bánh baklava phết mật ong dày đến nỗi trào cả ra ngoài như một tổ ong đang làm từ thiện. Kem gelato ba màu, xanh trắng đỏ. Và dĩ nhiên cả món bougatsa, cảm hứng cho tên con chó của cô - bánh ngọt nâu nhạt với kem trứng phết giữa những lớp bánh phyllo. “Anh có thích nghe một câu chuyện không?” Marianne Engel nói. “Nó kể về tình yêu đích thực, tình anh em sâu nặng và những mũi tên tìm được đến đích.” “Lại về cô nữa à?” “Không, đó là câu chuyện về người bạn tốt Francesco Corselini của tôi.” Chú thích (20) Paracelsus (1493-1541) là nhà vật lý học, thực vật học, giả kim, thiên văn học và huyền bí học thời Phục hưng. (21) Genki: khoẻ (tiếng Nhật).