Dịch giả:: Lưu văn Hy
Câu chuyện của tay buôn thuốc vẽ hồi hưu
Sir Arthur Conan Doyle

     uổi sáng hôm đó Sherlock Holmes đang ở trong một tâm trạng vừa u sầu lại vừa trầm tĩnh. Chính bản tính thực tế linh lợi của ông đã đưa đến những phản ứng như vậy.
Ông hỏi:
- Ông có thấy ông ta không nhỉ?
- Ông muốn nói ông già vừa mới đi ra chứ gì?
- Đúng vậy.
- Có, tôi đã gặp ông ta ngoài cửa.
- Ông nghĩ sao về ông ta?
- Một con người suy sụp, thảm hại, vô phương chống đỡ.
- Chính xác đấy, ông Watson. Bi thảm và vô phương chống đỡ. Nhưng đâu phải suốt đời cứ mãi vậy đâu? Chẳng phải rằng câu chuyện của ông ta là một thế giới vi mô nằm trong cái tổng thể đó sao? Chúng ta tiến tới. Chúng ta nắm bắt. Rồi cuối cùng trong tay ta còn lại gì nào? Một cái bóng. Hay còn tệ hơn một cái bóng - sự thảm hại.
- Ông ta có phải là một thân chủ của ông không đấy?
- Phải, cứ cho là vậy đi. Bên Scotland Yard chuyển ông ta qua đây đấy. Y như chuyện mấy ông y sĩ đôi khi lại chuyển mấy bệnh nhân hết thuốc chữa của họ cho mấy tay lang băm vậy thôi. Họ biện luận rằng khi họ đã bó tay rồi, thì dù bệnh nhân có bị gì đi nữa thì cũng không thể tệ hơn tình trạng hiện thời của họ.
- Mà ông ta bị chuyện gì mới được chứ?
Holmes cầm một tấm danh thiếp lấm lem ở trên bàn lên.
- Josiah Amberly. Ông ta bảo mình là người hợp tác kinh doanh với hãng Brickfall và Amberly, là những hãng chuyên sản xuất nguyên liệu mỹ thuật. Ông có thể thấy được tên của họ trên mấy thùng sơn. Ông ta đã kiếm được một khoản tiền, về hưu vào lúc sáu mốt tuổi, mua một căn nhà ở Lewisham, rồi cứ an cư ở đó trong phần đời còn lại sau khi đã quần quật làm việc gần trọn một đời. Người ta sẽ cho rằng tương lai của ông,ta kể ra cũng khá bảo đảm đấy chứ.
- Ừ, dĩ nhiên là vậy rồi.
Holmes liếc qua những dòng ghi chú mà ông viết nguệch ngoạc ở mặt sau một bao thư.
- Watson, về hưu năm 1896. Đầu năm 1897 cưới một phụ nữ trẻ hơn ông ta đến hai mươi tuổi - lại là một phụ nữ xinh xắn, nếu tấm hình chụp trung thực. Một món hời, một cô vợ, cuộc sống nhàn tản - dường như một con đường thênh thang rộng mở trước mặt ông ta. Thế mà chỉ trong vòng hai năm thôi, như anh thấy đấy, ông ta đã trở nên một kẻ tàn mạt và thảm hại với cuộc sống lây lắt trên cõi đời này.
- Nhưng đã xảy ra chuyện gì vậy?
- Cũng chỉ là câu chuyện xưa như trái đất ấy thôi mà ông Watson. Một tên bạn đểu cáng và một cô vợ thay lòng đổi dạ. Chuyện như vầy, Amberly chỉ có một sở thích duy nhất trên đời là đánh cờ. Ở gần nhà ông ta tại Lewisham, có một tay bác sĩ trẻ cũng là một tay mê cờ. Tôi đã ghi lại tên ông bác sĩ này là Ray Ernest. Ernest thường xuyên ở trong nhà ông ta và mối thân tình giữa ông ta và bà Amberly là chuyện đương nhiên phải xảy ra thôi, vì ông sẽ phải công nhận rằng ông thân chủ bất hạnh của chúng ta không có được cái bề ngoài hào hoa phong nhã, cho dù ông ta có thể có những đức tính tốt đẹp về tinh thần. Cặp tình nhân này đã cùng nhau bỏ đi vào tuần rồi - đến nay vẫn chưa biết đi về đâu. Ngoài ra, đôi gian phu dâm phụ còn mang theo cái hộp đựng giấy tờ của ông già làm hành trang với những tài sản mà ông ta đã dành dụm được trong gần cả một đời người. Liệu chúng ta có thể kiếm được người đàn bà này chăng? Liệu chúng ta có thể thu hồi lại được số tiền đó chăng? Cho đến giờ phải chăng đó chỉ là một vấn đề mới được triển khai trên sổ tay, tuy nhiên nó lại là vấn đề sinh tử đối với Josiah Amberly.
- Vậy ông sẽ làm gì để xử lý chuyện này chứ?
- Đúng là câu hỏi phải giải quyết trước mắt đây, ông bạn Watson thân mến ạ, ông sẽ làm gì nhỉ? Nếu ông làm giúp tôi việc này thì hay biết mấy. Ông biết đấy, tôi còn đang bù đầu với vụ hai vị tộc trưởng Coptic mà hôm nay mới đến hồi gay cấn đây. Quả thực tôi không có thời gian để đi Lewisham đâu, trong khi chứng cớ tại hiện trường lại có giá trị đặc biệt lắm đấy. Ông lão lại cứ khăng khăng đòi tôi phải đi đến đó cho được, nhưng tôi đã phải giải thích những khó khăn của mình cho ta rõ. Ông ta sẽ chuẩn bị tiếp một vị đại diện của tôi đây.
Tôi trả lời: “Đương nhiên là vậy rồi”. Nhưng thú thực là tôi thấy mình không có nhiều khả năng để thực hiện công tác này, nhưng tôi sẽ cố hết sức. Và thế là vào một buổi trưa hè tôi đã lên đường đến Lewisham, với chút mơ mộng là trong vòng một tuần cái vụ án mà tôi tham gia này sẽ được bàn tán sôi nổi trên khắp nước Anh.
Mãi đến chiều tối hôm đó tôi mới trở về phố Baker để báo cáo lại công tác của mình. Holmes nằm ườn ra trên chiếc ghế bành của mình với thân hình phờ phạc, chiếc ống vố của ông chầm chậm nhả từng vòng khói thuốc khét lẹt, trong khi đôi hàng mi khép hờ hững trên đôi mắt đờ đẫn như thể ông ta đang ngủ vậy. Tuy nhiên cứ mỗi lần câu chuyện của tôi ngừng lại hay có đoạn không rõ thì cặp mi mắt của ông ta lại khẽ nhướng lên, và cặp mắt xám bỗng sáng lên và sắc xảo như lưỡi kiếm, bỗng như xuyên thấu cả người tôi với cái nhìn dò hỏi.
Tôi kể lại:
- Haven là tên ngôi nhà của ông Josiah Amberly. Tôi cho là ông sẽ phải quan tâm đến nó đấy ông Holmes ạ. Nó giống như một kẻ thuộc dòng dõi quý tộc nay phải chìm xuống đám người thuộc tầng lớp hạ cấp vậy. Ông biết không, cái khu phố đặc biệt đó, thuộc loại đường phố toàn gạch trông mới chán làm sao, còn đường xá ngoại ô trông phát nản luôn. Ngay giữa khu phố đó, tức một cái đảo nhỏ với nền văn hóa và tiện nghi thật cổ lỗ, là cái nhà cũ kỹ này đây, được vây quanh bằng bức tường cao xây bằng loại gạch non, địa y chằng chịt, còn đầu tường thì toàn rêu bám, cái loại tường.
Holmes cương quyết chặn lời ông ta lại.
- Thôi tốp cái chuyện thơ thẩn của ông đi, Watson à. Tôi chỉ cần biết đó là một bức tường gạch cao là đủ rồi.
- Đúng vậy. Lẽ ra tôi đã chẳng biết đâu là ngôi nhà Haven của ông ta nếu không biết đường hỏi một kẻ đang đứng thơ thẩn bên đường. Sở dĩ tôi đề cập đến con người này là có lý do của nó. Hắn ta là một người cao ráo, nước da đen, có hàng râu mép rậm, trông vóc dáng như con nhà lính vậy. Hắn chỉ trả lời câu hỏi của tôi bằng một cái gật đầu rồi nhìn tôi bằng ánh mắt dò hỏi lạ lắm, mà sau đó một lúc tôi mới chợt nhớ lại.
- Tôi đã không đi vào lối cổng nhà ông Amberly cho đến khi gặp ông ta đang đi theo con đường dành để đánh xe vào nhà. Sáng nay tôi chỉ thoáng thấy ông ta mà thôi, thế mà tôi đã có ấn tượng ông ta là một con người lạ lùng rồi, nhưng đến khi nhìn kỹ lại tôi mới thấy là thậm chí ông ta còn dị thường hơn nữa.
- Dĩ nhiên tôi cũng đã nghiên cứu điều đó rồi, tuy nhiên tôi cũng cần quan tâm đến cảm tưởng của ông nữa đây.
- Đối với tôi ông ta có vẻ giống như một người bị gục xuống vì lo lắng đúng theo nghĩa đen đấy. Lưng ông ta còng xuống như thể đang vác một gánh nặng dữ lắm vậy. Tuy nhiên ông ta không mềm yếu như tôi tưởng lúc đầu đâu nhé, vì vai và ngực của ông ta thuộc loại tầm cỡ của một người to con đấy, mặc dù cặp chân thì teo đét.
- Chiếc giày bên trái thì nhăn nhúm trong khi chiếc bên phải lại phẳng phiu.
- Tôi không nhận thấy được điều đó.
- Ừ, ông sẽ không nhận ra được đâu. Tôi đã phát hiện được chiếc chân giả của ông ta. Nhưng ông cứ nói tiếp đi đã.
- Tôi đã chú ý ngay đến những lọn tóc hoa râm gợn sóng thò ra bên dưới chiếc nón rơm cũ kỹ, và khuôn mặt lộ vẻ hùng hổ, dữ dằn với những nếp nhăn hằn sâu trên khuôn mặt của ông ta.
- Hay lắm, ông Watson. Thế ông ta đã nói gì nào?
- Ông ta bắt đầu than vãn liên tục bất tận về câu chuyện của mình. Chúng tôi cùng đi trên con đường dành để đánh xe vào nhà, và dĩ nhiên tôi đã có dịp nhìn ngó khắp nơi. Tôi thật chưa thấy nơi nào được bảo quản tồi tệ hơn nơi đó. Toàn bộ khu vườn đang được gieo hạt, khiến tôi có cảm tưởng nó đã bị bỏ hoang để cho cây cỏ mặc tình sinh sôi nảy nở như trong thiên nhiên chứ không theo một kiểu cách nghệ thuật nào cả. Tôi không hiểu làm thế nào mà một người phụ nữ tử tế đàng hoàng lại có thể chịu nổi cảnh hoang tàn như vậy được. Cả ngôi nhà cũng thế, nó luộm thuộm phải nói là hết chỗ nói, tuy nhiên người đàn ông khốn khổ kia dường như cũng tự biết được điều đó và đang cố gắng sửa chữa cho nó, vì một thùng sơn xanh to đã được đặt ngay giữa hành lang còn ông ta đang cầm một cái cọ sơn dầy bên tay trái. Ông ta đang làm công việc của thợ mộc.
- Ông ta đã dẫn tôi vào căn phòng riêng nhếch nhác của mình và chúng tôi đã nói chuyện với nhau rất lâu. Dĩ nhiên là ông ta đã thất vọng rằng không phải đích thân ông đến nhà ông ta. Ông ta nói, “Tôi cũng không trông mong gì nhiều, vì một kẻ hèn mọn như tôi đây, nhất là sau vụ bị mất cả một tài sản lớn, thì mong gì được sự quan tâm hết mình của một người nổi tiếng như ông Sherlock Holmes được chứ”.
- Tôi cam đoan rằng không phải vì vấn đề tài chánh đâu.
Ông ta đáp lời:
- Dĩ nhiên là không phải rồi, ông ta chỉ vì nghệ thuật thôi mà, nhưng dù cho là về mặt nghệ thuật của tội phạm đi nữa thì ông ta cũng có thể nghiên cứu được điều gì ở đây chứ. Và về bản chất con người, bác sĩ Watson ạ - thì đây đúng là sự vô ơn bạc nghĩa đến độ táng tận lương tâm! Có khi nào tôi lại từ chối một đòi hỏi nào của cô ấy đâu chứ? Có người đàn bà nào lại được cưng chiều như thế không? Còn cái tên thanh niên kia - nó chỉ đáng tuổi con tôi thôi. Nó đã ngang nhiên xem nhà tôi như nhà nó vậy. Rồi ông thấy đấy bọn họ đã đối xử với tôi không biết sao mà nói nữa! Ôi dào ôi, bác sĩ Watson ạ, sao cuộc đời này nó lại khủng khiếp thế cơ chứ!
- Thế rồi những bài ca cẩm về nỗi lòng của ông ta cứ thế mà tuôn ra ầm ầm có đến một hai tiếng đồng hồ vậy. Dường như ông ta đã không chút nghi ngờ gì về cái âm mưu đó. Chỉ có hai người sống chung với nhau trong ngôi nhà ngoại trừ có một phụ nữ đến giúp việc vào ban ngày rồi lại ra đi vào lúc sáu giờ mỗi buổi chiều. Vào buổi tối đặc biệt hôm đó ông già Amberly vì muốn đãi vợ một chầu xem hát, đã mua hai vé thượng hạng tại rạp hát Haymarket. Vào phút cuối cô ta than nhức đầu rồi không chịu đi. Thế là ông ta đành phải đi xem hát một mình. Việc này chắc là thực vì ông ta có cho tôi xem cái vé còn nguyên chưa xé mà ông ta đã mua cho cô vợ của mình.
Holmes nói, khi thấy vụ án có vé bắt đầu gay cấn.
- Điều đó mới đáng lưu ý - đáng lưu ý nhất đấy. Xin mời kể tiếp nữa đi nào, ông Watson. Tôi thấy câu chuyện ông kể thú vị lắm rồi đấy. Thế ông có đích thân xem xét cái vé ấy không? Có lẽ ông đâu có xem số vé làm gì nhỉ?
- Bỗng dưng tôi lại đọc kỹ số vé mới lạ chứ. Tôi đã đáp lại với một chút tự đắc. Số vé ngẫu nhiên lại y chang mã số sinh viên hồi còn đi học của tôi mới chết chứ lỵ, số ba mươi mốt, thế là nó cứ ghim mãi trong đầu tôi thôi.
- Tuyệt quá đi chứ, Watson! Thế thì số vé của ông ta phải là ba mươi hay ba hai gì đó.
- Đúng vậy. - Tôi đáp với một chút bí ẩn.
- Và ở trên dãy B.
- Thế là được quá rồi còn gì nữa. Ông ta còn nói gì thêm với ông nữa không?
- Ông ta đã chỉ cho tôi thấy cái phòng mà ông ta gọi là căn phòng bọc sắt của mình. Nó quả là một phòng bọc sắt thật đấy chứ - giống như trong ngân hàng vậy - cũng cửa cánh và cửa lùa bằng sắt - mà ông ta cho là để ngăn trộm. Thế nhưng, dường như người đàn bà đó đã có chiếc chìa khóa thứ hai, và bọn họ đã cuỗm mất của ông ta số tiền mặt và chứng khoán trị giá khoảng bảy ngàn bảng Anh.
- Chứng khoán à! Làm sao mà họ có thể tùy ý sử dụng được những tờ chứng khoán đó được chứ?
- Ông ta bảo là đã cung cấp cho cảnh sát một bản liệt kê các chứng khoán của mình và hy vọng là bọn họ sẽ chẳng bán chác gì được đâu. Ông ta đã từ nhà hát về đến nhà vào khoảng nửa đêm, và đã phát hiện ra là căn phòng đã bị đánh cắp, cửa ra vào và cửa sổ mở toang còn hai kẻ bỏ trốn đã mất tăm rồi. Từ đó đến giờ, không thấy thư từ hay lời nhắn gửi gì, và ông ta cũng không nghe thấy lời tiếng gì về bọn họ cả.
Holmes cúi đầu suy nghĩ trong vài phút.
- Ông nói là ông ta đang sơn à. Mà ông ta đang sơn gì vậy?
- À, ông ta đang sơn cái hanh lang. Tuy nhiên ông ta đã sơn xong cái cửa ra vào và đồ mộc của căn phòng riêng mà tôi vừa nói.
- Ông có lấy làm lạ về hành động đó trong tình cảnh như vậy không?
- Người ta cần phải làm gì đó để bớt đau khổ chứ.
Đó là lời giải thích của ông ta. Thật lập dị, chắc chắn, ông ta rõ ràng là con người lập dị rồi. Ông ta đã xé một tấm hình của cô vợ ngay trước mặt tôi - đã hung hăng xé nát tấm hình trong cơn cuồng nộ. Ông ta đã tru tréo lên:
- Tôi không bao giờ còn muốn nhìn thấy cái mặt khốn kiếp của ả nữa.
- Thế còn gì nữa không, ông Watson?
- Còn chứ, còn một điều mà nó làm tôi ngạc nhiên hơn bất kỳ điều gì khác. Tôi đón xe đến ga Blackheath để đáp xe lửa trở về, khi xe vừa bắt đầu chạy tôi đã thấy một người đàn ông đang phóng thật nhanh vào chiếc xe ngựa kế bên chiếc xe của mình. Như ông biết đấy ông Holmes, tôi có biệt tài nhận xét mặt người khỏi chê vào đâu được. Chắc chắn đó chính là cái gã đàn ông dong dỏng, da đen mà tôi đã hỏi thăm đường đây mà. Tôi lại thấy hắn một lần nữa tại cầu Luân Đôn, rồi sau đó hắn biến mất vào đám đông. Nhưng tôi tin là hắn ta đang theo dõi tôi.
Holmes vội nói:
- Chắc chắn! Chắc chắn là vậy rồi! Một người đàn ông cao ráo, da đen, với hàng râu mép rậm, ông bảo vậy chứ gì, còn đeo kính râm màu xám nữa chứ?
- Holmes à, ông đúng là phù thủy cao tay đấy. Tôi đâu có nói vậy, nhưng hắn có đeo kính râm màu xám thật đấy.
- Và một cái kẹp cà vạt Masonic nữa chứ?
- Ôi trời, Holmes!
- Có gì đâu, ông bạn Watson à. Nhưng ta hãy nói chuyện thực tế trước đã. Tôi phải công nhận với ông là vụ này, dường như đối với tôi nó cực kỳ đơn giản đến nỗi không đáng cho tôi phải lưu ý nữa là, thì bây giờ nó lại mau chóng trở nên đặc biệt rồi đây. Mặc dù thực ra trong nhiệm vụ của mình ông đã bỏ qua mọi thứ quan trọng, tuy nhiên ngay cả những thứ đã lôi cuốn sự chú ý của ông cũng gợi được những ý tưởng thật nghiêm chỉnh đấy.
- Thế tôi đã bỏ qua những gì nào?
- Đừng có tự ái, ông bạn ạ. Ông biết là tôi công tâm lắm. Không ai khác làm tốt hơn được như ông đâu. Một số người có thể đã không làm được vậy nữa là. Thế nhưng, rõ ràng là ông đã bỏ qua một số điểm cốt lõi. Ý kiến của hàng xóm láng giềng về cái ông Amberly này và bà vợ của ông ta là gì? Chắc chắn là điều đó rất quan trọng, về tên bác sĩ Ernest thì sao? Liệu người ta có thể ngờ rằng hắn là tên sở khanh Lothario chăng? Watson này, ông có nhiều ưu thế tự nhiên để được mọi phụ nữ giúp đỡ và tiếp tay cho ông đấy. Còn cô nhân viên bưu điện, hay vợ của chủ tiệm rau quả để làm gì? Tôi có thể hình dung là ông đang rù rì những chuyện tầm phào với cô nương ở câu lạc bộ “Mỏ Neo Xanh”, và đổi lại sẽ nhận được một tin gì đó thật hiếm hoi chẳng hạn.
- Điều đó thì bây giờ vẫn có thể làm được đấy chứ.
- Vẫn được thôi. Nhờ điện thoại và sự trợ giúp của Scotland Yard mà dù cứ an vị ở căn phòng này, thế mà tôi vẫn nhận được những tin tức cốt yếu cho mình. Thực ra, thông tin mà tôi nhận được đã khẳng định câu chuyện của ông này. Ở địa phương ông ta nổi tiếng là một gã keo kiệt cũng như là một ông chồng khắt khe và tính toán chi li từng chút một. Chắc chắn là ông ta có một số tiền kếch sù ở trong căn phòng bọc sắt đó thật. Và cả chuyện anh chàng bác sĩ trẻ Ernest chưa vợ cũng thế, vẫn đánh cờ với Amberly, và có lẽ kiêm luôn cái chuyện tò tí với cô vợ của ông ta nữa. Và toàn bộ điều này dường như cũng là những diễn biến đương nhiên mà người ta cũng sẽ không nói được gì khác hơn nữa - và tuy nhiên - tuy nhiên là...
- Khó khăn ở đâu nào?
- Có lẽ theo tôi nghĩ thì, à, mà thôi tạm gác lại chuyện này ở đây đi, ông Watson à. Ta hãy nhờ âm nhạc mà tạm lánh cái cuộc đời thường nhật bải hoải này đi đã. Tối nay Carina sẽ hát tại sảnh đường Albert, và anh em mình cũng vẫn còn đủ thời gian để diện đồ, ăn uống và vui thú đấy chứ.
Sáng ra tôi dậy khá sớm, tuy nhiên những vụn bánh mì và hai cái vỏ trứng rỗng không đã cho tôi biết là ông bạn của mình lại còn dậy sớm hơn nữa. Tôi bỗng thấy một mảnh giấy với những hàng chữ viết tháu ở trên bàn.
Watson mến,
Có một hai điểm quan hệ mà tôi muốn làm rõ về ông Amberly. Khi thực hiện xong ta mới có thể quyết định sẽ bác vụ này - hay không. Tôi sẽ chỉ yêu cầu ông sẵn sàng gặp tôi vào khoảng ba giờ, khi tôi cảm thấy cần.
S.H.
Cả ngày trời tôi không hề thấy tăm hơi của Holmes, tuy nhiên đúng ngay vào cái giờ mà ông ta đã hẹn thì ông ta lại trở về, với dáng vẻ nghiêm trọng, bận rộn và xa vắng. Vào những lúc thế này ông ta rất dễ bị bỏ cô đơn một mình.
- Amberly chưa đến đây à?
- Chưa.
- À! Tôi đang mong ông ta đây.
Ông ta đã không phải thất vọng lâu, vì lúc này ông già đã đến với vẻ lo rầu bối rối hiện rõ trên khuôn mặt khắc khổ.
- Tôi nhận được một bức điện tín, ông Holmes à. Tôi không biết phải làm sao đây.
Ông ta trao bức điện, và Holmes đọc to.
Đến ngay không được trì hoãn. Có thể cho ông biết thông tin về món tiền ông mới bị mất. - Elman. Nhà xứ.
Holmes nói:
- Chuyển đi từ Little Purlington lúc hai giờ mười. Little Purlington ở Essex, tôi chắc là nó không xa Frinton lắm. À, dĩ nhiên là ông phải đi ngay đấy. Rõ ràng là bức điện này là của một người có trách nhiệm đây, ông cha xứ ở đó mà. Quyển danh mục giáo sĩ Crockford ở đâu nhỉ? Đây rồi. J.C. Elman, M.A., trông coi Mossoor kiêm cả Little Purlington. Tra tìm lịch trình xe lửa đi nào, ông Watson.
- Có một chuyến lúc năm giờ hai mươi tại đường Liverpool.
Hay lắm. Tốt nhất là ông đi với ông ta đi, Watson ạ. Ông ta có thể cần giúp đỡ hay góp ý điều gì chăng. Rõ ràng là chúng ta đã bị khủng hoảng vì chuyện này rồi đấy.
Tuy nhiên ông khách của chúng tôi hoàn toàn không có vẻ gì là hăng hái muốn lên đường cả.
Ông ta nói:
- Thật hết sức vô lý, ông Holmes ạ. Cái ông này thì biết gì về những chuyện đã xảy ra chứ? Chỉ tổ phí thời gian tiền bạc mà thôi.
- Nếu không biết gì cả thì ông ta đâu có đánh điện cho ông làm gì. Cứ đánh diện cho ông ta biết là ông đang đi đến chỗ ông ta.
- Chắc tôi không đi đâu.
Holmes đành phải khích động lòng nhiệt tình của ông ta.
- Ông Amberley ạ, nếu khi có một manh mối rõ ràng như vậy mà ông lại từ chối không chịu bám sát nó thì tôi e là điều đó có thể gây bất ngờ cho cả cảnh sát và tôi đấy. Chúng tôi sẽ có cảm giác là ông không thực tình sốt sắng trong vụ điều tra này.
Ông khách của chúng tôi có vẻ phát hoảng lên vì sự gợi ý này.
Ông ta đáp:
- Tại sao à, nếu ông đã nói đến nước này thì dĩ nhiên tôi đành phải đi thôi. Chỉ cần nhìn sơ thôi, cũng thấy thật vô lý khi cho rằng ông cha xứ này lại biết được bất kỳ điều gì về vụ này, nhưng mà thôi ông đã nghĩ thế thì.
- Tôi nghĩ thế đấy.
Holmes nhấn mạnh, và thế là chúng tôi phải lên đường. Trước khi rời khỏi phòng, Holmes tách riêng tôi ra và nhắn nhủ rằng ông ta cho rằng đây là vấn đề quan trọng lắm đấy. Ông ta nói:
- Dù gì đi nữa thì ông cũng phải xem cho rõ là ông ta có thực sự đi không đấy. Nếu ông ta kiếm cớ thoái thác hay quay về thì ông hãy đến một tổng đài điện thoại gần nhất và chỉ cần chuyển một từ duy nhất là “Chuồn rồi”. Còn ở đây tôi sẽ bố trí để làm sao tôi có thể nhận được tin dù đang ở bất cứ nơi đâu.
Little Purlington không phải là nơi dễ đến được đâu, vì nó nằm trên một phân nhánh của tuyến hỏa xa. Kỷ niệm về chuyên đi này thật ra chả thú vị gì lắm, vì trời thì nóng, xe lửa chạy chậm rì, còn ông bạn đồng hành thì cứ rầu rĩ và ngậm câm, hầu như không hé môi chút nào cả, họa hoằn lắm mới tỏ một dấu hiệu khinh thị về sự tầm phào của công việc mà chúng tôi đang tiến hành. Cuối cùng khi xuống một ga xép, thì chúng tôi vẫn còn phải đón xe đi hai dặm nữa mới đến được nhà xứ, đó là nơi ở của một vị linh mục to béo, nghiêm chỉnh, khá tự đắc đã tiếp chúng tôi trong phòng làm việc của ông ta. Bức điện tín được đặt trước mặt ông ta.
Ông ta hỏi:
- Thế quý ông cần gì ạ?
Tôi phải giải thích:
- Chúng tôi đến đây theo bức điện mà cha đã gởi đấy ạ.
- Bức điện của tôi! Mà tôi có gởi bức điện nào đâu cơ chứ.
- Tôi muốn nói là bức điện mà cha đã gửi cho ông Josiah Amberly về chuyện bà vợ và chuyện tiền bạc của ông ta đấy.
Vị linh mục bỗng nổi cáu:
- Có phải chuyện đùa không đấy, quý ông, chuyện này đáng ngờ quá đấy. Tôi chưa hề nghe tên của quý ông mà ông vừa mới nêu lên bao giờ cả, và tôi cũng không gửi một bức điện cho bất kỳ ai hết.
Vị thân chủ và tôi cùng trố mắt nhìn nhau.
Tôi đáp:
- Có lẽ là một sự lầm lẫn chăng; có lẽ có đến hai giáo xứ chăng? Bức điện tín đây này, ký tên Elman đàng hoàng, còn đề ngày gửi của nhà xứ nữa đây.
- Chỉ có một giáo xứ ở đây thôi, quý ông ạ, và cũng chỉ có một cha xứ mà thôi, và bức điện này là thứ giả mạo đáng ghê tởm thật đấy, chắc chắn phải cho cảnh sát điều tra nguồn gốc của nó mới được. Trong khi đó, tôi thấy nếu cứ hỏi tới hỏi lui về chuyện này thì cũng chả đi đến đâu cả.
Thế là ông Amberly và tôi lại đành phải vác xác ra vệ đường cua cái nơi phải gọi là một ngôi làng cổ sơ nhất Anh quốc. Chúng tôi đến nhà dây thép, nhưng nó đã đóng cửa rồi. Tuy nhiên tại ga xép “Railway Arms” lại có một cái điện thoại, và nhờ đó mà tôi đã liên lạc được với Holmes. Ông ta cũng ngạc nhiên như chúng tôi về kết quả của chuyên đi.
Tiếng của ông ta vọng lại từ xa.
- Độc thật đấy! Đáng phải lưu ý nhất đấy! Ông bạn Watson à, tôi e rằng tối nay không có tàu về đâu. Tôi không cố tình bắt ông phải kinh hoàng lên về quán trọ nhà quê đâu đấy nhé. Tuy nhiên, lúc nào cũng vẫn còn có thiên nhiên mà, ông Watson ạ - thiên nhiên và ông Josiah Amberly - ông có thể ở trong cái xã biệt lập đó với cả hai đấy.
Sau đó tôi đã nghe thấy tiếng cười khúc khích khi ông ta bỏ đi.
Chỉ vài phút sau tôi mới thấy rằng cái tiếng tăm về chuyện keo kiệt bủn xỉn của ông bạn đồng hành của tôi quả vẫn chưa xứng. Ông ta luôn miệng cằn nhằn về phí tổn của chuyến đi, đã nằng nặc chỉ đi toa hạng ba mà thôi, còn bây giờ lại om sòm không chịu nhận phần thanh toán hóa đơn khách sạn. Sáng hôm sau, khi đã về đến Luân Đôn, thật khó mà nói được trong hai người chúng tôi ai thảm hại hơn ai.
- Hay nhất là ông hãy tạt vào đường Barker khi ta đi ngang đó đi. Có thể là ông Holmes có những chỉ dẫn sốt dẻo gì cũng nên.
Amberly đáp với giọng cáu kỉnh cay cú:
- Nếu chúng cũng chẳng giá trị gì hơn ba cái cái chuyện chỉ giáo vừa rồi thì cũng coi như vứt đi mà thôi.
Thế nhưng ông ta cũng vẫn đi theo tôi. Tôi đã báo cho Holmes biết về giờ ghé thăm nhà ông bằng điện tín, tuy nhiên chúng tôi chỉ thấy một tờ giấy nhắn tin đang nằm chờ cho biết ông ta đang ở tại Lewisham, và mong sẽ gặp chúng tôi ở đó. Thật ngạc nhiên quá đỗi, nhưng lại còn đáng ngạc nhiên hơn nữa khi thấy ông ta đang ở trong phòng khách của nhà ông thân chủ của chúng tôi mà không phải chỉ một mình. Một người đàn ông trông khắc khổ, điềm nhiên đang ngồi cạnh ông ta, người đàn ông da đen với cặp kính râm màu xám và một cái kẹp Masonic to đùng nổi bật trên chiếc cà vạt của ông ta.
Holmes giới thiệu:
- Đây là ông bạn của tôi. Chính ông ta cũng đang quan tâm đến vụ này của ông đấy, ông Josiah Amberly ạ, mặc dù chúng tôi đều đang làm việc độc lập với nhau. Tuy nhiên cả hai chúng tôi đều có cùng một câu hỏi muốn hỏi ông đây!
Ông Amberly ngồi phịch xuống ghế. Ông ta cảm thấy một mối hiểm nguy đang chờ đợi mình. Tôi biết được điều đó qua đôi mắt căng thẳng và khuôn mặt cứ nhăn nhó liên hồi của ông ta.
- Câu hỏi gì chứ, ông Holmes?
- Thế này: Ông đã làm gì với mấy cái xác rồi?
Ông ta bỗng đứng bật dậy cùng với một tiếng hét khản đặc. Ông ta quào cấu trong khoảng không trước mặt bằng đôi bàn tay xương xẩu. Miệng ông ta há hốc và trong khoảnh khắc ấy trông ông ta hệt như một con chim đang kinh hoàng vì trúng đạn. Chỉ trong chớp mắt chúng tôi chợt nhận ra chân tướng của Josiah Amberly, một con quỷ biến thái với một linh hồn cũng đang quằn quại như thân xác ông ta lúc bấy giờ. Khi ngã phịch trở lại chiếc ghế ông ta cứ bụm một bàn tay trên miệng như thể đang chặn lại một cơn ho. Holmes bỗng vồ mạnh vào cuống họng của ông ta như một con cọp đang vồ mồi, rồi bẻ mạnh cho mặt ông ta hướng xuống đất. Một viên thuốc màu trắng rớt ra từ đôi môi đang há hốc của ông ta.
- Đâu có tắt ngang như vậy được, ông Josiah Amberly. Mọi chuyện cần phải dược giải quyết một cách đàng hoàng và tuần tự chứ. Còn chuyện đó thì sao, Baker?
Lúc này ông bạn lầm lì ít nói của chúng tôi mới chịu mở miệng.
- Tôi có thuê một chiếc xe ngựa đậu ngoài cửa đó.
- Chỉ vài trăm mét là tới bót rồi. Chúng ta sẽ cùng đi chứ. Ông ở lại đây, nhé Watson. Chỉ trong vòng nửa tiếng là tôi quay về liền.
Tay buôn thuốc màu về già này đúng là có một sức mạnh như một con mãnh sư ở bên trong cái thân hình vạm vỡ của mình, tuy nhiên ông ta cũng đành thúc thủ trong tay của hai chuyên gia bắt người lão luyện này. Ông ta cứ vùng vẫy trong khi bị lôi ra chiếc xe ngựa đang chờ, còn tôi đành phải ở lại một mình canh giữ trong ngôi nhà mang điềm gở này. Tuy nhiên chưa đến giờ đã định thì Holmes đã quay trở lại cùng với một viên thám tử cảnh sát trẻ tuổi lanh lợi.
Holmes nói:
- Tôi đã để cho Barker lo mọi thủ tục rồi. Trước đây ông chưa từng được gặp Barker đâu, Watson nhỉ. Hắn là địch thủ của tôi trong vụ bờ biển Surrey đấy chứ. Khi ông vừa nói đến một người da đen cao cao là tôi đoán ra ngay đó là ai rồi. Hắn cũng đảm nhận một vài vụ khá lắm, phải không ông thám tử?
Viên thám tử trả lời một cách đè dặt.
- Chắc là ông ấy cũng có tham gia một vài lần thì phải.
- Chắc chắn phương pháp làm việc của hắn cũng không phải chính quy như của tôi vậy. Ông biết đấy, đôi khi những cái bất quy tắc cũng hữu dụng đấy chứ. Thí dụ như anh chỉ biết răm rắp theo lệnh là phải cảnh báo bất kỳ những gì ông ta cho là đang được sử dụng để chống lại ông ta, thì có thể anh sẽ chẳng bao giờ lừa cho ông ta khai ra sự thực được đâu.
- Có lẽ là không, thật đấy. Tuy nhiên chúng tôi cũng đạt đến cái đích ấy y chang như vậy mà, ông Holmes. Đừng nghĩ là chúng tôi đã không có quan điểm riêng về vụ này và không nhúng tay gì vào công việc của người của chúng tôi đâu đấy. Ông miễn thứ cho việc chúng tôi lấy làm phiền khi ông nhảy bổ vào bằng những phương pháp mà chúng tôi không thể sử dụng được, và giành hết công lao của chúng tôi.
- Sẽ không có chuyện cướp công thế đâu ông MacKinnon ạ. Tôi cam đoan với ông rằng từ bây giờ tôi sẽ lánh mặt, còn ông Barker cũng sẽ không làm gì đề lưu lại dấu vết về những gì tôi đã nói đâu.
Viên thám tử có vẻ đã khá yên lòng.
- Thế là ông xử đẹp lắm đấy, ông Homes à. Ông thì đâu có màng gì chuyện khen chê, nhưng với chúng tôi thì lại là chuyện khác đấy, khi mà đám báo chí bắt đầu chất vấn thì biết sao được cơ chứ.
- Hẳn vậy rồi. Nhưng bảo đảm họ sẽ nêu ra bất kỳ câu hỏi nào đấy, vì vậy tốt hơn là phải chuẩn bị sẵn những câu trả lời đã. Chẳng hạn như, ông sẽ trả lời sao khi một phóng viên thông minh và táo bạo hỏi ông về những điểm chính xác đã đưa đến sự nghi ngờ của ông, rồi cuối cùng lại đưa ra cho ông một lý lẽ buộc tội nào đó theo các sự kiện thực tế?
Viên thám tử có vẻ bối rối.
- Tuy nhiên dường như chúng tôi chưa nắm được bất kỳ sự kiện thực tế nào cả, ông Holmes à. Ông bảo rằng tội phạm, trước sự chứng kiến của ba nhân chứng, thực sự đã thú nhận, qua hành vi cố gắng tự sát, rằng ông ta đã ám sát vợ mình và tình nhân của bà ta chứ gì. Vậy ông còn sự kiện nào khác nữa không?
- Thế các ông có tổ chức việc khám xét chưa?
- Có ba nhân viên cảnh sát đang thi hành nhiệm vụ rồi.
- Rồi ông sẽ có được sự kiện rõ rệt nhất cho mà xem. Mấy cái xác chẳng ở đâu xa đâu. Thử lục soát trong hầm rượu và trong vườn xem sao. Việc đào bới những nơi như thế chẳng tốn nhiều thời gian lắm đâu. Ngôi nhà đó còn lâu đời hơn cả hệ thống cấp nước nữa, nên ắt là phái có một cái giếng đã bỏ, không còn sử dụng nữa, ở đâu đó. Mấy ông cứ kiếm cầu may xem sao.
- Nhưng làm sao mà ông biết chuyện đó chứ, rồi biết phải làm như thế nào đây?
- Trước hết tôi sẽ chỉ cho ông thấy phải thực hiện như thế nào, rồi sau đó tôi sẽ giải thích là tại sao ông lại phải làm vậy nhé, và còn phải giải thích nhiều hơn nữa cho ông bạn của tôi đây cứ phải chịu trận ở đây, mà chả làm nên cơm cháo gì từ đầu chí cuối trong việc này. Nhưng trước hết tôi sẽ cho ông biết rõ tâm lý người đàn ông này. Ông ta là người rất dị thường - đến nỗi tôi cho là phải đưa ông ta đến trại tâm thần Broadmoor dành cho tù nhân chứ không phải là lên dàn máy chém nữa. Đầu óc ông ta phải nói là cực kỳ giống với một người mang bản chất của dân Ý thời trung cổ chứ chẳng phải là của một người dân Anh hiện đại. Ông ta là một kẻ keo kiệt đến thảm hại khiến cô vợ của ông ta phải chịu khốn khổ vì cách sống bủn xỉn của mình đến nỗi đã trở thành mồi ngon cho bất kỳ một kẻ bịp bợm nào. Một tay bịp bợm như vậy đã xuất hiện trong vở kịch dưới vai một tay bác sĩ mê cờ. Amberly rất xuất sắc về môn cờ - một điểm đáng lưu ý về một đầu óc mưu mẹo tính toán đấy, ông Watson ạ. Cũng như bao kẻ keo kiệt bủn xỉn khác, ông ta cũng là một người đàn ông có máu ghen, và tật ghen tuông của ông ta đã biến thành chứng hoang tưởng. Dù đúng hay sai, thì ông ta vẫn nghi ngờ là đang có một chuyện dan díu tằng tịu giữa hai người. Ông ta rắp tâm trả thù, và đã lập kế hoạch bằng đầu óc gian ngoan hiểm độc của mình. Hãy lại đây xem này!
Holmes dẫn chúng tôi đi theo hành lang của ngôi nhà, thông thuộc như một người đã từng sống ở đó, và sau đó đã ngừng lại tại cánh cửa đang mở rộng của ngôi nhà bọc sắt.
Viên thám tử bỗng kêu lên:
- Úi dào! Mùi sơn sao mà khủng khiếp thế không biết!
Holmes giải thích:
- Đó chính là manh mối đầu tiên của tôi đấy. Ông có thể cám ơn nhận xét của bác sĩ Watson về chuyện đó, mặc dù ông ta đã không suy diễn ra được diều gì từ manh mối này. Tôi đã lần theo dấu vết này đấy. Tại sao đang ở trong một tình cảnh như thế mà người đàn ông này lại còn làm cho cả nhà mình ngập ngụa những mùi vị nồng nặc như thế được nhỉ? Đương nhiên là để khỏa lấp một mùi vị khác mà ông ta muốn che giấu - một mùi vị liên quan đến tội ác sẽ dẫn đến sự nghi ngờ. Sau đó một ý nghĩ ngờ vực khác sẽ chợt đến về một căn phòng như các ông thấy ở đây với cửa cái và cửa lùa hoàn toàn bằng sắt - một căn phòng hoàn toàn kín mít. Hãy kết hợp hai sự kiện này lại, để xem chúng dẫn đến đâu? Tôi chỉ có thể xác định được điều đó bằng cách đích thân mình xem xét nó mà thôi. Tôi đã chắc chắn đây là một vụ án nghiêm trọng, là vì tôi đã xem xét sơ đồ sắp chỗ của phòng vé ở nhà hát Haymarket - một hồng tâm khác nữa của ông Watson đây - và đoan chắc rằng cả số ghế ba mươi lẫn số ghế ba hai trên dãy ghế thượng hạng đều bị bỏ trông vào tối hôm đó. Tức là, Amberly đã không đi xem hát nên tình trạng ngoại phạm của ông ta là không có cơ sở. Ông ta đã mắc phải sơ suất thật tệ hại khi để cho ông bạn tinh ranh của tôi ghi nhận được số ghế dành cho vợ ông ta. Bây giờ mới đến lượt vấn đề là làm thế nào để có thể kiểm tra ngôi nhà đây. Tôi đã phái một nhân viên đến một ngôi làng thuộc loại khỉ ho cò gáy nhất mà tôi có thể nghĩ ra được, rồi cho mời thân chủ của mình đến đó vào cái giờ mà ông ta không tài nào quay trở về được. Để chắc ăn, bác sĩ Watson đã phải cùng đi với ông ta. Cái tên tuổi đàng hoàng chính đáng của vị linh mục chính xứ đó dĩ nhiên là tôi đã moi móc từ quyển danh mục tu sĩ Crockford của tôi chứ đâu. Tôi trình bày thế liệu quý vị đã tỏ tường chưa đấy?
Viên thám tử suýt soa.
- Quả là bậc thầy có khác.
- Một khi không còn sợ bị trở ngại công việc, thế là tôi tiến hành đột nhập ngôi nhà. Ăn trộm vẫn luôn là một nghề lập dị đấy chứ nếu như tôi muốn hành nghề, và để chắc ăn thì tôi không nên vào nhà bằng lối cửa trước thì hơn. Quan sát kỹ những gì mình khám phá được. Các ông có thấy đường ống ga chạy dọc theo đường chỉ gỗ ốp chân tường ở đây đấy chứ. Rẩt tốt. Nó chạy xéo lên men theo vách tường, và ở đây có một khóa van ở góc nhà. Như các ông thấy đấy, đường ống chạy vào căn phòng bọc sắt, và tận cùng bằng cái gương sen được trét kín bằng vữa ở ngay giữa trần, với các họa tiết trang trí ngụy trang cho nó. Đầu mút của ống loe rộng ra. Vào bất kỳ lúc nào chỉ cần mở khóa van bên ngoài thì căn phòng sẽ bị tràn ngập hơi ga. Với cánh cửa đóng kín và mở khóa ga hết cỡ thì chưa đầy hai phút bất kỳ người nào bị nhốt bên trong căn phòng nhỏ này cũng phải mất hết cảm giác. Tôi không rõ ông ta đã dụ dỗ họ vào đó bằng cái công cụ quỷ quái nào nữa, nhưng một khi đã vào bên trong cánh cửa ấy rồi thì số phận của họ chỉ còn biết phó mặc trong tay ông ta mà thôi.
Viên thám tử quan sát đường ống thật kỹ, rồi nói:
- Một nhân viên của chúng tôi cũng có nói đến mùi ga, nhưng dĩ nhiên sau đó cửa cái và cửa sổ đã mở, và đã phảng phất sẵn mùi sơn - hay đại loại một mùi gì đó như sơn rồi. Theo lời kể của ông ta thì ông ta đã bắt đầu việc sơn phết này từ ngày hôm trước rồi. Thế tiếp theo đó là chuyện gì vậy, ông Holmes?
- À, sau đó bỗng xảy ra một tình tiết khá bất ngờ với tôi. Sáng sớm khi tôi đang chui qua cửa sổ phòng chứa thức ăn để ra ngoài tôi cảm thấy có một bàn tay thò vào cổ áo tôi, rồi một giọng nói vang lên: “Này, thằng khốn kia, mày đang làm gì ở trong đó hả?” Khi ráng ngoái cổ nhìn lại tôi trông thấy ngay cặp kính màu của ông bạn mà đồng thời cũng là đối thủ của mình, tức ông Baker. Đúng là cuộc hội ngộ kỳ cục, nó khiến cả hai cùng cười xòa. Hình như ông ta đã nhận điều tra cho gia đình ông bác sĩ Ernest và cũng có cùng kết luận như tôi về màn kịch độc địa này. Ông ta đã theo dõi ngôi nhà này vài ngày nay rồi, và bỗng phát hiện bác sĩ Watson là một trong những nhân vật rõ ràng là đáng ngờ đã từng ghé đây. Ông ta khó thể bắt giữ được Watson, nhưng khi thấy đúng là có người đang trèo ra khỏi cửa sổ phòng chứa thức ăn thì quả thực ông ta hết chịu đựng nổi chuyện đó. Dĩ nhiên tôi đã cho ông ta biết rõ mọi vấn đề và chúng tôi cùng tiếp tục tiến hành vụ án với nhau.
- Tại sao lại là ông ta? Mà không phải là chúng tôi chứ?
- Vì tôi còn nhất định phải làm một cuộc trắc nghiệm nhỏ, thế mà nó đã được giải đáp thật hết ý như vậy. Tôi e rằng các ông sẽ không dám đi quá xa đến vậy đâu.
Viên thám tử mỉm cười.
- Đúng là, không dám đâu. Tôi hiểu ý ông chứ, ông Holmes, bây giờ ông sẽ rút chân ra khỏi vụ án rồi nhường toàn bộ kết quả cho chúng tôi chứ gì.
- Chắc chắn là vậy rồi, đó là thói quen của tôi đấy chứ.
- Thế thì, nhân danh lực lượng Cảnh sát tôi xin cảm tạ ông. Đây có vẻ như một vụ án quá rõ như ông đã vạch cho, còn chuyện mấy cái xác thì chả có gì là gay go nữa cả.
Holmes tiếp lời:
- Tôi sẽ chỉ cho ông một chứng cớ nhỏ thôi nhưng lại rất nặng ký, và tôi dám bảo đảm trăm phần trăm rằng chính Amberly cũng không tài nào nhận ra được. Ông thám tử này, dứt khoát ông sẽ đạt được kết quả bằng cách luôn luôn đặt mình vào trường hợp người khác, rồi nghĩ xem mình sẽ phải làm gì. Cần phải chịu khó tưởng tượng một chút, nhưng kết quả gặt hái được thật bõ công lắm đấy. Thế này nhé, chúng ta sẽ giả sử rằng ông đang bị nhốt trong căn phòng nhỏ này, chỉ còn được sống trong hai phút phù du nữa thôi, nhưng lại muốn ăn miếng trả miếng kẻ thù của mình có lẽ lúc ấy đang chế nhạo mình ở bên kia cánh cửa. Vậy ông sẽ làm gì nào?
- Viết một lời nhắn để lại.
- Đúng đấy. Ông sẽ cho mọi người biết mình đã chết như thế nào. Nếu viết trên giấy cũng chỉ hoài công thôi. Nó sẽ bị phát hiện ngay. Nếu ông viết trên tường thì cũng có cặp mắt nào đó chăm chăm nhìn thấy. Bây giờ, hãy nhìn này! Ngay trên chỉ gỗ ốp chân tường có hàng chữ được viết nguệch ngoạc bằng loại viết chì không xóa được, màu tím hồng: “Chúng tôi bị...” Chỉ có thế thôi.
- Thế ông suy ra được điều gì từ hàng chữ đó vậy?
- Thế này nhé, nó chỉ cách mặt đất ba tấc. Con người bất hạnh đó đang nằm trên sàn nhà và đang hấp hối khi viết hàng chữ đó. Anh ta đã mất tri giác trước khi kịp viết hết câu.
- Anh ta đang viết câu, “Chúng tôi bị giết”.
- Đó là cách mà tôi đọc ra câu đó. Giả như ông mà kiếm ra được cây viết chì không xóa được trên cái xác...
- Chúng tôi sẽ tìm ra mà, ông cứ tin đi. Nhưng còn số chứng khoán thì sao? Rõ ràng là đã không có vụ trộm cắp nào cả. Như thế là ông ta vẫn đang sở hữu những tờ chứng khoán đó. Chúng tôi đã xác minh rồi.
- Ông có thể tin chắc rằng ông ta đã giấu chúng ở một nơi an toàn rồi. Khi toàn bộ vụ án bỏ nhà theo trai này đã chìm vào quá khứ rồi thì ông ta sẽ bất thình lình tìm ra chúng, rồi hô lên rằng đôi gian phu dâm phụ đã ăn năn hối lỗi mà trả lại của ăn cắp hay đã làm rớt nó trên đường bỏ trốn chẳng hạn.
Viên thám tử nói:
- Chắc là ông ta sẽ bị kẹt cứng rồi đấy. Dĩ nhiên ông ta phải đến gặp chúng tôi là lẽ đương nhiên, nhưng tại sao ông ta lại đến với ông thì tôi không tài nào hiểu nổi đấy.
Holmes đáp ngay:
- Chỉ vì muốn khoe khoang chứ có gì đâu! Ông ta cảm thấy mình quá khôn khéo và chắc ăn đến nỗi cho rằng chẳng có ma nào có thể đụng vào mình được. Ông ta có thể nói với bất kỳ tay hàng xóm nào có ý ngờ vực rằng, “để xem nào, tôi đã làm đủ cách rồi. Tôi không những đã nhờ cảnh sát rồi nhé, mà thậm chí còn nhờ đến cả ông Sherlock Holmes nữa chứ chẳng chơi đâu”.
Viên thám tử bật cười.
- Chúng tôi đành phải tha cho ông về cái từ “thậm chí” của ông đấy nhé, ông Holmes. Đó quả là một sự dụng công mà tôi cần ghi nhớ đấy.
Hai ngày sau ông bạn tôi ném cho tôi tờ bán nguyệt san Người quan sát North Surrey. Dưới một loạt những hàng tít thật sôi nổi, bắt đầu bằng “Nỗi Kinh Hoàng Ở Ngôi Nhà Haven” và kết thúc với “Cuộc Điều Tra Xuất Sắc Của Cảnh Sát”, là một cột báo tường thuật những diễn tiến ban đầu của vụ án. Phần kết luận tóm lược toàn bộ vụ án như sau:
Sự nhạy bén xuất sắc của thám tử MacKinnon đã suy diễn ra mùi ga bị khỏa lấp bằng mùi sơn; sự suy diễn táo bạo cho rằng căn phòng bọc sắt có thể biến thành căn buồng của thần chết, và cuộc điều tra sau đó đã dẫn đến sự phát hiện ra hai cái xác chết trong một cái giếng không còn sử dụng nữa, được che giấu bằng một cái cũi chó, sẽ sống mãi trong lịch sử hình sự như một điển hình lừng lẫy về trí thông minh của các thám tử chuyên nghiệp.
Holmes nói, với một nụ cười nhẫn nại:
- Đúng, đúng MacKinnon là tay giỏi nghề quá đi chứ. Ông cứ lưu bản tin này vào hồ sơ lưu trữ của chúng ta đi, Watson à. Rồi cũng có ngày người ta sẽ biết được sự thực cho mà xem.