Đang nói chuyện hôm ấy ba đội quân mã tiên phong của Tống Giang xông trận đánh giết quân triều đình, Đồng Quán đại bại, quân sĩ tổn thất thương vong đến bảy tám phần. Quân triều đình vứt chiêng trống, đao xích, kêu ta hoảng sợ, số bị giết đến hơn vạn người. Đồng Quán phải cho lui quân ngoài ba mươi dặm, mới dám dừng lại đóng trại. Bên quân Lương Sơn Bạc, Ngô Dụng cũng cho khua chiêng thu quân, truyền cho quân sĩ: "không cần đuổi theo, cho bọn chúng biết thế là đủ". Tống Giang dẫn người ngựa trở về sơn trại nghỉ ngơi. Các tướng sĩ ai nấy đều báo công lĩnh thưởng.Lại nói Đồng Quán thua trận, người ngựa thương vong quá nửa, phải lui quân đóng trại nghỉ ngơi. Đồng Quán lo buồn cho gọi các tướng đến bàn bạc. Hai tướng Phong Mỹ và Tất Thắng nói:- Xin nguyên suý đừng lo! bọn giặc biết tin quân triều đình đến đánh, đã bày sẵn thế trận đối phó. Quân ta mới đến, chưa biết thực hư thế nào, vì vậy trúng gian kế của giặc. Cứ như ngụ ý của bọn tiểu tướng thì quân giặc chỉ dựa vào thế. Quân ta nhất khởi không giành được địa lợi, xin nguyên suý cho quân tạm nghỉ ba ngày để chỉnh đốn quân mã, luyện tập binh sĩ, nuôi dưỡng nhuệ khí. Sau đó sẽ đem toàn quân dàn thế trận trường xà mà đánh vào, đầu đuôi tiếp ứng cho nhau không đứt đoạn. Quyết chiến một trận ấy, quân ta tất lập được công lớn.Đồng Quán nói:- Kế ấy của tướng quân rất hợp ý ta.Rồi Đồng Quán truyền lệnh cho ba quân nghỉ ngơi, luyện tập.Đến ngày thứ ba, từ canh năm, quân sĩ nấu cơm ăn xong, người mặc giáp sắt, ngựa khóac áo giáp da, đao thương, cung nỏ sẵn sàng, đúng là:Đao thương cuồn cuộn như nước chảy,Người ngựa ào ào gió lướt nhanh.Hai đại tướng Phong Mỹ và Tất Thắng đưa quân tiên phong rầm rộ lên đường tiến đánh Lương Sơn Bạc. Tám đội quân mã chia làm hai phía tả hữu. Ba trăm quân thám mã mặc giáp sắt tiến trước, rồi quay về trung quân báo với Đồng Quán:- Trên chiến trường hôm trước không hề thấy một bóng người ngựa.Đồng Quán nghe xong có ý ngờ, bèn thúc ngựa lên tiền quân hỏi bọn Phong Mỹ, Tất Thắng:- Có nên lui quân không?Phong Mỹ đáp:- Xin chủ tướng đừng nghĩ chuyện lui quân, chỉ có một đường tiến đánh! chủ suý lo sợ gì mà không dám dàn thế trận trường xà?Quân Đồng Quán tiếp tục vòng vèo tiến đến vùng đầm nước dưới chân núi, trước sau vẫn không hề thấy bóng giặc, chỉ thấy bờ nước mênh mông, một dải lau lách mây khói um tùm. Xa xa nhìn lên trại Thuỷ Hử, một lá cờ vàng màu hoa hạnh đang phần phật tung bay trên đỉnh núi. Khắp nơi không một động tĩnh. Đồng Quán cùng bọn Phong Mỹ, Tất Thắng dừng ngựa trước ba quân nhìn sang bờ bên kia thấy một chiếc thuyền con từ trong đám sậy chèo ra. Người ngồi trên thuyền tay cầm cần buông câu, đầu đội nón lá, mình khóac áo tơi ngả vào mạn thuyền, quay lưng về hướng tây. Đồng Quán sai quân đến sát bờ gọi to:- Có thấy quân giặc ở đâu không?Người câu cá không đáp. Đồng Quán tức giận sai quân cung nỏ bắn chết. Hai tên quân cung nỏ liền cưỡi ngựa đến sát bờ cát, đặt tên giương cung, nhằm người câu cá ở bờ bên kia mà bắn. Mũi tên chạm đánh cắc vào nón rồi rơi xuống nước. Tên thứ hai nhằm bắn vào chiếc áo tơi, mũi tên cũng chạm đánh "cắc" rồi rơi xuống nước. Hai tên đó là hai tay cung nỏ xuất sắc nhất trong quân Đồng Quán. Thấy cả hai mũi tên đều rơi xuống nước, bọn chúng kinh sợ quay về báo với Đồng Quán:- Thưa chủ súy, cả hai mũi tên đều trúng đích nhưng bắn không thủng. Không biết gã đánh cá ấy mặc loại áo gì?Đồng Quán liền ra lệnh cho ba trăm quân cung thủ đến dàn ngang trên bãi cát, nhất lọai nhằm người đánh cá mà bắn. Tên bay đến tới tấp nhưng người đánh cá kia vẫn không tỏ ra hoảng sợ. Phần lớn mũi tên trúng vào áo tơi rồi rơi xuống nước, một số thì trúng vào mạn thuyền. Đồng Quán thấy vậy bèn gọi bọn quân sĩ biết bơi cởi áo giáp lội sang bắt người đánh cá. Bốn năm chục tên tuân lệnh bơi sang. Người đánh cá nghe tiếng nước động ở phía đuôi thuyền bèn thong thả đặt câu, chèo thuyền đến gần rồi cầm sào mà đầu vào đầu, vào mặt, vào thái dương, cứ mỗi sào đâm một tên chìm nghỉm. Bọn bơi sau thấy vậy vội quay lại.Đồng Quán cả giận sai cả trăm quân thám ãm lội nước sang bắt cho được người đánh cá, tên nào quay lại thì chém đầu. Đội thám mã của Đồng Quán vội cởi áo giáp, hò reo nhảy xuống nước. Người đánh cá quay mũi thuyền, chỉ tay về phía Đồng Quán lớn tiếng thét mắng:- Tên tặc thần loạn nước hại dân kia! đã đến đây nộp mạnng còn sợ chết hay sao?Đồng Quán cả giận sai quân sĩ bắn tên sang. Người đánh cá cười vang nói:- Quân mã đã đến kia!Nói đọan giơ tay chỉ trỏ, rồi cởi áo, bỏ nón, lao xuống nước lặn mất. Trong sô' năm trăm quân bơi gần đến thuyền, thỉnh thoảng một đứa kêu ré lên rồi chìm nghỉm. Người đánh cá chẳng phải ai xa lạ mà chính là Lăng lý bạch điều Trương Thuận. Trương Thuận đội chiếc nón ngoài lợp lá, trong lót cốt đồng, còn chiếc áo tơi cũng bằng đồng giát, ngoài đúc vằn mai rùa, vì thế tên bắn không thủng. Trương Thuận lặn dưới nước rút đoản đao thấy đứa nào bơi đến là đâm chết đứa ấy rồi lại lặn đi. Cũng có tên may mắn thoát chết, lội lên bờ chạy trốn. Đồng Quán thấy vậy sợ hãi đứng ngây ra. Một viên tướng bên cạnh chỉ tay nói với Đồng Quán:- Ngọn cờ vàng trên đỉnh núi đang di động.Đồng Quán nhìn kỹ không hiểu ý gì, các tướng cũng không ai biết rõ. Đại tướng Phong Mỹ nói:- Xin chia ba trăm quân giáp mã làm hai đội, đi vòng hai bên sườn núi thăm dò xem sao.Đồng Quán bèn cho quân đi ngay. Quân giáp mã vừa đến dưới chân núi, bỗng nghe trong đám lau sậy tiếng pháo oanh thiên nổ vang, rồi khói lửa bốc mù trời. Quân thám mã đều chạy về báo:- Có quân mai phục!Đồng Quán ngồi trên ngựa giật mình kinh sợ. Hai đại tướng Phong Mỹ và Tất Thắng truyền lệnh cho quân sĩ không được kinh động. Mấy chục vạn quân lăm lăm khí giới trong tay. Quân truyền lệnh của Đồng Quán phi ngựa khắp các hàng quân hô lên:- Kẻ nào bỏ chạy chém đầu!Đồng Quán và các tướng ghìm ngựa đứng nhìn, nghe sau núi tiếng chiêng trống vang dậy, tiếng quân sĩ hò reo, rồi một đội quân mã giương cờ vàng xông ra. Hai tướng tiên phong phóng ngựa lên trước. Đó là Mỹ nhiêm công Chu Đồng, tiếp đó là Sáp sí hổ Lôi Hoành dẫn năm nghìn quân kỵ tiến thẳng về phía quân triều đình. Đồng Quán lệnh cho hai đại tướng Phong Mỹ và Tất Thắng làm tiên phong điều quân chặn đánh. Hai tướng xách thương lên ngựa phóng ra trước trận, lớn tiếng quát:- Bọn giặc cỏ kia, sao chưa chịu cởi giáo quy hàng?Lôi Hoành ngồi trên lưng ngựa cười vang, quát đáp:- Gã sất phu chết đến nơi rồi còn dám đọ sức với ta?Tất Thắng cả giận nâng thương thúc ngựa đến đánh Lôi Hoành. Lôi Hoành cũng múa thương xông đến. Hai tướng đánh hơn hai mươi hiệp không phân thắng bại, Phong Mỹ thấy Tất Thắng có cơ không địch nổi, vội múa đao tế ngựa đến trợ chiến. Chu Đồng thấy vậy quát lớn rồi múa đao đến đánh Phong Mỹ. Hai đôi chiến tướng ngồi trên lưng ngựa quần thảo trước trận. Đồng Quán ghìm ngựa đứng xem, tấm tắc khen ngợi. Một lúc sau Chu Đồng và Lôi Hoành đánh dứ một đừờng, rồi nhân lúc tướng địch sơ hở quay ngựa chạy về trận nhà. Phong Mỹ và Tất Thắng liền thúc ngựa đuổi theo. Quân Lương Sơn Bạc hò la rút chạy. Đồng Quán xua quân đuổi theo đến tận chân núi. Bỗng nghe trên núi tiếng tù và vang. Quân sĩ ngước nhìn lên, thấy hai quả hoả pháo vọt lên không trung. Đồng Quán biết gặp quân mai phục, bèn lệnh cho quân sĩ dừng lại.Đúng lúc ấy từ trên sườn núi hiện ra lá cờ vàng "thế thiên hành đạo". Đồng Quán quay sang nhìn, thấy trong đám cờ thêu nhiều màu sắc, sừng sững hiện lên vị anh hùng cái thế Sơn Đông hô bảo nghĩa Tống Giang. Phía sau là quân sư Ngô Dụng và các tướng Công Tôn Thắng, Hoa Vinh, Từ Ninh cùng nhiều hảo hán khác cầm thương vàng, giáp bạc. Đồng Quán cả giận xua quân đánh dốc lên núi để bắt sống Tống Giang. Đạo quân chia hai đường, chưa kịp tiến thì nghe trên núi có tiếng trống nhạc và tiếng cười vang của các hảo hán. Đồng Quán vừa tức vừa thẹn, nghiến răng quát:- Bọn giặc vô lễ sao dám đùa cợt ta? phải bắt cho được bọn chúng.Phong Mỹ can:- Thưa tướng công, bọn chúng tất có mưu kín, tướng công không nên dấn thân vào chốn nguy hiểm. Xin tạm cho lui quân, ngày mai nghe ngóng hư thực xem sao rồi sẽ tiến đánh.Đồng Quán hỏi:- Không thể được! đã tiến quân đến đây lẽ nào lại có chuyện rút?Đồng Quán chưa dứt lời, bỗng nghe tiếng hậu quân kêu la hoảng sợ. Thám mã về báo: "có một cánh quân giặc từ phía núi tây tràn xuống đánh cắt hậu quân làm hai đoạn".Đồng Quán cả kinh, dẫn bọn Phong Mỹ, Tất Thắng quay lại cứu ứng cho hậu quân. Vừa lúc ấy tiếng trống lại vang lên, lại một cánh quân từ sau núi phía đông tới. Cánh quân ấy gồm năm nghìn người ngựa, một nửa trương cờ đỏ, một nửa trương cờ xanh, do hai viên đại tướng dẫn đầu. Đội quân cờ đỏ là của tướng Tích lịch hoả Tần Minh. Đội quân cờ xanh là của tứơng Đại đao Quan Thắng. Hai tướng phóng ngựa đến quát lớn:- Đồng Quán kia hãy mau nộp thủ cấp!Đồng Quán cả giận sai Phong Mỹ ra đánh Quan Thắng. Tất Thắng đánh Tần Minh. Được một lúc, nghe tiến hậu quân kêu gấp, Đồng Quán phải cho khua chiêng thu quân, truyền cho quân sĩ không được ham đánh. Chu Đồng, Lôi Hoành dẫn quân cờ vàng từ hai phía đánh xáp vào, quân Đồng Quán hoảng hốt rối loạn. Phong Mỹ và Tất Thắng phải hộ vệ Đồng Quán mở đường chạy trốn. Dọc đường lại gặp cánh quân một nửa trương cờ trắng, một nửa trương cờ đen xông ra chặn đường. Hai viên hổ tướng dẫn năm nghìn quân mã, bên cờ đen là quân của Song tiên Hô Diên Chước, bên cờ trắng là quân của Báo tử đầu Lâm Xung. Hai tướng ngồi trên ngựa quát lớn:- Gian thần Đồng Quán định chạy đâu? hãy mau nộp mình chịu trói.Hai tướng xua quân đánh vào trung quân của Đồng Quán. Đô giám Thư Châu là Đoàn Bằng Cử xông ra chặn đánh Hô Diên Chước. Đô Giám Như Châu là Mã Vạn Lý xông đến đánh Lâm Xung. Mã Vạn Lý giao đấu với Lâm Xung chưa được vài hiệp đã thấy khí lực có phần không địch nổi, định bỏ chạy, Lâm Xung quát vang một tiếng, Mã Vạn Lý rụng rời chân tay, liền bị Lâm Xung vung bát xà mâu đâm nhào xuống ngựa. Đoàn Bằng Cử thấy Mã Vạn Lý bị Lâm Xung đâm chết không dám đánh nữa, chỉ đỡ gạt đôi tiên của Hô Diên Chước rồi quay ngựa bỏ chạy. Hô Diên Chước hăng máu đuổi theo. Quân hai bên ùa vào hỗn chiến. Đồng Quán vội tìm đường chạy trốn, lại nghe tiến kêu la vang dậy ở phía tiền quân, một cánh quân bộ từ sau núi đang đánh thọc ra. Hai tướng quân bộ lớn tiếng quát:- Tên Đồng Quán kia chớ chạy!Hai tướng ấy là Hoa hoà thượng Lỗ Trí Thâm bản tính hiếu sát và Hành giả Võ Tòng, người anh hùng nổi tiếng của trại Thuỷ Hử từng giết cọp trên đồi Cảnh Dương.Tàn quân của Đồng Quán bị quân bộ của Lỗ Trí Thâm, Võ Tòng đánh tan, cắt đứt làm bốn năm đoạn. Đồng Quán trước sau không còn lối thoát, bèn cùng bọn Phong Mỹ và Tất Thắng cố sức đánh phá vây mở đường chạy ra sau núi. Quân tướng còn đang thở dốc lại nghe tiếng pháo oanh thiên dậy đất, trống trận vang trời, rồi một đội quân bộ do hai mãnh tướng Giải Trân, Giải Bảo cầm giáo dài năm lưỡiữ chức việc cũ. Trần Nhuận không muốn làm quan, xin trở về núi Đăng Vân làm ăn sinh sống. Sái Khánh theo Quan Thắng về Bắc Kinh làm dân thường. Bùi Tuyên và Dương Lâm, sau khi bàn bạc với nhau, cả hai đều xin trở về vùng suối An Mã giữ chức quan nhỏ. Tưởng Kính nhớ quê, xin được trở về Đàm Châu làm dân thường. Chu Vũ đến truyền thụ đạo pháp cho Phàn Thuỵ, rồi cả hai người làm đạo sĩ đi vân du giang hồ, theo Công Tôn Thắng xuất gia tu hành đến trọn đời. Mục Xuân trở về làm lương dân ở quê nhà, tại trấn Yết Dương. Pháo thủ Lăng Chấn có biệt tài, được bổ chức ở Hoả dược cục thuộc Ngự Doanh. Năm phó tướng trước đã được giữ lại làm việc ở kinh sư thì: An Đạo Toàn được bổ chức Kim tử y quan ở Thái y viện, Hoàng Phủ Đoan làm đại sứ ở Ngự mã giám như cũ, Kim Đại Kiên vẫn làm chức việc cũ ở Ngự bảo giám thuộc Nội phủ, Tiêu Nhượng được bổ chức Môn quan tiên sinh ở phủ Sái thái sư, Nhạc Hoà trông coi việc ca nhạc ở phủ phò mã Vương đô uý, trọn đời thanh nhàn, chuyện không có gì phải nói l Lại nói Tống Giang và Lư Tuấn Nghĩa sau khi chia tay mỗi người một ngả đi nhậm chức. Lư Tuấn Nghĩa gia quyến cũng chẳng còn ai, chỉ đem theo mấy tên quân tuỳ tòng lên đường đi Lư Châu. Tống Giang vào tạ ơn từ biệt triều đình, chào các quan ở sảnh viện, đem theo gia nhân đầy tớ mấy người đi nhậm chức ở Sở Châu. Từ đó hai người xa nhau, ai theo việc nấy, cũng không nói tới nữa. Lại nói triều nhà Tống, nguyên từ khi vua Thái Tông nối ngôi vua Thái Tổ đã bị lời nguyền độc, khiến cho triều đình rối bét, gian nịnh hoành hành. Đến nay thiên tử Tống Huy Tông là bậc chí thánh chí minh, không ngờ cũng bị kẻ sàm nịnh chuyên quyền, bọn gian thần hoành hành, bực hại bậc trung thần lương tướng, thật đáng đau lòng. Chỉ vì bốn tên tặc thần Sái Kinh, Đồng Quán, Cao Cầu, Dương Tiễn phá nước hại dân mà thiên hạ đại loạn. Bấy giờ thái uý Cao Cầu, Dương Tiễn ở phủ Điện suý thấy thiên tử ban thưởng trọng hậu cho anh em Tống Giang thì tỏ ý không bằng lòng. Chúng gặp nhau bàn cách đối phó. Cao Cầu nói: - Bọn Tống Giang, Lư Tuấn Nghĩa là kẻ thù của ta, thế mà nay ta lại phải coi chúng như bậc công thần được triều đình phong quan ban tước cho cai quản quân dân. Các quan sảnh viện bọn ta sao khỏi bị người ta chê cười? Người xưa có câu: “Giận nhỏ không quân tử, không độc chẳng trượng phu!”. Dương Tiễn nói: - Hạ quan có một kế, trước hết đối phó với Lư Tuấn Nghĩa để chặt đứt một cánh tay của Tống Giang. Hắn ta là một kẻ anh hùng, nếu định hại hắn trước mà để cho hắn biết thì hỏng việc, gây ra nhiều chuyện bất lợi. Cao Cầu nói: - Xin túc hạ cứ cho nghe diệu kế. Dương Tiễn nói: - Tìm lấy vài tên quân ở Lư Châu, bảo bọn chúng đến sảnh viện tố cáo an phủ Lư Tuấn Nghĩa chiêu binh mãi mã, ngầm chứa lương thảo, có ý muốn làm phản. Sau đó đưa bọn chúng đến trình ở phủ thaí sư, nhưng không cho thái sư biết sự thật. Chờ thái sư tâu lên thiên tử xin thánh chỉ định đoạt, lúc đó sẽ sai người dụ hắn về kinh, rồi nhân khi thiên tử ban yến, ta sẽ ngầm trộn thuỷ ngân vào thức ăn khiến hắn phải truỵ thận, không làm được việc gì nữa. Thế là yên chuyện. Sau đó sai sứ giả đem ngự tửu đến ban cho Tống Giang, trong rượu bỏ thuốc độc chậm, chỉ trong vòng nửa tháng thì vô phương cứu chữa. Cao Cầu nói: - Thật là đại diệu kế? Có thơ rằng: Tự cổ quyền gian hại thiện lương Bất dung trung nghĩa lập gia bang Hoàng thiên nhược khẳng minh chiêu báo Nam tác bài ưu, nữ tác xương. Dịch: Giận lũ quyền gian đạo phá đạo thường Bịt đường rấp lối hại trung lương Trời xanh ví biết treo gương xấu Con đĩ, thằng hề dám nhiễu nhương. Hai tên tặc thần ấy bàn xong mưu kế liền sai kẻ tâm phúc đi tìm hai người dân quê ở Lư Châu cho ăn mặc giả làm quân sĩ, rồi viết hộ đơn, bảo bọn chúng đưa đến khu mật viện tố cáo Lư Tuấn Nghĩa hiện đang chiêu binh mãi mã, chứa lương thảo ở Lư Châu có ý muốn làm phản, lại nói Lư Tuấn Nghĩa đã sai người sang Sở Châu liên kết với an phủ sứ Tống Giang để cùng nhau dấy loạn. Quan khu mật viện Đồng Quán vốn cũng thâm thù với Tống Giang nên khi hai tên tố cáo đem đơn đến thì Đồng Qúan nhận đơn rồi trình ngay sang phủ thái sư. Sái Kinh nhận đơn rồi trình ngay sang phủ bàn định. Cao Cầu, Dương Tiễn tất nhiên cũng ở trong số đó. Thế là bốn tên gian thần cùng nhau bàn định mưu kế, rồi dẫn cả hai tên tố cáo vào nội phủ tâu lên thiên tử. Huy Tông hoàng đế nói: - Trẫm nghĩ bọn Tống Giang, Lư Tuấn Nghĩa trong tay có hơn mười vạn quân đi dẹp giặc bốn phương mà không sinh lòng phản trắc, nay đã bỏ tà theo chính, lẽ nào còn tính chuyện làm phản? Trẫm cũng chưa từng đối xử bội bạc với bọn họ, sao có chuyện họ dám phản lại triều đình? Bên trong hẳn có điều gì gian trá, chưa xét rõ thực hư, chưa thể tin ngay được. Lúc ấy Cao Cầu, Dương Tiễn đứng bên cạnh tâu rằng: - Đạo lý như bệ hạ phán dạy là chí phải, nhưng lòng người khó lường. Bọn thần nghĩ Lư Tuấn Nghĩa hẳn là chê quan thấp chức nhỏ cho nên lại sinh lòng phản trắc, không may bị phát giác. Huy Tông hoàng đế nói: - Cứ gọi kẻ tố cáo vào đây để trẫm đích thân thẩm vấn. Sái Kinh, Đồng Quán lại tâu rằng: - Lư Tuấn Nghĩa là con thú dữ, vẫn chưa đổi lòng. Nếu làm kinh động lọt chuyện ra ngoài thì rất bất lợi, sau khó lòng truy bắt. Chỉ có cách lừa hắn về kinh, bệ hạ sẽ lựa lời phủ dụ, ban yến và ngự tửu cho hắn để dò xét thực hư động tĩnh ra sao. Nếu quả không có chuyện gì thì không cần phải xét hỏi, mà cũng tỏ ra bệ hạ không phụ kẻ công thần. Thiên tử chuẩn tâu, liền truyền chỉ sai sứ giả đến Lư Châu triệu Lư Tuấn Nghĩa về triều để sai phái công việc. Sứ giả vâng lệnh đến Lư Châu, các quan văn võ lớn nhỏ ra ngoài thành nghênh đón, mời sứ giả vào phủ đường tuyên đọc chiếu thư. Lư Tuấn Nghĩa nghe truyền thánh chỉ, vội thu xếp công việc rồi theo sứ giả rời Lư Châu về kinh. Chuyện trên đường đi không cần nói đến. Chẳng bao lâu Lư Tuấn Nghĩa về đến Đông Kinh, vào nghỉ ở ty Hoàng Thành. Ngày hôm sau, từ sáng sớm, Lư Tuấn Nghĩa đã đến ngoài cửa Đông Hoa chờ buổi chầu sáng. Bấy giờ thái sư Sái Kinh, khu mật viện Đồng Quán, hai thái uý Cao Cầu, Dương Tiễn cùng đến dẫn Lư Tuấn Nghĩa vào điện phụ triều kiến thiên tử. Lư Tuấn Nghĩa lạy chào xong, thiên tử nói: - Qủa nhân có việc muốn gặp khanh. Lại hỏi: - Đất Lư Châu của khanh có được yên ổn không? Lư Tuấn Nghĩa lạy hai lạy tâu rằng: - Nhờ phúc lớn như trời biển của thánh thượng, quân dân bản châu đều được yên ổn thái bình. Thiên tử lại hỏi tiếp, toàn những chuyện không đâu, kéo dài đến tận trưa. Quan nhà bếp bước vào tâu: - Ngự thiên đã dọn xong, xin bệ hạ cho thánh chỉ. Lúc ấy Cao Cầu, Dương Tiễn đã ngầm bỏ thuỷ ngân vào thức ăn, sai bưng bầy trên ngự án. Thiên tử cho phép Lư Tuấn Nghĩa dùng cơm ngự. Lư Tuấn Nghĩa vái tạ rồi kính cẩn ngồi ăn. Thiên tử ôn tồn phủ dụ: - Khanh đi trấn nhậm Lư Châu, cốt nhất phải tận tâm, dưỡng yên quân sĩ, chớ sinh ý nghĩ rông càn. Lư Tuấn Nghĩa rập đầu lạy tạ, rồi ra khỏi triều trở về Lư Châu, tuyệt nhiên không biết mình đã bị bốn tên gian thần bầy cách hãm hại. Cao Cầu, Dương Tiễn hể hả bảo nhau: - Từ nay thế là yên chuyện. Lại nói Lư Tuấn Nghĩa đêm ấy trên đường trở về Lư Châu, cảm thấy đau thắt ngang bụng, cử động khó khăn, nên không đi ngựa được, đành xuống thuyền đi đường sông. Đến sông Hoài ở đất Tứ Châu, âu cũng là lúc số trời sắp hết, tự nhiên sẩy chuyện chẳng lành: Đêm ấy sau lúc uống rượu, Lư Tuấn Nghĩa muốn đứng đầu mũi thuyền tiêu khiển, không ngờ thuỷ ngân đã chạy vào tuỷ, vào bụng dưới, Lư Tuấn Nghĩa run chân đứng không vững, lại vì chuếnh choáng hơi men nên sẩy chân rơi xuống sông Hoài ở chỗ nước sâu mà chết đuối. Thương thay Ngọc kỳ lân ở đất Hà Bắc, rốt cuộc phải ôm hận làm quỷ oan trên sông nước. Người hầu vớt được thây, lo liệu quan quách, khâm liệm mai táng Lư Tuấn Nghĩa trên một gò cao thuộc đất Tứ Châu. Quan bản châu gửi văn thư trình lên sảnh viện, việc không có gì phải nói nữa. Lại nói bọn gian thần Sái Kinh, Đồng Quán, Cao Cầu, Dương Tiễn thấy mưu kế đã thành, liền đem văn thư của quan Tứ Châu vào triều tâu lên thiên tử: - Quan Tứ châu có biểu tâu việc Lư an phủ về đến Hoài Hà, vì uống rượu say ngã xuống sông chết đuối. Bọn hạ thần ở sảnh viện không dám không tâu lên. Nay Lư Tuấn Nghĩa đã chết, chỉ sợ Tống Giang có ý nghi ngờ, lại sinh chuyện khác. Xin bệ hạ soi xét, sai sứ đem ngự tửu đến Sở Châu ban cho Tống Giang để Tống Giang yên lòng. Thiên tử im lặng hồi lâu, vì chưa biết bụng dạ bọn chúng thế nào nên chưa muốn chuẩn tâu, sợ xẩy ra chuyện xấu. Thiên tử chưa biết thế nào còn lưỡng lự thì bọn gian thần xảo trá lại lựa lời tâu gièm, làm cho thiên tử dần dần cũng phải nghe theo bọn chúng. Thiên tử bèn giáng chỉ ban hai bình ngự tửu, sai sứ đem đi Sở Châu, giao hẹn phải lên đường ngay hôm ấy. Kẻ được sai đi lại chính là thủ hạ tâm phúc của Cao Cầu, Dương Tiễn. Số phận đã định, Tống Công Minh lẽ ra được hưởng mệnh trời lâu nữa, không ngờ bị bọn gian thần bỏ thuốc độc vào ngự tửu rồi sai người mang đến Sở Châu để ban cho! Lại nói Tống Công Minh được bổ về Sở Châu làm an phủ sứ kiêm tổng quản binh mã. Từ khi nhậm chức, Tống Giang một lòng yêu thương quân dân, được trăm họ kính trọng như cha mẹ, quân sĩ ngưỡng mộ như bậc thần minh. Án kiện xét xử nghiêm minh, các việc trong châu phủ đều đặt người trông nom đầy đủ, lòng người đều khâm phục tôn kính. Những lúc việc quân nhàn rỗi, Tống Giang thường ra ngoài vãn cảnh. Nguyên ở phía nam thành Sở Châu có một nơi gọi là đầm Lục Nhí (loài cây dại, tựa như cây rau răm mọc ở bờ nước, lá màu đỏ. Đầm này có nhiều loại răm dại nên gọi tên ấy). Nơi này bốn bề là ao đầm ngòi rạch mênh mông, ở giữa nhô lên một ngọn núi có hình thể rất đẹp, tùng bách rậm rạp xanh tươi. Tuy chỉ là một vùng đất không rộng lắm, nhưng địa thế rồng cuộn hổ ngồi, núi non nhấp nhô uốn lượn, sườn núi đá xếp như bậc thềm, thật chẳng khác gì địa thế trại Thuỷ Hử ở Lương Sơn Bạc. Tống Giang thấy vậy trong lòng rất vui, thầm nghĩ: “Nếu ta chết ở đây thì đất này đáng là nơi âm trạch. Những lúc rảnh rang ta nên đến đây dạo chơi ngắm cảnh cho đỡ buồn”. Khỏi kể rườm rà: thấm thoát sắp được nửa năm từ khi Tống Giang về nhậm chức. Bấy giờ là thượng tuần tháng tư năm Tuyên Hoà thứ sáu (1124). Tống Giang bỗng nghe tin có sứ giả của triều đình đến ban ngự tửu bèn cùng thuộc hạ ra ngoài thành nghênh tiếp. Sứ giả vào đến phủ đường, tuyên đọc thánh chỉ. Đọc xong sứ giả bưng ngự tửu đến ban cho Tống Giang. Tống Giang uống xong, lại tự tay rót mời sứ giả, nhưng sứ giả từ chối, nói là không quen uống rượu. Lễ ban ngự tửu đã xong, sứ giả liền lên đường về kinh. Tống Giang sửa soạn lễ vật đem biếu sứ giả, nhưng sứ giả không nhận, cáo từ đi ngay. Sau khi uống ngự tửu Tống Giang thấy đau thắt ngang bụng liền sinh nghi, đoán là rượu có pha thuốc độc. Nghĩ vậy Tống Giang vội sai người hầu đuổi theo dò xét thì thấy tên sứ giả vẫn uống rượu mỗi khi nghỉ chân ở các dịch trạm dọc đường. Biết chắc mình mắc mưu gian, uống phải thứ rượu đã bị bọn tặc thần pha thuốc độc. Tống Giang than rằng: “Ta từ nhỏ học Nho, lớn lên làm tiểu lại, không may sẩy thân mắc tội, nhưng trước sau chưa từng làm việc gì có dị tâm. Nay thiên tử khinh suất nghe lời sàm nịnh, sai đem rượu độc ban cho ta! Nào ta có tội tình gì? Ta chết cũng đành, chỉ lo Lý Quỳ hiện làm đô thống chế ở Nhuận Châu, nếu hắn biết triều đình thi hành gia ân tướng về Tế Châu, Phong Mỹ tôi xin ở đây chặn giặc.Nói xong, Phong Mỹ thúc ngựa, múa đao xông đến đánh Lư Tuấn Nghĩa. Hai tướng ngồi trên lưng ngựa giao chiến đến mấy mươi hiệp không phân thắng bại. Lư Tuấn Nghĩa gạt thương chặn lưỡi đao của Phong Mỹ, áp sát vào túm đai lưng Phong Mỹ giật mạnh rồi đạp vào lưng ngựa, nhoài người bắt sống Phong Mỹ. Dương Hùng, Thạch Tú vội đến tiếp ứng, quân sĩ reo hò ùa tới kéo Phong Mỹ đi. Bọn Tất Thắng, Chu Tín, Đoàn Bằng Cử liều mình hộ vệ Đồng Quán vừa đánh vừa mở đường chạy. Lư Tuấn Nghĩa dẫn quân đuổi sát theo sau, tàn quân của Đồng Quán hoảng loạn như cá mắc lưới cho đến khi trời sáng mới thoát khỏi quân Lư Tuấn Nghĩa, chạy tuốt về Tế Châu. Chưa được bao lâu, từ sau sườn núi phía trước lại một đội quân bộ xông ra chặn đường. Đội quân ấy mặc áo giáp có tấm chắn bằng sắt, chít khăn lựu đỏ. Bốn tướng dẫn đầu là: Lý Quỳ hai tay vung hai búa; Bao Húc cầm bảo kiếm; Hạng Sung, Lý Cổn giơ đao vác thuẫn. Quân sĩ theo bốn tướng ào ào xông tới chém giết, tàn quân của Đồng Quán lại một phen tan tác, hoảng loạn tìm đường chạy trốn. Đồng Quán và bọn tuỳ tùng vừa đánh vừa chạy. Hắc toàn phong Lý Quỳ xông thẳng vào giữa người ngựa, vung búa chém gẫy chân ngựa của Đoàn Bằng Cử rồi lôi tuột xuống, đánh một búa vào giữa sọ, lại bồi thêm một búa vào yết hầu cho đầu lìa khỏi cổ!Tàn quân Đồng Quán chạy về gần đến Tế Châu, tên nào cũng kinh hồn bạt vía, ba quân người ngựa mệt mỏi bơ phờ. Gặp dòng khe bên đường người ngựa dừng lại uống nước. Bỗng nghe tiếng pháo oanh thiên từ bờ bên kia nổ vang, rồi cung tên bắn đến tới tấp như mưa. Người ngựa của Đồng Quán đang uống nước vội cạy hết lên bờ. Vừa lúc ấy, một đội quân mã từ trong rừng rậm xông ra. Ba tướng dẫn đầu là Một vũ tiễn Trương Thanh, Cung Vượng và Đinh Đắc Tôn dẫn hơn ba trăm quân mã theo sau ba tướng rầm rập phóng đến. Đô giám Tung Châu là Chu Tín thấy bọn Trương Thanh quân ít bèn dừng lại đón đánh. Tất Thắng hộ vệ Đồng Quán chạy tiếp. Chu Tín phóng ngựa đến đánh Trương Thanh chỉ thấy Trương Thanh cắp thương vào nách trái, tay phải vung nhanh, miệng nói "trúng này!". Viên đá trúng ngay vào hốc mũi, Chu Tín liền lăn nhào xuống ngựa. Cung Vượng và Đinh Đắc Tôn từ hai bên phóng ngựa đến xỉa đinh ba vào yết hầu Chu Tín như xóc ống rơm. Chu Tín chết lăn dưới ngựa. Đồng Quán bên mình chỉ còn Tất Thắng hổ thẹn không dám vào thành Tế Châu, đành thu thập tàn quân người ngựa ngày đêm chạy gấp về Đông Kinh.Nguyên Tống Giang là người nhân đức, trong lòng vẫn có ý định quy thuận triều đình nên không cố tình đuổi tiếp bọn Đồng Quán, nhưng lại sợ các tướng không chịu buông tha bèn sai Đái Tôn đi gấp truyền lệnh cho các đầu lĩnh thu quân về sơn trại. Các đầu lĩnh đều cho khua chiêng thu quân. Các tướng ngồi trên lưng ngựa vỗ yên cương, quân sĩ đồng thanh ca khúc hải hoàn, rầm rộ trở về Lương Sơn Bạc, tiến thẳng vào thành Uyển Tử. Tống Giang, Ngô Dụng, Công Tôn Thắng đến nhà Trung Nghĩa đường ở trại Thuỷ Hử, lệnh cho Bùi Tuyên mở sổ ghi công, ban thưởng tướng sĩ, Lư Tuấn Nghĩa áp giải Phong Mỹ vào sân bắt quỳ trước sảnh đường. Tống Giang xuống tận nơi cởi trói, dẫn Phong Mỹ lên ngồi trên sảnh, rót rượu mời uống rồi chuyện trò thăm hỏi để an ủi.Ngày hôm ấy, sơn trại giết trâu mổ ngựa khao thưởng ba quân. Tống Giang lưu Phong Mỹ nghỉ lại vài hôm rồi cho đem ngựa đến đưa xuống núi. Phong Mỹ cả mừng. Tống Giang nói:- Trong chiến trận, ba quân trót vô lễ xâm phạm tôn uy, mong tướng quân lượng thứ cho! anh em Tống Giang tôi vốn không có dị tâm chống lại triều đình, vẫn muốn được quy thuận để đem sức giúp nước. Chỉ vì những kẻ bất lương tàn ác bức bách nên mới đến nỗi như thế. Khi về triều, mong tướng quân lựa lời tâu trình gỡ tội giúp chúng tôi. Nếu ngày sau đội ơn lại được trông thấy mặt trời, anh em Tống Giang tôi sống chết không dám quên ơn đức của tướng quân.Phong Mỹ sụp lạy tạ ơn được tha chết rồi cáo từ xuống núi. Tống Giang sai người đưa Phong Mỹ ra khỏi sơn trại rồi tha cho về kinh, chuyện không có gì đáng nói. Tống Giang lại trở lại Trung Nghĩa đường cùng Ngô Dụng và các đầu lĩnh bàn tính công việc. Trong trận này đặt phục binh mười hướng là mưu kế của quân sư Ngô Dụng, làm cho Đồng Quán khiếp vía kinh hồn, đến nỗi nằm mê cũng còn sợ, quan nhân triều đình ba phần thương vong tổn thiệt đến hai phần.Ngô Dụng nói:- Đồng Quán về kinh tâu lên vua, thế nào triều đình cũng lại cho quân đến đánh nữa. Ta nên sai người về Đông Kinh nghe ngóng xem hư thực ra sao về báo lại để kịp đối phó.Tống Giang nói:- Lời quân sư rất hợp ý ta! vậy có thể sai ai đi được?Lúc ấy trong hàng ghế các đầu lĩnh có người lên tiếng:- Tiểu đệ xin đi!Mọi người quay lại nói:- Hay lắm! người anh em này đi hẳn là được việc.Chưa biết người nào xin đi, chỉ biết trước rằng:Phủ Tế Châu thêm thuyền chiến mông xungLương Sơn Bạc đoạt quân lương vạn thạchĐúng là:Xông trận ngựa lăn bên lèn đáRỡn sông thuyền đắm giữa bờ lau.Chưa biết người từ Lương Sơn Bạc ra đi là ai, xem hồi sau sẽ rõ.