ớn lên ở Engelthal, điều khó khăn nhất đối với tôi là làm thế nào để hạ giọng mình xuống. Tôi hiểu rõ im lặng là một phần không thể thiếu trong đời sống tinh thần của chúng tôi, tuy thế tôi rất hay bị chỉnh vì tội “quá cởi mở”. Thực ra tôi chỉ đang làm những gì một đứa trẻ hay làm mà thôi. Ở Engelthal không chỉ âm thanh mà tất cả mọi thứ đều câm lặng. Mọi mặt của cuộc đời chúng tôi đều được tóm gọn trong Thể chế Giáo hội, một tài liệu chỉn chu đến mức dành hẳn năm chương chỉ để nói về quần áo và giặt giũ. Thậm chí cả những tòa nhà của chúng tôi cũng không có chút tinh tế nào vì sợ sẽ làm vấy bẩn tâm hồn chúng tôi. Chúng tôi phải ngồi trong phòng ăn theo đúng thứ tự như khi đứng hát đồng ca. Trong suốt bữa ăn, chúng tôi vẫn được nghe đọc sách để nuôi dưỡng cả thể chất lẫn tinh thần. Chúng tôi phải nghe những đoạn trích trong Kinh Thánh và rất nhiều đoạn nói về thánh Augustine, thỉnh thoảng là Cuộc đời của thánh Dominic, Hào quang truyền thuyết, hoặc Thánh Trudperter Hohelied. Ít nhất thì việc nghe đọc sách cũng giúp chúng tôi sao nhãng khỏi bữa ăn nhạt nhẽo - gia vị thì bị cấm và chúng tôi không được ăn thịt nếu không có sự cho phép đặc biệt, chỉ được đưa ra vì những lý do về sức khỏe. Bất cứ khi nào không phải ở nhà nguyện chính để dự thánh lễ Mass, tôi dành toàn bộ thời gian của mình trong phòng viết. Gertrud đã thể hiện rất rõ ngay từ đầu là bà không ưa sự hiện diện của tôi chút nào. Tuy thế, với tư cách thủ thư của tu viện, thật không mẫu mực nếu bà cứ thẳng tay xả cục tức lên đầu tôi. Về điều này, đã có trợ lý của bà là xơ Agletrudis lo rồi. Agletrudis là một hành tinh nhỏ bụ bẫm quay xung quanh Gertrud, siêu sao của phòng viết; tất cả những hành động của cô ta đều được tính toán sao cho luôn làm hài lòng chủ nhân của mình bằng cách hành hạ tôi. Mục đích cả đời của cô ta là tiếp quản phòng viết sau khi Gertrud chết. Tôi là cái gì chứ, ngoài một vật cản to tướng trên con đường của cô ta? Từ rất lâu trước khi tôi đến, mối quan ngại tài chính đã thâm nhập vào phòng viết. Cung cấp sách cho những công dân giàu có, thường là để đổi lấy đất đai sau khi họ chết, đã thành một tập tục. Gertrud, bất chấp mọi vẻ thần thánh tự tạo của mình, không bao giờ phản đối sự sắp đặt này trên bình diện kinh tế nhưng ghét việc bán sách vì một lý do: chuyện đó ảnh hưởng đến việc sử dụng phòng viết cho mục đích riêng của bà. Hồi sự nghiệp còn non trẻ, Gertrud đã quyết định soạn một tác phẩm vĩ đại sẽ đời đời lưu giữ truyền thuyết về bà: một bản Kinh Thánh bằng tiếng Đức. Tuy bà chưa bao giờ nói hẳn chuyện đó ra, tôi chắc chắn rằng bà đang mơ mộng nó sẽ được biết đến dưới cái tên Die Gertrud Bibel. Đây chính là vấn đề căn bản với sự hiện diện của tôi: tôi là một bé gái - một người lớn chưa hoàn thiện - người sẽ lấy mất khoảng thời gian quý báu bà dành cho công việc thực sự của mình. Tôi vẫn còn nhớ những lời Gertrud nói khi bà đặt tôi dưới sự quản lý của Agletrudis. “Tu viện trưởng tin rằng đứa trẻ này có thể làm được gì đó. Chỉ cho nó một vài kỹ năng cơ bản, tốt nhất là ở bên phòng ấy, nhưng cấm không cho nó sờ vào cái gì. Những ngón tay chuối mắn ấy không xứng đáng được chạm vào những dụng cụ của Chúa. Và trên hết, kéo nó tránh xa cuốn Kinh Thánh của ta ra.” Thế là, thời gian đầu, tôi chỉ được phép ngồi nhìn. Anh có thể hình dung được đối với một đứa trẻ thì chuyện này buồn tẻ đến thế nào đấy, nhưng vì tôi đã dành phần lớn tuổi thơ thu thập thông tin trong khi ngồi yên lặng ở góc phòng, nên chuyện này cũng chẳng có gì mới với tôi cả. Tôi bị mê hoặc bởi cách những chiếc bút lông trở thành một phần phụ trợ cho ngón tay người viết. Tôi tìm hiểu công thức làm mực và biết được rằng thêm thần sa hoặc chu sa vào sẽ làm mực có màu đỏ. Tôi quan sát cách các nữ tu dùng dao để gọt đầu bút chì mỗi khi những con chữ hăm dọa sẽ đánh mất độ rõ nét. Ngay lập tức tôi biết mình đã ở đúng vị trí. Có những thứ ngày nay chúng ta coi là hiển nhiên thì vào thời đó lại rất đặc biệt. Ví dụ như giấy. Chúng tôi không tự làm mà nhận hàng từ một người cung cấp giấy da trong vùng. Rồi chúng tôi phải chuẩn bị sẵn sàng cho giấy được đem vào sử dụng. Các xơ phân loại giấy theo chất lượng tốt xấu rồi theo lông và da động vật để cho thớ giấy được đều khi mở rộng cuốn sách, và thỉnh thoảng Gertrud cũng chỉ thị rằng cuốn sách cần được thêm vài trang màu “để có chút khí thế”. Chỉ riêng một cuốn sách cũng cần đến da của vài trăm con vật. Làm sao một cô bé không bị cuốn hút chứ? Tôi có thể chỉ trích Gertrud vì rất nhiều thứ nhưng chắc chắn đối với sự tận tụy bà dành cho công việc thì không. Nếu nhiệm vụ được giao là dịch một cuốn sách, mỗi việc bàn luận về cách diễn đạt một câu thôi đôi khi cũng kéo dài hơn cả giờ đồng hồ. Hầu hết các xơ làm việc trong phòng đó, dù có càu nhàu về thái độ độc tài của Gertrud, đều cảm thấy rằng bà đang hoàn thành một nhiệm vụ mà Chúa đã chỉ định riêng bà làm. Các xơ không bao giờ dám ho he chút nào, cả trong thời kỳ soạn cuốn Die Gertrud Bibel căng thẳng nhất. Cũng có mấy cô ghi chép băn khoăn một nhiệm vụ dịch lớn lao như thế đã được ai chỉ định và liệu công việc đó có xúc phạm thánh thần không, nhưng những xơ này cũng đủ khôn ngoan để không chất vấn người cai quản phòng viết - hoặc chỉ đơn giản là sợ không dám hỏi. Thế nên họ cũng chẳng dám ca thán gì, chỉ cố tập trung vào số trang hiếm hoi của cuốn Kinh Thánh được Gertrud chấp nhận. Trong khi tất cả mọi người đều tham gia vào quá trình soạn sách, bà luôn là người có tiếng nói cuối cùng. Gertrud chỉ cho phép những người chép sách lành nghề nhất làm việc với những cuốn sách da bê thượng hạng. Bà cứ lảng vảng xung quanh họ, giật nẩy cả cái cổ cò mỗi khi lo rằng một từ nào đó có thể bị viết sai hoặc mực có thể bị nhòe. Khi dấu chấm cuối cùng được đặt sau câu cuối cùng của trang bản thảo, anh có thể thấy vai Gertrud thả lỏng và nghe tiếng không khí kẹt trong phổi bà thoát ra nhẹ nhõm. Rồi bà lại soàm soạp nuốt thêm một ngụm không khí đầy nữa. Những khoảnh khắc thư giãn này không kéo dài lâu. Gertrud sẽ phải mang cuốn sách đến chỗ những người chuyên viết đề mục để đánh dấu số chương và số tiết bằng mực đỏ, và trong khi quá trình này diễn ra, những người minh họa sẽ vẽ thử hàng tá bức ký họa để đưa vào những góc trống trên trang giấy. Khi quyết định cuối cùng được đưa ra, những bức tranh sẽ được đặt vào đúng chỗ. Những trang sách đã hoàn thành quả là một công trình diệu kỳ. Gertrud sẽ dành cả tiếng đồng hồ kiểm tra đi kiểm tra lại rồi mới chịu xếp nó lại và chuyển sang trang khác. Từng tờ từng tờ một, một cuốn sách hoàn chỉnh dần hiện ra, nhưng vẫn luôn có những công đoạn khác cần hoàn thành. Bất cứ khi nào chúng tôi có đơn đặt hàng bản thảo từ các nhà quý tộc, Gertrud sẽ hướng ánh nhìn nhớ nhung trìu mến về phía tình yêu đầu của mình, nhưng bà cũng phải nghe lệnh của tu viện trưởng như tất cả những người khác thôi. Không hiểu sao, chuyện tôi không được phép tham gia vào bất cứ nhiệm vụ nào của phòng viết lại đến tai tu viện trưởng. Tôi có thể hình dung được xơ Christina đứng đằng sau vụ này. Với một tiếng thở dài cam chịu và một bài giải thích dài lê thê rằng mình rất phản đối chuyện này, Gertrud đã cho tôi biết là “dưới chỉ thị của Tu viện trưởng, bây giờ ta sẽ phải cho phép những ngón tay bé tí ngu ngốc của ngươi được bắt đầu luyện tập.” Bà cho tôi vài mảnh giấy da cũ, nham nhở lỗi chép sai, và bảo tôi nỗ lực làm việc đi. Tôi chìm đắm vào công việc. Tôi luyện tập trên bất cứ mẩu giấy da bê vứt đi nào mà tôi tìm thấy và, khi kỹ năng của tôi tiến bộ, tôi đã miễn cưỡng được cho những cây bút lông tốt hơn và được dành nhiều thời gian để luyện tập kỹ năng dịch hơn. Tôi đã biết tiếng Đức, Latin, Hy Lạp và Aramaic, tiếng Ý trong cuốn Kinh Thánh của Paolo, và một chút tiếng Pháp. Tôi đang trên đà đọc hết từng cuốn một trong phòng viết và sự trưởng thành của tôi luôn là nguồn ngạc nhiên sững sờ đối với các xơ, dù tôi chẳng bao giờ nhận được một lời tán dương nào từ Gertrud cả. Xơ Agletrudis luôn tìm được niềm vui trong việc bới móc mọi sai sót của tôi và khi tôi quay lưng lại tiếp tục làm việc, lọ mực của tôi sẽ bị đổ một cách bí ẩn, những cuốn sách của tôi sẽ biến mất một cách bí ẩn, hoặc những chiếc bút lông ngỗng của tôi sẽ bị tòe ngòi một cách bí ẩn. Mỗi lần tôi chỉ ra những tai nạn “ngẫu nhiên” với Gertrud, bà chỉ cười khẩy và thề sống thề chết cho sự trong sáng của xơ Agletrudis. Tuy thế, cuối cùng Gertrud cùng cô trợ lý cũng không thể phủ nhận tài năng của tôi được nữa. Tôi dần trở thành người dịch được nhiều ngôn ngữ nhất, và cũng là người dịch nhanh và chính xác nhất. Sự khó chịu của Agletrudis đối với tôi không còn là sự không ưa đơn thuần nữa mà đã biến thành cảm giác ghen ghét đầy đe dọa, cả Gertrud cũng bực bội ra mặt khi bà bắt đầu nhận ra tôi có giá trị đến thế nào đối với Die Gertrud Bibel. Bà chẳng còn là một phụ nữ trẻ trung gì nữa, và nếu muốn đảm bảo cuốn Kinh Thánh được hoàn thành khi bà còn sống, bà cần phải đẩy nhanh tiến trình lên. Cuối cùng, bà cũng chịu để tôi bắt đầu đóng góp chút ít. Có cả một cuộc sống bên ngoài phòng viết nữa. Lớn dần lên, tôi phát hiện ra cách trèo qua những cánh cổng tu viện và cuối cùng đã tìm được đường đến với thế giới bên ngoài. Tôi không đi tìm rắc rối; tôi chỉ muốn biết ngoài kia có gì thôi. Lẽ tự nhiên điểm dừng đầu tiên của tôi là căn nhà nhỏ thuộc về cha Sunder và huynh trưởng Heinrich. Khi tôi xuất hiện, cha Sunder không hề che giấu vẻ không hài lòng về hành động của tôi. Ông dọa sẽ kéo tôi về lại tu viện và báo cho tu viện trưởng biết, nhưng chẳng hiểu sao chúng tôi lại cùng nhau ngồi uống nước trái cây. Rồi chúng tôi ăn một chút. Và trước khi ông kịp nhận ra, thời gian đã trôi qua dài đến nỗi sẽ thật khó xử nếu cố giải thích tại sao ông lại không mang tôi về ngay lập tức. Thế là, sau khi tôi hứa sẽ không quay lại nữa, huynh trưởng Heinrich và cha Sunder cho phép tôi lẩn lại vào tu viện. Tôi quay trở lại vào đêm hôm sau. Một lần nữa tôi lại bị mắng té tát, nhưng chúng tôi cuối cùng còn ăn nhiều thức ăn và uống nhiều nước ép hơn. Mô hình tôi thì cứ phá vỡ lời hứa còn họ thì cứ mắng nửa vời ấy kéo dài trong vài tuần cho tới khi chúng tôi cùng nhau bỏ cái trò đóng kịch ấy đi. Mỗi khi đến bên rặng núi trông sang căn nhà của họ, tôi luôn cảm thấy rất phấn khởi. Ngôi nhà gỗ nhỏ của họ đã trở thành ngôi nhà thứ hai, ngôi nhà bí mật của tôi. Vào những tối mùa hè chúng tôi thường chơi trốn tìm giữa những bụi cây. Đó là quãng thời gian hạnh phúc nhất của tôi, liếc nhìn từ phía sau bụi rậm hai người đàn ông trạc ngũ tuần đáng bậc cha chú đang giả vờ không tìm thấy tôi. Engelthal là một cộng đồng nhỏ bé, thế nên việc người khác biết về những chuyến viếng thăm “vụng trộm” của tôi là điều không thể tránh khỏi. Tôi nghĩ không ai thấy chuyện này thật sự nguy hiểm cả, và dù đó là một bí mật mở giữa các nữ tu sĩ, tôi thực lòng tin rằng Gertrud, Agletrudis và cả tu viện trưởng đều không hề biết. Nếu họ mà biết, những chuyến thăm thú của tôi đã bị dập ngay lập tức chỉ vì lý do bảo vệ tài sản. Tu viện trưởng mất trong đêm hồi tôi chỉ là đứa trẻ mới lớn, và cần phải bầu ra nữ tu viện trưởng mới càng sớm càng tốt. Những tu viện dòng thánh Dominic là những tổ chức rất dân chủ; xơ Christina, người vừa mới hoàn thành Cuốn sách về các xơ tại Engelthal và đang bắt đầu cuốn Khải huyền, đã đạt được số phiếu gần như tuyệt đối. Thế là bà đã sở hữu danh xưng mẹ Christina. Hiển nhiên tôi rất hài lòng với sự kiện này, nhưng đó đồng thời cũng là vấn đề đối với xơ Agletrudis. Mọi chuyện mới nhanh chóng chuyển sang chiều hướng bất lợi cho cô ta làm sao kia chứ, về khát vọng leo lên chức thủ thư tu viện ấy. Không chỉ vì sự hiện diện của một thần đồng trong phòng viết, mà còn bởi vị nữ tu viện trưởng mới từ lâu đã luôn là người bảo hộ lớn nhất cho cô bé ấy. Khi tôi chính thức cất lời tuyên thệ theo đạo không lâu sau khi mẹ Christina nhậm chức, đây hẳn đã trở thành giọt nước làm tràn cái thùng mang tên xơ Agletrudis. Tôi có thể cảm nhận được sự căm ghét bùng cháy trong mắt cô ta khi tôi thề sẽ phục vụ thánh Dominic và tất cả các tu viện trưởng cho tới chết. Tuy thế, trong mắt những nữ tu sĩ khác, tôi lại thấy sự ủng hộ và tình yêu thương. Đối với họ, có vẻ như tất cả mọi thứ trong cuộc đời tôi đã được đặt vào đúng chỗ - nhưng đó không phải những gì tôi cảm thấy. Tôi thấy mình như một kẻ mạo danh trong ngôi nhà của Chúa vậy. Tôi đã được nuôi dưỡng trong một bầu không khí vô cùng thiêng liêng, nhưng tôi chẳng cảm thấy mình thánh thiện chút nào. Thế nên rất nhiều xơ trong số chúng tôi, gồm cả Gertrud và Agletrudis, đều đã thấy những ảo giác thần bí, nhưng tôi thì không. Điều này làm tôi luôn có cảm giác kém cỏi. Tôi có năng lực ngôn ngữ, đúng, nhưng đó cũng chỉ là những gì họ thấy - năng lực, chẳng phải quà tặng hay thiên khải của Chúa. Không chỉ mỗi việc thiếu kết nối với Chúa mới làm tôi cảm thấy không xứng, mà còn vì những nữ tu sĩ khác đều có vẻ quá chắc chắn về con đường của họ trong khi có rất nhiều thứ tôi không hiểu gì cả. Tôi cảm thấy hoang mang trong cả tâm hồn và nhận thức; tôi thiếu sự chắc chắn mà dường như tất cả mọi người đều có. Mẹ Christina trấn an tôi rằng tôi không nên quá lo lắng về việc thiếu ảo giác. Mỗi nữ tu sĩ chỉ nhận được lời nhắn khi đã sẵn sàng, bà nói, và vấn đề không nằm ở việc kêu gọi Chúa đến với mình mà phải làm bản thân trở nên thuần khiết hơn để Chúa muốn tới. Khi tôi trả lời rằng tôi không biết phải làm gì nữa để bản thân được trong sáng hơn, mẹ Christina khuyên tôi nên chuẩn bị sẵn sàng đón nhận Chúa Vĩnh Hằng bằng việc bỏ vẻ phàm tục đã ăn sâu vào trong máu tôi đi. Tôi gật đầu, như thể khẳng định lời giải thích này đã làm sáng tỏ mọi thứ, nhưng thực tế nó để lại trong tôi cảm giác bối rối không khác gì cảm giác của một con bò lạc. Tôi đã nghĩ về những ý tưởng này cả đời, nhưng chẳng thể ngộ ra. Ý tưởng, khái niệm. Những kiến thức thông thường quá mơ hồ mà tôi không thể nắm bắt. Mẹ Christina hẳn đã nhìn thấy nét mặt tôi khi ấy, vì bà nhắc tôi nhớ rằng tôi cũng có khả năng ngôn ngữ không thể lý giải và dù năng lực này không mang đến những ảo giác kỳ bí, nó thực sự đã làm tôi trở nên độc đáo. Ngày càng rõ ràng là, bà nói, Chúa chắc chắn phải có một dự định tuyệt vời cho tôi. Nếu không thì tại sao Người lại ban cho tôi món quà tuyệt diệu đến như thế? Tôi hứa sẽ nỗ lực nhiều hơn và thầm mong một ngày nào đó tôi cũng sẽ trưởng thành để có niềm tin vào bản thân mình như bà đã có. Không lâu sau khi bước vào tuổi đôi mươi, tôi đã gặp Heinrich Seuse lần đầu tiên và cũng là duy nhất. Ông đang trên đường từ Straburg tới Koln, nơi ông sẽ học tại studium generale(22). Ông nói, dù không tiện đường nhưng thật khó bỏ qua cơ hội đến thăm Engelthal vĩ đại. Nguyên văn lời ông là thế đấy. Hiển nhiên ông biết cách uốn lưỡi để bỏ bùa mẹ Christina, nhưng Gertrud thì lại là chuyện khác. Ngay khi nghe phong thanh chuyện Seuse sẽ nghiên cứu dưới sự chỉ dẫn của Eckhart, bà từ chối gặp ông luôn. Eckhart là một chủ đề khá tế nhị. Dù là một học giả thành công với những bài viết về thần học bằng tiếng Latin, ông có vẻ nổi tiếng hơn, hay đúng hơn là tai tiếng hơn, với những bài thuyết giảng bất thường bằng tiếng Đức mẹ đẻ. Khi Eckhart nói về sự giống nhau siêu hình giữa bản chất của Chúa và linh hồn con người, những ý tưởng của ông dường như xa rời khỏi đạo lý Thiên Chúa chính thống, và đây không phải thời dành cho những ý tưởng như thế. Đã có quá nhiều xung khắc giữa các dòng tu và giới tăng lữ về việc Giáo hoàng chuyển đến Avignon rồi. Khi tôi đọc những bài viết của Eckhart và hỏi Gertrud về ông, phản ứng của bà khá dữ dội. Dù thừa nhận chưa thực sự đọc tác phẩm nào của ông, bà cũng nhấn mạnh mình cũng chẳng có lý do gì phải đọc cả. Bà đã nghe đủ những quan điểm nhơ bẩn của Eckhart đến nỗi chẳng cần phải đi đến nguồn rác nữa. Bà nhổ tên ông ra khỏi miệng như thể nó là quả thối. “Eckhart là một người đàn ông đầy triển vọng, nhưng ông ta đã tự đẩy bản thân tới chỗ tàn lụi. Ông ta sẽ bị coi là một kẻ dị giáo, chóng thôi, nhớ lời tôi đấy. Ông ta thậm chí còn không thừa nhận rằng Chúa rất tốt đẹp nữa.” Cũng có phần lạ là thái độ của Gertrud thành ra lại có lợi cho tôi. Vì bà từ chối gặp Seuse, tôi đã được chọn để dẫn ông đi thăm thú phòng viết. Tôi khá sốc vì diện mạo của ông. Ông gầy đến nỗi tôi khó mà tin được xương ông có thể chống đỡ được sức nặng cơ thể, mà bản thân nó cũng đã nhẹ lắm rồi. Da ông vàng vọt và đầy vết đồi mồi, và tôi có thể thấy từng mạch máu trên mặt ông nổi ngay dưới lớp da. Quầng thâm đen tụ dưới mắt ông, như thể ông chưa bao giờ được ngủ vậy. Tay ông, chi chít vảy nhỏ mà ông hay gảy đi theo thói quen, trông như đôi găng tay thịt đổ đầy những mảnh xương ghép lỏng lẻo với nhau. Sự miêu tả của tôi làm ông trông có vẻ khủng khiếp nhưng trên thực tế ông hoàn toàn ngược lại. Làn da mỏng mảnh của ông dường như chỉ để cho ánh sáng của tâm hồn chiếu rọi qua. Cách ông vẫy những ngón tay mảnh khảnh khi nói làm tôi liên tưởng đến những cây non rung lên trước mỗi cơn gió nhẹ. Và nếu ông trông như chẳng bao giờ ngủ, cách ông nói đã làm người nghe hiểu được đó chỉ là bởi ông thường xuyên phải nhận những thông điệp quan trọng không thể bỏ qua. Mặc dù ông chỉ hơn tôi vài tuổi, tôi không thể không có cảm giác là ông biết những bí mật mà tôi sẽ chẳng bao giờ nắm được. Tôi dẫn ông đi qua phòng viết và rồi, lát sau, qua những mảnh đất trải dài thuộc về Engelthal. Khi chúng tôi đã an toàn tránh xa khỏi những đôi tai nhan nhản khắp mọi ngóc ngách của tu viện, tôi liền nêu lên chủ đề Meister Eckhart, và đôi mắt Seuse sáng bừng lên như thể tôi vừa đưa cho ông chìa khóa dẫn vào Thiên đường. Ông nói liến láu tất cả mọi điều ông biết về người đàn ông sắp trở thành thầy giáo của mình. Tôi chưa bao giờ nghe những lời lẽ rối rắm mà lại sáng lạn đến thế, và giọng của Seuse trở nên cuồng loạn trong niềm vui tôn giáo. Tôi hỏi vì sao xơ Gertrud lại nói rằng Meister Eckhart thậm chí còn không thừa nhận Chúa rất tốt đẹp. Seuse giải thích rằng quan điểm của Eckhart là bất cứ cái gì tốt cũng đều có thể tốt hơn, và mọi thứ đã có thể trở nên tốt hơn ấy thì đều có thể trở nên tốt nhất. Chúa không thể được miêu tả là “tốt”, “tốt hơn” hoặc là “tốt nhất” được vì Người ngự trị tất cả mọi vật. Nếu một người nói rằng Chúa rất thông thái, người đó đang nói dối vì bất cứ cái gì thông thái cũng đều có thể trở nên thông thái hơn. Bất cứ điều gì người đó nói về Chúa cũng đều không chính xác, kể cả gọi Người là Chúa. Chúa là “sự hư không thượng đẳng” và là “Đấng siêu việt”, Seuse nói, hơn hết thảy mọi từ ngữ và hơn tất cả mọi sự hiểu biết. Điều tốt nhất một người có thể làm là giữ im lặng, vì bất cứ khi nào huyên thuyên về Chúa, anh ta cũng sẽ mắc tội dối trá. Người thầy chân thật biết rằng nếu anh ta có được một vị Chúa mình có thể hiểu được, anh ta sẽ không bao giờ coi Người đó là Chúa. Buổi chiều hôm đó tâm trí tôi được mở mang những khả năng mới, và trái tim tôi được tiếp thêm những hiểu biết mới. Tôi không thể tưởng tượng nổi tại sao Gertrud lại muốn ngăn không cho những cuốn sách của Eckhart gia nhập vào tủ sách của chúng tôi. Thứ mà ai đó có thể gọi là dị giáo ấy, tôi chỉ thấy chúng như những giả thiết hợp lý về bản chất của Chúa. Tôi đã bị thuyết phục rằng những gì tôi học được trong suốt tuổi trẻ của mình thật quá hạn chế. Nếu những tham luận của Eckhart không đến được tai tôi, còn những gì tôi đã không được nghe nữa? Tôi nhận ra điều đó khi Seuse nói vào buổi chiều hôm ấy, với những tia sáng lấp lánh hiện lên trong mắt, “Đau khổ làm tình yêu của bạn trở nên mạnh mẽ.” Trong cơn bộc phát, tôi thú thật với Seuse rằng tôi cực kỳ mong muốn được đọc một tác phẩm nào đó của Eckhart. Điều này khiến Seuse thoáng cười, nhưng ông không nói gì cả. Tôi băn khoăn không biết có phải vì ông cảm thấy thú vị khi tôi dám nói ra một ước nguyện đi ngược lại với lập trường của tu viện không, nhưng tôi cũng không nghĩ thêm gì đến nó nữa cho tới khi ông rời chỗ chúng tôi vài ngày sau đó. Tôi rất muốn được dành thêm nhiều thời gian với ông, nhưng Gertrud, có lẽ đánh hơi được điều này, đã đảm bảo cho công việc ở phòng viết của tôi nhiều gấp đôi bình thường. Tôi được phép chào tạm biệt Seuse ở cổng, khi ông khởi hành đến Koln. Khi đã chắc chắn không bị ai nhòm ngó, ông dúi vội vào lần áo chùng của tôi một cuốn sách nhỏ. Chú thích
(22) Trường đại học thời Trung cổ.
(22) Trường đại học thời Trung cổ.