Tôi gọi cho Fredebeul nhưng phải đợi khá lâu mới có ai đó quyết định cầm máy. Sốt ruột vì cứ phải để chuông réo mãi (tôi tưởng tượng ra bà Fredebeul đương ngủ, bị tiếng chuông làm cho tỉnh giấc, lại ngủ, lại tỉnh giấc, và tôi kéo dài sự tra tấn đôi tai của bà), tôi đã định gác máy nhưng tự cho mình có quyền hành động trong tình trạng khẩn cấp, tôi để nguyên máy. Tôi có thể không hối tiếc chút nào, phá giấc ngủ của Fredebeul. Gã này tuyệt nhiên không đáng được ngủ yên. Với tham vọng không lành mạnh, hắn phải thường xuyên đặt tay lên telephon, lúc nào cũng sẵn sàng gọi và trả lời: liên hệ với các giám đốc ở các bộ, các biên tập viên, các ủy ban trung ương, các liên hiệp quốc gia và cơ quan đảng. Tôi rất mến vợ hắn. Khi còn là một nữ sinh trẻ măng, nàng được hắn lần đầu tiên đưa đến câu lạc bộ. Ngồi ở một góc phòng, bằng đôi mắt xinh đẹp theo dõi những cuộc tranh luận về thần học - xã hội học, trông nàng thật tội nghiệp. Rõ ràng đối với nàng, đi khiêu vũ hoặc đi xem phim còn thú vị hơn. Sommerwild, người đăng cai các buổi họp, luôn mồm hỏi xem tôi có thấy quá nóng bức không, và tôi trả lời: "Không, thưa đức ông", mặc dù mồ hôi tôi chảy dòng trên trán và ở hai bên má. Cuối cùng không còn đủ sức chịu đựng lâu hơn được nữa sự ba hoa của họ, tôi phải đi ra hứng gió ở ngoài ban công. Vậy mà nàng lại chính là cô gái khốn khổ đã gây ra cuộc bàn cãi dài dòng chỉ vì đã tuyên bố - hoàn toàn không liên quan gì đến câu chuyện đang diễn ra về tầm quan trọng và những giới hạn của vấn đề ngôn ngữ tỉnh nhỏ - là nàng thấy "rất hay" một số điều Benn(1) đã viết. Thế là Fredebeul, khi đó được coi như là chồng chưa cưới của nàng, mặt đỏ lên như một quả cà chua lúc Kinkel nhìn hắn với cái nhìn hùng hồn, trong trường hợp này có nghĩa là: "Sao? Về điểm này anh chưa giáo huấn gì cho cô ta ư?". Tên Kinkel này lập tức ra sức bào phẳng cô bé đáng thương, dùng toàn bộ thế giới phương Tây làm bào. Sau đó không còn lại chút gì của cô bé dễ thương ấy - những phoi bào bay tơi tả - và tôi rất bực với Fredebeul, tên hèn nhát này đã không can thiệp vì hắn đã "âm mưu" với Kinkel theo một đường lối tư tưởng nào đó (tôi không còn nhớ là khuynh tả hay khuynh hữu). Dù sao đi nữa, chúng cũng cùng chung một giuộc, và Kinkel tự thấy mình phải có trách nhiệm dìu dắt người vợ chưa cưới của Fredebeul về mặt tinh thần. Sommerwild cũng ngồi yên không nhúc nhích, tuy lão đại diện cho đường lối ngược lại. (Tôi không biết là đường lối nào, nhưng nếu Kinkel và Fredebeul khuynh hữu thì Sommerwild khuynh tả, và ngược lại). Marie mới đầu tái người đi, nhưng buộc phải tự đặt mình trong sự rèn luyện - mặc cảm mà tôi không bao giờ khắc phục được ở em - và sự rèn cặp của Kinkel đã quy phục được bà Fredebeul tương lai: với những tiếng thở dài gần như bất lịch sự, nàng nuốt hết những lời giáo huấn hùng hồn trút xuống như một trận mưa rào. Hắn cũng đã không từ việc viện đến cả các nhà thờ Bertold Brecht. Khi tôi rời khỏi ban công quay vào, người tôi đã bớt vã mồ hôi, tôi thấy cả bọn họ ngồi xuống ghế, kiệt sức, đương ừng ực uống nước cho khỏi khát... và tất cả chỉ vì cô gái đáng thương đã tự cho phép mình nói là cô thấy "rất hay" một số điều Benn đã viết! Bây giờ, chưa đầy hai mươi tuổi, ông chồng đã cho nàng hai đứa con. Và trong khi chuông tiếp tục réo lên trong căn hộ của nàng, tôi tưởng tượng nàng đương điều khiển bằng tay những bầu sữa, giường tủ, hộp phấn tan và ống kem, không biết xoay xở thế nào cho hợp, tôi cũng tưởng tượng thấy một núi quần áo bẩn trong buồng tắm và một đống bát đĩa chưa rửa trong bếp. Một hôm chán đi nghe nói chuyện, tôi đến giúp nàng sửa soạn bánh mì nướng, pha cà phê, công việc này còn đỡ ngán hơn một số cuộc nói chuyện. "Tôi nghe đây?" cuối cùng tôi nghe thấy một giọng nói rụt rè và từ đó tôi suy ra cảnh tượng lúc này của gian bếp, buồng tắm và buồng ngủ hẳn phải làm cho người ta mất tinh thần hơn bao giờ hết. Còn mùi thì lần này tôi gần như không ngửi thấy gì: nhiều lắm là bà Fredebeul đương cầm ở tay một điếu thuốc lá. - Schnier đây! Tôi nói, trông chờ như mỗi lần tôi gọi một tiếng reo vui vẻ của nàng: "Ôi, thật sung sướng được biết anh đương ở Bonn!" hoặc một lời tử tế đại loại như thế. Nhưng sau một sự im lặng bối rối, nàng chỉ đơn giản nói: "A, được". Tôi không biết nói như thế nào. Thường là nàng hỏi tôi: "Khi nào anh đến cho chúng tôi xem một trong những tiết mục của anh?" Nhưng lần này, không có một lời nào. Tôi thấy đau khổ, không phải cho bản thân tôi mà cho nàng, vì điều làm tôi suy sút tinh thần thì đối với nàng lại là điều đau khổ. - Những bức thư, cuối cùng tôi nói một cách khó nhọc, những bức thư tôi gửi cho Marie ở chỗ anh chị? - Chúng đương ở đây, nàng nói, được gửi trả lại, chưa bóc. - Thế anh chị chuyển chúng theo địa chỉ nào? - Tôi không biết, nhà tôi cáng đáng chuyện này. - Nhưng chắc chị phải thấy trên phong bì thư gửi trả lại địa chỉ mà anh ấy ghi thêm vào chứ? - Có phải là một sự hỏi cung không đấy? - ồ không, tôi thủ thỉ, không, không! Tôi chỉ rất khiêm tốn cho rằng tôi có quyền được biết cái gì đã xẩy ra với những bức thư của tôi? - Những bức thư anh gửi về đây mà không cần có sự đồng ý của chúng tôi? - Bà Fredebeul thân mến, tôi xin bà hãy tỏ ra thương người đôi chút. Nàng như nén lại một cái cười khẩy, nhưng không nói gì. - Tôi cho rằng, tôi nói, có những lúc, dù chỉ vì những lí do về tư tưởng, người ta cũng cần phải tỏ ra có tình thương. - Thế có nghĩa là từ trước đến nay tôi không có tình thương? - Đúng vậy. Nàng nén lại một cái cười khẩy nữa. - Tôi thấy ngao ngán về chuyện này, cuối cùng nàng tuyên bố, nhưng tôi chẳng có gì để nói thêm cả. Anh nên biết rằng anh đã làm tất cả chúng tôi thất vọng. - Như một diễn viên hài? - Cũng có thể, nhưng không phải chỉ có thế. - Tôi cho là anh ấy không có nhà? - Không, nhà tôi đi vắng vài ngày nữa mới trở về. Anh ấy đi tham gia vận động bầu cử ở Eifel. - Sao? Tôi kêu lên (điều này thật mới mẻ đối với tôi). Chị không định nói là cho CDU(1)? - Tại sao không? Nàng nói với một giọng rõ ràng là muốn kết thúc câu chuyện. - Phải, phải! Có phải là tôi đòi hỏi quá nhiều nếu tôi đề nghị anh chị cho tôi xin lại các bức thư? - Gửi về đâu? - Về đây, tại Bonn, về nhà tôi. - Thế anh đương ở Bonn à? Nàng thốt lên. Và tôi có cảm tưởng là nàng đã kìm không thốt ra "nhân danh Chúa Trời!" - Chào tạm biệt, tôi nói, và cám ơn chị về tình thương. Tôi ngao ngán vì đã tỏ ra nghiệt ngã đối với nàng đến thế, nhưng tôi thực đã kiệt sức. Tôi đi vào bếp, lấy ở tủ lạnh ra chai cognac tu một ngụm lớn. Vô ích. Tôi làm thêm một ngụm nữa, nhưng cũng không có hiệu quả gì. Nếu có một người nào mà tôi không ngờ đến một sự cự tuyệt, người đó chính là bà Fredebeul. Tôi đã chuẩn bị để nghe một bài thuyết giáo dài dòng về chuyện cưới xin, kể cả việc trách móc tôi về cách cư xử của tôi đối với Marie. Bà Fredebeul biết dùng đúng lúc giọng độc đoán, nhưng bao giờ cũng rất tử tế và tự nhiên, và thường mỗi chuyến đến Bonn tôi vẫn gọi telephon cho nàng, nàng nói đùa mời tôi đến giúp nàng một tay trong việc bếp núc hay trông trẻ. Có thể tôi đã có sự ngộ nhận về nàng, nếu không phải là nàng lại đương có bầu và do đó mà tâm trạng có sự bực bội cáu gắt. Tôi đã không can đảm gọi lại, thử thuyết phục để nàng thổ lộ điều nàng đương vướng mắc. Xưa nay đối với tôi, nàng tỏ ra vẫn rất thân tình. Tôi thấy chỉ còn một sự giải thích cho sự thay đổi trong thái độ của nàng: Fredebeul "nghiêm lệnh" cho nàng là phải đuổi cổ tôi đi. Tôi vẫn thường thấy, không phải là không đáng ngạc nhiên, có biết bao nhiêu phụ nữ đã trung thành với chồng một cách phi lí đến như vậy. Bà Fredebeul hiển nhiên còn quá trẻ để có thể thấy là sự lạnh nhạt không cần thiết của nàng có thể tác động sâu sắc đến tôi như thế nào, và về phía nàng, tôi không thể đòi hỏi nàng phải hiểu là Fredebeul bao giờ cũng chỉ là một tay huyênh hoang cơ hội nóng lòng muốn thành đạt bằng bất cứ giá nào và sẵn sàng "từ bỏ" cả bà nội của mình nếu bà cụ có thể làm hỏng việc của hắn. Hẳn là Fredebeul đã nói với vợ hắn: "Schnier à? Chúng ta không cần phải bận tâm đến nữa!" và thế là nàng điềm nhiên không nghĩ đến tôi nữa. Đấy là một người phụ nữ chỉ biết phục tùng, cho đến bao giờ ông chồng của nàng còn cho tôi là có cơ hội làm lợi cho hắn, thì còn cho phép nàng, với khuynh hướng tự nhiên của nàng, vẫn tử tế với tôi, còn từ nay trở đi thì bắt buộc nàng phải tỏ thái độ khinh miệt tôi. Tuy nhiên, có thể tôi đã không công bằng đối với họ và mỗi người trong họ cũng chỉ là tuân theo lương tâm riêng của họ. Nếu Marie đã cưới Zpfner mà vẫn còn liên hệ với tôi, thì đó đúng là một tội lỗi. Và ngược lại, Zpfner, nhân vật có tầm cỡ của liên bang, có thể có ích cho Fredebeul, không phải vì nhiệm vụ thì họ vẫn phải tuân theo lí tưởng của họ cho dù lợi ích riêng của họ như thế nào! Thái độ ấy của bà Fredebeul làm tôi ngạc nhiên bao nhiêu thì càng làm tôi ít ngạc nhiên bấy nhiêu về thái độ của chồng bà ta. Tôi không bao giờ có ảo tưởng về hắn, ngay cả việc hắn đi vận động bầu cử cho CDU cũng không làm tôi ngạc nhiên chút nào. Tôi dứt khoát cất chai cognac vào tủ lạnh. Tôi không còn việc gì làm hơn là tiếp tục lần lượt gọi cho tất cả bọn chúng, để kết thúc một lần cho xong với bọn Cơ Đốc giáo ấy. Tôi bỗng thấy mình hoàn toàn minh mẫn và cũng không còn đi khập khễnh nữa khi trở lại phòng khách. Phòng gửi áo và cửa gian buồng để chổi đều một mầu gỉ sắt như các chỗ khác. Mặc dầu tôi không hề mong đợi được gì ở một cuộc nói chuyện qua telephon với Kinkel, tôi vẫn quay số của hắn. Kinkel luôn luôn tuyên bố hắn hâm mộ nghệ thuật của tôi, và đối với ai hiểu biết các nghệ sĩ, hiển nhiên là chỉ một sự tán tụng của người lái xe cũng làm cho lồng ngực họ nở ra tưởng có thể đến vỡ tung được. Tôi muốn quấy nhiễu sự thư dãn chiều tối và tín đồ của Kinkel đồng thời lơ mơ hi vọng là hắn có thể tiết lộ với tôi địa chỉ của Marie. Hắn chính là đầu não của hội; sau khi đã vào học thần học, hắn lại bỏ dở việc học để chạy theo một người đẹp. Trở thành luật gia, hắn đẻ với cô ta bảy con và được coi như là "một trong những người tinh thông nhất của chúng tôi trong lĩnh vực chính trị xã hội học". Có thể hắn đúng là như thế, tôi không thể đánh giá gì được về chuyện này. Trước khi quen biết hắn, theo lời khuyên của Marie tôi đã đọc một trong những cuốn sách của hắn, nhan đề: Voies menant à un ordre nouveau(1). Đọc tài liệu này tôi thấy thích thú, và tôi đã tưởng tượng ra tác giả của nó là một chàng trai tóc hoe, người thanh mảnh. Vì vậy, lần đầu tiên gặp gỡ, thấy một gã béo lùn với bộ tóc đen, dầy "tràn trề sức sống", tôi khó có thể nghĩ đấy đúng là hắn. Có lẽ vì thế mà tôi đã không công bằng đối với hắn: vì gần như đã bị đánh lừa về hình dáng của hắn. Mỗi lần Marie lao vào chuyện tán dương Kinkel, bao giờ già Derkum cũng không quên nói đến rượu cocktail. Kinkel là hỗn hợp các thành phần có thể thay đổi: Marx cộng với Guadini, hoặc Bloy cộng với Tolstoi(2). Lần đầu tiên, chúng tôi được mời đến chơi nhà hắn. Ngay từ lúc đầu đã có chuyện không hay. Chúng tôi đến quá sớm, ở cuối phòng bọn trẻ con đương cãi nhau ầm ĩ, giọng chúng rít lên - và có cả những tiếng rít khác đe nẹt chúng - về chuyện đứa nào phải thu dọn bát đĩa sau bữa ăn trưa. Kinkel cười cợt bước ra, miệng còn nhai thứ gì đó và rõ ràng là đương cố gắng che giấu sự phiền lòng do việc chúng tôi đã đến sớm. Đến lượt Sommerwild bước vào: tay này không nhai gì nhưng vừa cười khẩy vừa xoa xoa hai bàn tay vào nhau. ở cuối gian phòng, bọn trẻ nhà Kinkel vẫn rống lên, và giọng gay gắt của chúng tương phản nặng nề với cái mỉm cười của Kinkel và cái cười khẩy của Sommerwild. Tôi nghe thấy tiếng những cái tát, những tiếng kêu thật kinh khủng và tôi tin chắc là đằng sau cánh cửa đóng kín kia, những tiếng rống vẫn tiếp tục dữ dội hơn. Ngồi cạnh Marie và ngao ngán vì sự bất hòa đương ngự trị ở cuối gian phòng, tôi hút hết điếu thuốc này đến điếu thuốc khác trong khi Sommerwild nói chuyện với Marie, cái "mỉm cười hào hiệp và khoan dung" muôn thuở áp sát mặt. Đây là cuộc thăm viếng đầu tiên của chúng tôi ở Bonn từ sau khi chúng tôi chạy trốn. Marie người nhợt đi vì xúc cảm, vì sợ hãi, vì lòng tự trọng, và tôi rất hiểu em: em tha thiết muốn có sự hòa giải với nhà thờ. Và Sommerwild thì lại tỏ ra tốt đối với em! Theo gương Kinkel, em ngước nhìn con người này với một con mắt kính cẩn. Vậy là em giới thiệu tôi với Sommerwild, và chúng tôi vừa ngồi xuống hắn đã hỏi tôi: "Anh có họ với nhà than linhít - Schnier?" Câu hỏi làm tôi bực mình. Sommerwild biết rất rõ quan hệ gia đình của tôi. Mọi người ở Bonn, hoặc gần như thế, biết việc Marie đã trốn đi với một đứa con của nhà than linhít - Schnier, "ngay trước khi thi tú tài, một cô bé ngoan đạo đến như thế, ai ngờ!" Vì tôi không trả lời câu hỏi, Sommerwild vừa cười vừa nói tiếp: "Thỉnh thoảng tôi có đi săn cùng với người ông đáng kính của anh và cũng đã có dịp gặp ông nhà ở câu lạc bộ ca hát ngẫu hứng", ở đây nữa, hắn càng làm tôi khó chịu. Hẳn hắn cũng không ngu đần đến mức nghĩ rằng những câu chuyện đi săn và ca hát có thể làm tôi phải kính nể hắn và hắn không có vẻ là một con người nói ra bất cứ điều gì cốt để che giấu sự lúng túng của mình. Cuối cùng, tôi quyết định mở miệng: "Đi sănÕ?, tôi nói, Ỏtôi vẫn tưởng việc đi săn là cấm kỵ đối với một giáo sĩ Cơ Đốc giáo". Tiếp theo là một sự im lặng nặng nề, Marie đỏ mặt, Kinkel vội vã bước nhanh qua gian phòng để tìm dụng cụ mở nút chai, và vợ anh ta, vừa vào đổ những quả hạnh nhân muối lên những đĩa thủy tinh đã đựng sẵn một số quả ô liu. Sommerwild cũng đỏ mặt, điều đó không hợp với hắn một chút nào vì bình thường da hắn đã hết sức đỏ. Hắn nói, giọng vẫn bình thường, nhưng hơi có vẻ bị xúc phạm: "Đối với một người theo đạo Tin Lành, ông có vẻ rất hiểu biết". - "Tôi không theo đạo Tin LànhÕ, tôi trả lời, Ỏnhưng tôi không quan tâm đến một số điều vì Marie đã quan tâm đến chúng". Và trong khi Kinkel rót rượu cho chúng tôi, Sommerwild lại nói: "Có những điều được quy định, thưa ông Schnier, nhưng cũng có những ngoại lệ. Tôi thuộc một gia đình làm chức trách thanh tra kiểm lâm cha truyền con nối". Nếu hắn nói chức trách gác rừng thì tôi còn có thể hiểu được, nhưng hắn lại nói chức trách thanh tra kiểm lâm càng làm tôi khó chịu. Tuy nhiên tôi chỉ bĩu môi không trả lời. Và thế là họ bắt đầu nói chuyện với nhau bằng mắt. Bà Kinkel nói với Sommerwild (bằng mắt): mặc hắn, hắn còn trẻ mà. Và Sommerwild trả lời bà ta (bằng mắt): phải, trẻ và khá mất dạy. Vừa rót rượu cho tôi, Kinkel vừa nói với tôi (bằng mắt): Trời ơi, anh còn quá trẻ! Với Marie, hắn nói to: "Ông nhà có khỏe không? Vẫn như xưa chứ?" Marie tội nghiệp, người nhợt nhạt, bối rối đến nỗi chỉ có thể trả lời bằng cách gật đầu. "Thành phố Bonn thanh bình, cổ xưa và thành kính của chúng ta sẽ ra sao nếu không có những người như ông Derkum!", Somerwild nói. Điều nhận xét ấy chỉ có thể làm tôi thêm phẫn nộ. Già Derkum đã kể tôi nghe việc Sommerwild đã cố ý ngăn cản những đứa trẻ em Cơ Đốc giáo đến mua kẹo và bút chì ở chỗ ông như thế nào. "Nếu không có những người như ông DerkumÕ, tôi nói, Ỏthì thành phố Bonn thanh bình, cổ xưa và thành kính sẽ còn ghê tởm hơn nữa. ít ra ông ấy không phải là một con người giả dối". Kinkel sửng sốt nhìn tôi, rồi nâng chén của hắn lên, hô to: "Cám ơn, ông Schnier, thế là ông cho tôi một lí do tuyệt vời để nâng cốc chúc mừng: hãy vì sức khỏe của Martin Derkum!" - "Phải, vì sức khỏe của ông ấy, rất vui lòng", tôi nói. Lại sử dụng ngôn ngữ mắt, bà Kinkel nói với chồng bà ta: không những anh ta trẻ và mất dạy mà còn hỗn xược nữa. Tôi thú thực không bao giờ có thể hiểu được làm sao mà sau này Kinkel lại có thể gọi cái "buổi tối đầu tiên với anh chị" ấy thật là thích thú tuyệt vời. Một lát sau, đến nhập bọn có Fredebeul và vợ chưa cưới của anh ta, Monika Silvs và một Von Sovern nào đó mà người ta nói, trước khi có mặt anh ta, là mặc dầu mới quy đạo, anh ta vẫn gắn bó không kém với SPD(1), điều đó hiển nhiên được coi như là một tin giật gân. Đây là lần đầu tiên tôi thấy Fredebeul và đối với anh ta cũng như đối với những người khác: bất kể như thế nào, tôi vẫn gây được thiện cảm đối với họ, và bất kể như thế nào với họ vẫn thật đáng ghét, trừ người vợ chưa cưới của Fredebeul và Monika Silvs. Von Severn không quan trọng đối với tôi. Anh ta chán ngắt và thoả mãn với chuyện giật gân về việc vừa quy đạo vừa là đảng viên SPD. Anh ta cười nụ, tỏ ra hết sức nhã nhặn, trong khi đôi mắt hơi lồi của anh ta lại như không ngừng muốn nhắc nhở mọi người là: "Xem tôi này, tôi đây!" Tóm lại, tôi không thấy anh ta khó chịu. Fredebeul mất nhiều công sức để làm vừa lòng tôi: hắn nói với tôi gần bốn mươi nhăm phút về Beckett(1) và Ionesco(2), hắn trút lên tôi một đống giai thoại hắn nhặt nhạnh chỗ này chỗ kia mỗi nơi một ít. Và khi tôi dại dột thú nhận với hắn là tôi đã đọc Beckett, bộ mặt đẹp nhẵn thín của hắn, gắn vào đó là một cái mồm rộng một cách kì dị, sáng lên vẻ khoan dung. (Bất cứ điều gì Fredebeul nói ra, tôi đều có cảm tưởng là đã đọc ở đâu đó). Kinkel nhìn hắn với sự thán phục; còn Sommerwild lần lượt nhìn chúng tôi, mắt muốn nói: xem đấy, chúng tôi, những người Cơ Đốc giáo, là những người rất thông thạo thời sự!... Tất cả những việc trên diễn ra trước giờ đọc kinh. Khi đó, bà Kinkel bất thình lình tuyên bố: "Odilo, tôi cho là bây giờ chúng ta có thể đọc kinh. Chắc chắn là Heribert hôm nay không đến". Mọi người nhìn vào Marie rồi quay đi vội vàng, nhưng tôi không nhận ra lí do của sự im lặng nặng nề bủa xuống chúng tôi. (Mãi đến lúc trở về phòng chúng tôi ở khách sạn Hanovre tôi bỗng hiểu ra rằng Heribert là tên tục của Zpfner). Tuy nhiên hắn cũng đã đến, nhưng rất muộn; lúc buổi cầu kinh từ lâu đã kết thúc, và người ta đương tìm chủ đề cho buổi tối hôm đó. Khi hắn bước vào, tôi thấy thú vị cách Marie đi đến nhìn hắn và nhún vai - một cử chỉ muốn nói là vô ích - trước khi hắn quay lại chào những người khác trong bọn. Sau đó hắn mỉm cười ngồi xuống cạnh tôi. Lúc đó Sommerwild bắt đầu kể lại câu chuyện về một nhà văn Cơ Đốc giáo nọ sau khi sống đã lâu với một người phụ nữ góa chồng, cuối cùng đã cưới chị ta để nghe một chức sắc cao cấp của nhà thờ nói: "Sao, Besewitz thân mến, anh chị không thể cứ ăn ở với nhau mà không cần cưới xin được ư? " Và cả bọn cười phá lên, tiếng cười của bà Kinkel gần như là tục tĩu. Riêng Zupfner cùng với Marie không cười. Tôi biết ơn hắn về điều đó. Kể câu chuyện kia chắc Sommerwild chỉ có ý định bày tỏ ra với tôi về cách nhìn rộng rãi và sự khoan dung của nhà thờ Cơ Đốc giáo, về ý thức và về tinh thần mới mẻ của nó. Cho dù tôi có ăn ở với Marie mà không có cưới xin, họ cũng có thể không nghĩ ngợi gì. Tôi liền kể cho họ nghe câu chuyện về một người có vợ tên là Frehlingen ở không xa lắm nơi bố mẹ tôi. Anh ta cũng sống chung trong ngôi nhà nhỏ trong cảnh thợ thuyền của anh ta với một người đàn bà góa, còn nuôi cả ba đứa con riêng của chị ta. Một hôm ông cha xứ đến tìm buộc anh ta, với sự đe dọa rút phép thông công, phải "chấm dứt ngay cách ăn ở vô đạo đức đến như vậy", và Frehlingen, một con người rất ngoan đạo, đã tuân lệnh và đuổi người đẹp góa bụa với ba đứa con của chị đi. Tôi còn kể tiếp là sau đó người đàn bà ấy phải sống lang thang và bán mình để có thể đảm bảo nuôi các con của mình, còn Frehlingen thì bắt đầu uống rượu bởi vì anh ta thực sự yêu người đàn bà ấy. Hình như cứ mỗi khi tôi nói thì một sự im lặng nặng nề bao giờ cũng kết thúc câu chuyện của tôi. Sommerwild lập tức can thiệp, hắn ta cười và tuyên bố: "Này, ông Schnier, hẳn ông không có ý định so sánh hai trường hợp đó với nhau đấy chứ?" "Nhưng tại sao lại không?" Tôi nói. "Ông cũng không nghĩ rằng, nếu ông ít nhiều biết về BesewitzÕ, hắn giận dữ hét lên, "đấy là một nhà văn Cơ Đốc giáo tinh tế nhất trên đời chứ?". Đến lượt tôi cũng tức giận đập lại: "Và ông, ông có biết Frehlingen là một con người tế nhị và một người lao động tín đồ Cơ Đốc giáo như thế nào không?" Hắn nhìn tôi và giơ hai tay lên trong một cử chỉ tuyệt vọng. Một sự tạm ngừng, khi đó người ta nghe thấy tiếng ho của Monika Silvs, nhưng ai cũng biết là khi đã có Fredebeul trong số khách mời đến, thì không nghi ngờ được là sự im lặng lại có thể kéo dài. Quả nhiên hắn mau lẹ nhảy vào cuộc, đưa câu chuyện trở về với chủ đề của buổi tối, nói về sự tương đối của khái niệm nghèo: hắn thuyết dông dài không kém hơn một tiếng rưỡi đồng hồ, cho đến khi tạo được cơ hội cho Kinkel thuật lại giai thoại về một kẻ đã nếm mùi khổ cực giữa năm trăm và ba nghìn mác kiếm được trong một tháng, trong khi Zupfner hỏi xin tôi một điếu thuốc lá để có thể che giấu sự hổ thẹn của hắn sau làn khói thuốc. Marie và tôi đi chuyến tầu cuối cùng để trở về Cologne. Chúng tôi cùng thấy khổ sở như nhau. Marie đã rất tha thiết với lời mời tham dự buổi họp mặt ấy và chúng tôi đã phải vét hết tiền trong ngăn kéo để chi cho chuyến đi. Về vật chất chúng tôi không được thoải mái, chúng tôi đã ăn uống ít hơn thường lệ. Chúng tôi có cảm tưởng là quãng đường dài kinh khủng và đúng là về đến Tây thành phố Cologne, chúng tôi không còn một đồng xu dính túi, phải đi bộ về nhà. ở chỗ Kinkel, người ta nhấc máy ngay. - Alfred Kinkel đây, một giọng trẻ con khá kiêu kì. - Schnier đây, có thể nói chuyện với bố em được không? - Schnier, nhà thần học, hay Schnier diễn viên hề? - Diễn viên hề. - A, nó kêu lên, tôi không cho là ông quan niệm vấn đề một cách nghiêm trọng chứ? - Nghiêm trọng? Cái gì không phải quan niệm là nghiêm trọng? Tôi hỏi giọng mệt mỏi. - Sao, ông chưa đọc báo à? - Báo nào? - Tiếng nói của Bonn. - Một sự chỉ trích tàn tệ? - Này nhé, giống như một giấy báo tử thì đúng hơn! Ông có muốn tôi đi lấy đọc ông nghe? - Không, cám ơn. Cậu bé này trong giọng nói đúng là có ngữ điệu của kẻ thích thú những trò tai ác. - Nhưng mà ông cũng nên biết, nó nói, như vậy để mở mắt ra. Mẹ kiếp! Những tham vọng kiểu sư phạm rẻ tiền! - Và ai là tác giả của bài báo ấy? Tôi hỏi. - Một Kostert nào đó, hình như là thông tín viên của họ ở Ruhr thì phải. Bài báo rất xuất sắc, nhưng khá ác! - Biết làm thế nào... ông ta cũng là một người ngoan đạo mà. - Thế còn ông? - Không phải! Nhưng tôi có thể nói chuyện với bố em được không? - Ông ấy không muốn ai quấy rầy, nhưng vì ông, tôi sẵn sàng. Đúng là lần đầu tiên sự thích thú làm các trò tai ác đã được việc cho tôi. - Cám ơn, tôi nói. Tôi nghe thấy nó đặt ống nghe lên mặt bàn và đi qua phòng, rồi tôi nghe thấy ở hậu phòng có những tiếng nói đồng thanh rít lên: có thể nói là cả một tổ rắn đương tranh giành nhau, hai rắn đực và một rắn cái. Bao giờ tôi cũng thấy khổ sở phải chứng kiến bằng mắt hoặc bằng tai những sự kiện không phải để dành cho mắt và cho tai tôi. Còn về khả năng gần như siêu tự nhiên ngửi thấy mùi qua telephon không hề đem lại cho tôi sự thích thú gì, trái lại đối với tôi đó là một gánh nặng. ở nhà Kinkel có mùi canh thang béo ngậy, như ở đây người ta nấu chín cả một con bò. Những tiếng rít ở hậu phòng vang lên có triệu chứng không lành: người ta có thể nói là cậu con giai sắp sửa cắt cổ ông bố, hoặc bà mẹ cắt cổ cậu con giai. Tôi nghĩ đến Lacoon, và việc phải nghe những tiếng rít và những tiếng rống lên (tôi nghe thấy cả tiếng vật lộn ẩu đả, những ô! những a! chêm vào đó là những tiếng thét như "đồ súc vật" hoặc "đồ đểu giả") trên sân khấu ngôi nhà mà người ta coi là "đỉnh cao của trí tuệ Cơ Đốc giáo Đức" không làm tôi vui lên chút nào. Tôi cũng nghĩ đến cả tên đểu cáng Kostert, ở Bochum. Hẳn là hắn đã rất vất vả từ tối hôm qua để có thể điện được về Bonn bài báo của hắn. Việc đó không hề ngăn cản hắn, không muộn hơn sáng hôm nay, đến gãi gãi vào cửa phòng tôi như một con cún tầm thường và làm ra vẻ như là những người anh em tín đồ Cơ Đốc. Mỗi lúc càng thấy rõ là Kinkel hoàn toàn đương tìm mọi cách để không đi ra chỗ đặt telephon. Dần dần tôi có thể nhận ra những tiếng động và chuyển động phát ra từ cuối phòng - vợ hắn còn phản đối kịch liệt hơn, còn cậu con trai họ thì từ chối việc quay trở lại máy để trả lời tôi là cậu ta đã nhầm và nói lại là chắc chắn bố cậu ta không có nhà. Rồi bất thình lình, có sự im lặng hoàn toàn, một sự im lặng chết chóc, có thể nói là chết xuất huyết. Vài giây nữa tiếp theo, tôi nghe thấy tiếng chân lê bước tới và ngay sau đó ống nghe được nhấc lên khỏi mặt bàn. Tôi đã nghĩ là người ta sẽ lại đặt nó ngay vào máy. Tôi nhớ lại rất rõ chỗ đặt telephon ở nhà Kinkel, dưới ba bức tranh Đức Mẹ phong cách barốc, đúng ở dưới bức mà hắn cho là kém giá trị nhất. Tóm lại, đối với tôi giá lúc ấy nghe thấy tiếng gác máy thì hơn. Tôi thấy thương hại cho Kinkel: thật là một sự thử thách đối với hắn khi phải nói chuyện với tôi lúc này, còn về tôi, tôi không hi vọng thu được gì trong cuộc nói chuyện, tiền bạc cũng như một lời khuyên tử tế. Nếu hắn nói với tôi giọng nghẹn ngào, có lẽ tôi sẽ động lòng trắc ẩn, nhưng tiếng nói của hắn lại oang oang và vui vẻ hơn bao giờ hết. Một hôm, có ai đó đã ví tiếng nói của hắn với toàn bộ một bè kèn. - A lô, Schnier! Hắn nói giọng to vang, sung sướng biết bao được nghe cậu! - A lô, thưa tiến sĩ, tôi đương ở vào một thế bí. Cái từ duy nhất có ác ý mà tôi có thể nói ra là "tiến sĩ" vì, như cha tôi, Kinkel gần đây là một tiến sĩ h.c. - Schnier, quan hệ giữa chúng ta như thế nào mà anh cho rằng phải gọi tôi là tiến sĩ? - Nhưng, tôi hoàn toàn không nắm được gì về các mối quan hệ giữa chúng ta! Hắn bật ra một tiếng cười đặc biệt giòn: vang như tiếng kèn, dày vẻ đạo đức, thân tình, "một sự vui vẻ hoàn toàn barôc". - Thiện cảm của tôi đối với anh vẫn nguyên như xưa. Tôi khó lòng tin được hắn. Đối với hắn, tôi đã xuống dốc đến mức không còn đáng phải hạ thấp tôi hơn nữa. - Anh đương trải qua một cơn khủng hoảng, hắn nói, không hơn. Anh còn trẻ, hãy trấn tĩnh lại đi và anh sẽ thắng. - Trấn tĩnh lại?.. Có vẻ giống như là ở I.R.9 của Anna. - Anh nói về vấn đề gì? Tôi dịu dàng hỏi. - Thế anh muốn tôi nói về vấn đề gì nữa? Về nghệ thuật của anh, và sự nghiệp của anh, tất nhiên là thế. - Nhưng hoàn toàn không phải là vấn đề ấy, tôi nói. Anh biết rằng tôi có nguyên tắc không bao giờ nói về nghệ thuật và càng ít nói về sự nghiệp. Đây là về... tôi muốn... tôi tìm Marie. Hắn thốt ra một tiếng khó có thể xác định là tiếng gì, nửa như làu nhàu, nửa như ợ hơi. Tôi còn lờ mờ nghe thấy vài tiếng rít ở cuối phòng, rồi Kinkel đặt ống nghe xuống bàn và lại nhắc ống nghe lên. Tiếng nói của hắn thấp xuống, mất âm thanh. Hắn nhét vào miệng hắn một điếu xì gà. - Schnier, hắn nói, quá khứ là quá khứ, hãy quên đi. Hãy nghĩ đến hiện tại, có nghĩa là nghĩ đến nghệ thuật của anh. - Quên quá khứ đi ư? Hãy thử tưởng tượng một chút, là nếu vợ anh bỗng nhiên bỏ rơi anh để đi theo một người khác. Hắn im lặng, đối với tôi như vậy có nghĩa là: cô ấy cứ việc! Rồi hắn vừa nhai xì gà vừa tuyên bố: - Cô ấy không phải là vợ anh và hơn nữa anh không có bảy đứa con! - Cô ấy không phải là vợ tôi, anh nói sao? - à, cái thứ lăng mạ vô chính phủ ấy! Hắn kêu lên. Nào, hãy tỏ ra là một người đàn ông! - Mẹ kiếp! Chính vì tôi thuộc về giống đực cho nên câu chuyện mới làm tôi khốn khổ đến như vậy! Còn về bảy đứa con, chúng còn có thể đến... Marie mới có hai mươi lăm tuổi. - Về người đàn ông, tôi muốn nói về một người sẵn sàng đương đầu với hoàn cảnh. - Điều ấy có vẻ rất Cơ Đốc. - Này! Có phải anh định lên lớp tôi về đạo Cơ Đốc không đấy. - Đúng vậy. Nếu tôi không nhầm thì, theo nhà thờ Cơ Đốc- Đúng! - Vậy thì mặc dầu có lễ cưới dân sự và lễ cưới ở nhà thờ, nếu họ không tự ban lễ cưới lẫn nhau, thì có phải đám cưới được coi như là vô giá trị hay không?- Hừm, hắn lẩm bẩm. - Này, thưa tiến sĩ, có gì làm phiền ông nếu ông bỏ điếu xì gà ở miệng ông ra không? Cái kiểu ông nhai nhai ấy làm tôi khó chịu, tôi cũng không hiểu vì sao. Người ta có thể tưởng là chúng ta đương tranh luận về giá thị trường chứng khoán. - Anh hãy nghe đây (hắn đã bỏ điếu xì gà ở miệng ra), nghĩ như thế nào về điều anh muốn, đấy là việc của anh, nhưng anh nên biết rằng cô Derkum về vấn đề này có ý kiến rõ ràng khác với ý kiến của anh và cô ấy hành động theo lương tâm của cô ấy. Tất cả những gì tôi có thể nói được, là cô ấy hành động lành mạnh đấy. - Nếu như vậy, tại sao không ai trong các anh muốn cho tôi biết là cô ấy đương ở đâu? Các anh chỉ là một bọn Cơ Đốc giáo đáng nguyền rủa, tất cả vào hùa với nhau đem giấu Marie của tôi. - Đừng có lố bịch, Schnier, chúng ta không còn ở thời kì Trung cổ. - Thật đáng tiếc, vì nếu chúng ta còn sống ở thời kì Trung cổ thì cô ấy đã có thể ăn ở với tôi không cần phải cưới xin mà lòng không bị hối hận giày vò... Rút cuộc, cô ấy rồi sẽ trở về với tôi một ngày nào đó. - ở địa vị của anh, Schnier, tôi sẽ không chắc chắn đến như vậy. Anh đúng là không có tư chất siêu hình học, thật đáng tiếc. - Đối với Marie chưa bao giờ có vấn đề để cô ấy phải lo lắng cho linh hồn của tôi lâu đến thế, nhưng vì các anh xen vào, chính các anh, để thuyết phục cô ấy phải chăm lo trước hết cho chính linh hồn của cô ấy, đến nỗi bây giờ lại chính là tôi, không có tư chất siêu hình học, phải lo lắng cho linh hồn của Marie. Nếu cô ấy đã lấy Zupfner đấy là cô ấy đã mắc tội lỗi thật sự lần đầu tiên. Bởi vì có cái gì đó trong siêu hình học của các anh tôi cũng hiểu được: là khi ăn ở với Zupfner, cô ấy đã mắc tội ngoại tình và rơi vào chuyện thông dâm. Còn đức Tổng Giám mục Sommerwild của anh, trong chuyện này ông ấy đóng vai trò ma cô. Với một sự cố gắng hiển nhiên, Kinkel vẫn còn cười được, nhưng tiếng cười không giòn lắm. - Dù sao cũng phải thừa nhận thật là buồn cười khi người ta nghĩ về Heribert gần như là đức thế tục của Cơ Đốc giáo Đức và Sommerwild là đức thần quyền của anh ta. - Và anh là lương tri của hắn! Tôi điên tiết nói thêm, và anh hoàn toàn biết là tôi có lí. Trên kia, trên dải núi Vénusberg, hắn hổn hển một lúc dưới một trong ba bức tranh Đức Mẹ barốc kém giá trị nhất. - Tuổi thanh niên của anh có cái gì đó làm người ta chưng hửng và đáng để phải ganh tị. - Thôi, thôi, ông tiến sĩ, không nên để mình phải chưng hửng và ganh tị với tôi. Nếu Marie không quay về với tôi, tôi sẽ khử đức Tổng Giám mục tử tế của các anh. Tôi sẽ lột da ông ta, vì tôi chẳng còn gì để có thể mất nữa. Hắn im lặng và lại nhét điếu xì gà vào miệng. - Tôi biết, tôi nói, lương tâm của anh đương bị giày vò dữ dội. Nếu tôi nói đến việc thủ tiêu Zupfner, việc ấy sẽ rất tiện cho anh: hắn không thích anh và hắn quá thiên hữu đối với anh, trong khi Sommerwild lại là một chỗ dựa chắc chắn của anh ở Rome, ở đấy người ta chê trách anh - cũng rất đúng thôi, theo thiển nghĩ của tôi - về những tư tưởng cấp tiến. - Thôi những chuyện phi lí như vậy đi, Schnier. Có chuyện gì không ổn? - Những tay Cơ Đốc giáo làm tôi bực mình, tôi nói, vì họ không nghiêm túc. - Còn những người theo đạo Tin Lành? Hắn vừa cười vừa hỏi. - Họ làm tôi phát ốm với việc phô trương các vấn đề muôn thuở về lương tâm. - Và những kẻ vô thần? - Họ làm tôi khó chịu vì lúc nào cũng chỉ cầu Trời. - Vậy, anh đúng là ai? Tôi là một diễn viên hài, và bây giờ còn hài hơn so với tiếng tăm của hắn. Nhưng có một con người Cơ Đốc giáo mà tôi cần đến một cách ghê gớm: Marie, và đấy chính là con người các anh đã bắt cóc mất của tôi. - Vô lí, Schnier! Hãy dứt khoát bỏ đi cái ý nghĩ về việc bắt cóc ấy đi. Quái dị, chúng ta đương sống ở thế kỉ hai mươi! - Đúng vậy! ở thế kỉ mười ba tôi đã có thể tha hồ tán gái, và ngay các vị hồng y giáo chủ cũng không buồn bận tâm đến việc Marie và tôi có cưới nhau hay không. Trái lại, ngày nay tất cả những người Cơ Đốc giáo lại khua chuông gõ mõ về lương tâm khốn khổ của cô ấy, đẩy cô ấy vào một cuộc sống đồi trụy và ngoại tình, chỉ vì một mẩu giấy nhỏ nực cười kia. Cuối cùng, ở thế kỉ mười ba, thưa ông tiến sĩ, với những bức tranh Đức Mẹ ông đáng bị rút phép thông công đấy. Chắc ông biết rõ là những đồ vật ấy bị lấy cắp ở các nhà thờ xứ Bavière hoặc ở vùng Tirol(1) và không cần phải nói ông cũng biết là hiện nay việc lấy cắp đồ vật của nhà thờ vẫn còn bị coi là một tội lớn. - Schnier, tôi thấy anh là đã tự cho mình quyền được có những nhận xét về các vấn đề riêng tư. Tôi không ngờ anh lại như thế đấy. - Đã nhiều năm anh can thiệp vào những công việc hết sức riêng tư của tôi và khi ngẫu nhiên, tôi có một nhận xét rất phụ, nho nhỏ đặt anh trước một thực tế có thể gây ra cho anh những sự phiền toái, thì anh lại nổi giận. Khi nào tôi có lại được tài sản, tôi sẽ thuê một tay thám tử tư chỉ để khám phá ra nguồn gốc các bức tranh Đức Mẹ của anh. Hắn không còn cười nữa. Tôi nghe thấy hắn ho và nhận thấy là hắn chưa hiểu rằng đấy là tôi nói một cách nghiêm túc. - Gác máy đi, Kinkel, gác máy trước khi tôi bắt đầu nói với anh về mức sống tối thiểu. Chúc anh và cả lương tâm của anh một buổi tối tốt lành. Nhưng hình như hắn vẫn chưa hiểu, tôi lại là người gác máy trước.