Tôi bất giác thấy mình còn đứng trên ban công, mắt vẫn nhìn về Bonn, đầu gối tôi đau và tôi bám vào lan can, phân vân về số phận đồng mác mà tôi đã vứt qua cửa sổ. Tôi rất muốn lấy lại nó nhưng lúc này không dám đi tìm nó, Léo có thể đến trong chốc lát. Các vị này rồi cũng cứ phải kết thúc với món mận đánh kem và đọc kinh Tạ Ơn sau bữa ăn. Không có cách nào ở trên cao với khoảng cách từ tầng năm nhìn xuống có thể phát hiện ra được nó nằm ở chỗ nào trên mặt đường, chỉ có trong các chuyện hoang tưởng những đồng tiền mới đủ lóng lánh để người ta có thể nhận ra được chúng từ xa. Đây đúng là lần đầu tiên tôi thấy tiếc một cái gì thuộc về tiền bạc. Đồng tiền vứt qua cửa sổ ấy, là mười hai điếu thuốc lá, hai chuyến xe điện hoặc một chiếc bánh sandwich kẹp xúc xích. Không còn có sự tiếc rẻ, nhưng với một nỗi u uất tôi nghĩ đến số lớn vé phụ chúng tôi đã bỏ tiền ra trả cho các bà mẹ vùng Basse Saxe, nỗi u uất có thể so sánh với nỗi u uất của một người đương suy nghĩ về những cái hôn tặng cho một người thiếu nữ rút cục đã đi với người khác. Tất nhiên là không nên đặt quá nhiều hi vọng vào Léo. Nó có một ý nghĩ kì cục về tiền bạc, gần như là ý nghĩ của một bà sơ thực sự về chuyện "tình yêu vợ chồng". Không có cái gì lóe sáng ở dưới mặt đường, mặc dù ngoài đường rực rỡ ánh sáng. Các xe hơi, các chuyến xe điện, các xe khách và các công dân của Bonn, chấm hết. Có thể - tôi còn đi đến hi vọng - đồng mác đã nằm trên nóc toa xe điện và một ai đó ở kho để xe sẽ nhặt được nó. Dĩ nhiên tôi có thể xông vào giữa lòng một nhà thờ cải cách. Nhưng riêng cái từ "lòng" đã làm tôi rùng mình, buông mình vào cánh tay của Luther, có thể được, cùng ra cũng đành vậy, nhưng vào "lòng một nhà thờ cải cách"... thì không. Nếu tôi phải đóng kịch, ít ra tôi cũng phải tìm thấy được một sự vui thích nào đó. Tôi sẽ rất thích thú đóng kịch người quy đạo Cơ Đốc: trong sáu tháng liền, tôi sẽ tránh mọi biểu hiện không thích hợp, rồi bắt đầu dự các buổi thuyết giáo buổi tối của Sommerwild cho đến một ngày tôi tuôn ra đầy rẫy các catholon, cũng nhiều vi trùng như ở một vết thương mưng mủ. Nhưng trường hợp này tôi sẽ phải từ bỏ mọi hi vọng dành được ân huệ của bố tôi, sẽ có ngày trong một phòng làm việc than linhít ông kí cho tôi một tấm séc gạch chéo... Có thể mẹ tôi sẽ đưa tôi vào làm việc ở ủy ban Trung ương, do đó làm tôi có dịp bảo vệ những lí thuyết về chủng tộc của tôi. Tôi sẽ sang Mĩ làm một loạt cuộc nói chuyện trong các câu lạc bộ phụ nữ, nêu gương sống về lòng hối hận của thanh niên Đức. Chỉ có là, vì tôi không có gì để hối hận, tôi sẽ phải đóng kịch người hối hận. Tất nhiên tôi có thể kể với họ là tôi đã ném xỉ than vào mặt Herbert Kalick, là tôi đã bị giam trong lán để dụng cụ đi săn và cuối cùng là tôi đã bị đưa ra xét xử trước một tòa án gồm có Kalick, Brỹhl và Lovenich. Chỉ riêng việc kể ra chuyện đó đã là một hài kịch. Khó mà miêu tả được những khoảnh khắc họ bám vào cổ anh như một huy chương. Mỗi người tự đeo vào cổ và trên ngực mình những huy chương và những khoảnh khắc anh hùng. Bám vào quá khứ chỉ vì một việc là không có ai đã được sống những khoảnh khắc nổi tiếng ấy: như khoảnh khắc Henriette, ngồi trên toa xe điện, đầu đội mũ màu xanh, đi Leverkusen để bảo vệ đất nước Đức Chí Thánh chống lại bọn Do thái - Yăngki. Không, vở hài kịch chắc chắn nhất, hơn nữa vở hài kịch có thể đem lại cho tôi sự hứng thú nhiều nhất, sẽ là "chơi con bài Cơ Đốc giáo", mỗi lần tôi đều sẽ thắng cuộc. Qua các nóc trường đại học, xa xưa, tôi nhìn vào những lùm cây của Hofgarten: chính đấy, trên những đồi nhỏ giữa Bonn và Goderberg, là nơi Marie sẽ ở... Tốt hơn hết là tôi nên đến ở gần nơi đó. Tôi sẽ không làm cho công việc của em dễ dàng bằng cách làm cho em tưởng là tôi vẫn liên miên đi biểu diễn. Ngược lại em phải tính đến nguy cơ sẽ có một cuộc gặp gỡ, và mỗi cuộc gặp gỡ sẽ làm em đỏ mặt vì hổ thẹn với ý nghĩ là em đương sống một cuộc sống ngoại tình và thông dâm. Và khi gặp em với các con của em khoác áo đi mưa, áo anorak hoặc áo choàng len, đột nhiên em có cảm giác là các con em trần truồng. Thưa bà kính mến, trong thành phố người ta đương xì xào với nhau là bà để các con của bà chạy rông trần truồng. Thật quá lắm. Và, thưa bà kính mến, bà đã quên mất một từ "của tôi", khi quyết đoán bà đã phải trả lời là bà chỉ yêu có một người... bởi vì đáng lẽ không phải là nói "một" mà đúng ra phải nói là "của tôi". Người ta cũng xì xào với nhau về việc bà cười mỉm trước sự hằn thù ngấm ngầm của mỗi người ở đây đối với người họ gọi là ông bạn thân mến, tiếc là bà lại thấy tất cả bọn họ giống hệt ông ta. Tóm lại, theo bà, họ cũng tự cho mình là không thể thay thế được và họ cũng đọc tiểu thuyết trinh thám. Tất nhiên là bìa của các cuốn tiểu thuyết trinh thám không đúng với tinh thần nội dung các cuốn tiểu thuyết. Những người Đan Mạch đã quên mở rộng phong cách của họ trong việc trình bày bìa các cuốn tiểu thuyết trinh thám. Những người Phần Lan, họ tất nhiên có lẽ khá khôn ngoan trong việc áp dụng cách trình bày bìa các cuốn tiểu thuyết trinh thám vào các đồ dùng như ghế tựa, ghế bành, mặt kính và bình, chậu. Chính Blothert cũng luôn luôn để vương vãi các cuốn tiểu thuyết trinh thám ở khắp nơi. Hắn đã không biết ngượng để giấu chúng đi vào buổi chiều cái hôm hắn mời chúng ta đến xem nhà hắn ở. Thưa bà kính mến, bà trải qua những giờ ngồi trong bóng tối, ở rạp chiếu phim, ở nhà thờ, hoặc trong phòng khách để nghe nhạc nhà thờ. Bà ngại ánh sáng ở các sân quần vợt. Người ta không ngớt xì xào. Người ta nói là bà ở phòng xưng tội từ ba mươi đến bốn mươi phút. Đằng sau bà là cái nhìn phẫn nộ không buồn giấu giếm của một người đàn bà khác đương chờ đến lượt. Trời ơi, có gì quan trọng đến thế để phải xưng tội? Bà đã chẳng có một người chồng đẹp nhất có thể có được hay sao? Một con người thật đức hạnh. Và một đứa con gái nhỏ tuyệt vời, cộng thêm hai chiếc xe hơi. Và sau chấn song, là sự cau có pha lẫn sự sốt ruột và những lời tỉ tê muôn thuở trở đi trở lại về tình yêu, về cưới xin, về bổn phận, rồi lại về tình yêu... và cuối cùng về vấn đề: "Không có cả sự hoài nghi về tôn giáo, vậy con còn thiếu gì, con của cha?" Em không thể bày tỏ cũng không thể nghĩ ra điều mà anh biết. Cái mà em thiếu là một diễn viên hài (tên chỉ nghề nghiệp: "nghệ sĩ hài kịch") không chiều cống một nhà thờ nào hết. Rời khỏi ban công, bước thấp bước cao, tôi đi vào buồng tắm định hóa trang mặt. Tôi đã mắc sai lầm chìa ra với bố tôi bộ mặt không trát phấn, nhưng nếu đấy là một sự đến thăm tôi không chờ đợi, thì sai lầm đó là thuộc về ông. Trái lại, với Léo, nó luôn luôn háo hức muốn biết tôi thật sự nghĩ gì, bộ mặt thật của tôi, con người thực của tôi, tôi sẽ phơi bày hết. Khi tôi chưa hóa trang, nó vẫn còn nghi ngờ về những "mặt nạ" của tôi, những chuyện đùa dai của tôi, tất cả những gì nó cho là "không nghiêm túc". Chiếc va li đựng phấn bôi mặt của tôi từ Bochum còn chưa tới. Và khi tôi mở cánh cửa tủ hốc tường nhỏ màu trắng trong buồng tắm ra... Quá chậm rồi, tai hại đã xảy ra. Lẽ ra tôi phải sớm hơn nghĩ đến cái tính đa cảm chết người gắn liền với đồ vật. Về các ống và lọ của Marie, các chai và hộp, không còn một chút dấu vết trong tủ, và việc tất cả những thứ gì thuộc về Marie đều biến mất không còn phải nghi ngờ đã tác động đến tôi hết sức nặng nề cũng như bất cứ một sự hiện ra nào của một trong những ống hoặc lọ của em. Không còn gì. Có thể Monika Silvs đã có lòng tử tế đem đóng gói chúng và chở đi hết? Tôi ngắm mình trong gương: đôi mắt hoàn toàn trống rỗng. Đây là lần thứ nhất, tôi không cần phải làm cho chúng trở nên trống rỗng bằng cách tự cố định mình trong gương qua suốt nửa tiếng đồng hồ với rất nhiều động tác thể dục mặt. Đấy là bộ mặt của một người đã suy nghĩ kỹ sẵn sàng đi tự tử, và khi tôi bắt đầu hóa trang cho nó, nó trở thành bộ mặt của một người chết. Tôi trát vazơlin lên mặt, rồi mở một ống bột trắng đã bị khô một nửa, ép ra chỗ còn lại đắp tất lên mặt: không một vết đen, không một vết đỏ, chỉ là một khuôn mặt trắng đều, kể cả lông mày. Đặt trên cái mặt nạ ấy, tóc của tôi không khác gì tóc giả. Miệng tôi không hóa trang trở nên thâm sịt, gần như tím và mắt tôi (trong như trời mùa hạ) cũng trống rỗng hệt như mắt của một Giáo hoàng khi ông ta không dám thú nhận là từ lâu ông đã mất đức tin. Tôi không hề sợ sự phản chiếu của tôi trong gương. Với khuôn mặt như thế, chắc chắn là tôi thành công trong nghề, tôi còn có thể giả đò quan tâm đến sự nghiệp, mặc dầu ngu ngốc vì hão huyền, nhưng tôi còn tương đối thấy có cảm tình hơn cả: sự nghiệp mà người bạn tôi, Edgar Wieneken tin tưởng. ít ra sự nghiệp đó có cái lợi là nó không có mùi. Sự không có mùi của nó làm cho nó ít bất lương hơn mọi sự bất lương, ít sâu xa hơn một sự ít sâu xa nhất. Ngoài màu đen, màu nâu sẫm và màu xanh, tôi còn có thêm một khả năng lựa chọn nữa. Cái gọi là "màu đỏ" là một uyển ngữ và là bằng chứng của một sự lạc quan quá mức. Tốt hơn nên nói là: màu xám phớt hồng. Hầu như buồn vì một nguyên nhân buồn, ở đó có chỗ cho một diễn viên hài có thể mắc vào một tội lỗi tai hại nhất trong những tội lỗi mà một diễn viên hài có thể mắc phải: gợi lên lòng thương hại. Nhưng trong tất cả bọn, Edgar là người cuối cùng tôi có ý định lợi dụng, người cuối cùng tôi có thể đóng kịch. Tôi là người duy nhất chứng kiến anh thực sự đã chạy một trăm mét mất 10,1 giây và anh là một trong những người hiếm hoi đã luôn luôn thăm hỏi tôi và chấp nhận tôi như là tôi. Cuối cùng, anh không tin tưởng ở gì hết, trừ ở một số người, trong khi thêm vào đó có những người khác tin vào Chúa Trời, vào đồng tiền trừu tượng và vào những chuyện như Nhà nước và nước Đức. Edgar, anh không tin những chuyện đó, không phải là anh đã không thực sự đau lòng khi thấy tôi nhảy lên taxi để trở về Ehrenfurt hay sao? Bây giờ tôi ân hận đã không có một lời giải thích nào với anh. Tôi chỉ chịu ơn riêng anh ấy. Tôi rời khỏi tấm gương: cái mà tôi thấy ở đấy quá hợp với ý muốn của tôi. Không một khoảnh khắc nào tôi không nghĩ đấy là chính tôi mà tôi đã nhìn thấy. Đấy không phải là một anh hề, mà là một người chết giả đò chết. Vẫn bước thấp bước cao, tôi trở về phòng ngủ nhưng ngập ngừng chưa vào, tôi sợ phải trông thấy quần áo của Marie. Chính tôi đã tặng em phần lớn các áo dài, tôi còn tranh luận với các cô thợ may về những chỗ cần phải sửa lại. Hầu hết các màu đều hợp với Marie, trừ màu đỏ và màu đen, ngay đến màu xám cũng không làm em nhợt nhạt đi. Em rất ăn với màu hồng, cả với màu xanh. Có lẽ tôi có thể thành đạt trong nghề may quần áo nữ, nhưng đối với một người theo chế độ một vợ một chồng, không có thói loạn dâm, thì đó là một sự tra tấn kinh khủng! Phần lớn các ông chồng tự bằng lòng với việc đưa cho các bà vợ những tấm séc gạch chéo, căn dặn các bà cần phục tùng "điều bức chế của thời trang". Nếu màu tím là đúng mốt, tất cả các bà được cung cấp séc gạch chéo đều mặc áo dài màu tím. Vì vậy khi các bà "tự đánh giá mình khá cao, đồng nhất mặc áo màu tím như nhau trong một cuộc gặp mặt của giới ăn chơi thượng lưu, người ta sẽ cho đấy là một đại hội các Giám mục giống cái mới vừa được cuộc sống kích thích. Hiếm có những bà hợp với màu tím. Marie thì hợp. Hồi tôi còn ở với gia đình khi mốt áo túi được quảng cáo, tất cả các gà mái tây đáng thương ấy được các ông chồng ra lệnh phải trang phục "một cách biểu thị" để đến nhà chúng tôi vào "đúng ngày" trông như những cái túi hết sức kệch cỡm. Một số trong họ tôi thấy thật đáng thương, đặc biệt một bà to béo, nặng nề, phu nhân của một trong rất nhiều vị chủ tịch hôm đó. Tôi sẵn sàng vì lòng khoan dung ném bất cứ thứ gì lên vai bà ta - khăn bàn hoặc màn cửa - coi như là áo khoác. Đức ông chồng ngu xuẩn của bà ta không nhận thấy gì, không trông thấy gì, không nghe thấy gì, có lẽ ông ta còn có thể sai vợ đi ra chợ trong bộ quần áo ngủ màu hồng nếu có tên loạn dâm nào đó ra lệnh cho ông ta. Vào hôm sau, trước năm mươi mục sư đạo Tin Lành, cái gã thảm hại ấy đọc một bài nói chuyện về các mối quan hệ thể chất trong vấn đề hôn nhân. Hắn có thể không biết là vợ hắn đầu gối quá khoèo để có thể mặc cái áo ngắn. Trốn khỏi hình ảnh phản chiếu của mình trong gương, tôi mở mạnh ra một cánh cửa tủ: không còn một tấm áo nào của Marie, hết nhẵn, đến cả đôi cốt giầy, đến cả một sợi dây của phụ nữ. Phảng phất còn lại mùi nước hoa của em. Tử tế ra, đáng lẽ em phải mang đi cả quần áo của tôi, đem cho ai hoặc đốt chúng đi cho xong; nhưng không, quần áo của tôi còn treo trong tủ: một chiếc quần vải màu xanh tôi không mặc bao giờ, một chiếc áo vét hàng tuýt màu đen, vài chiếc cavát, và trên mặt ván bên dưới ba đôi giày. Trong ngăn kéo tủ, còn đủ thứ, đủ thứ, các măng sét, các gọng căng cổ sơmi màu trắng, bít tất, khăn tay. Tôi đoán đúng: nếu là tài sản của người khác, các tín đồ Cơ Đốc giáo tỏ ra công bằng một cách khắc nghiệt không cần phải mở đến ngăn kéo: tất cả cái gì là của tôi sẽ còn y nguyên và tất cả những cái gì là của Marie đều đã biến mất. Em có thể nhân từ hơn nếu em chịu mang đi tất những quần áo mướp của tôi! Nhưng không, tất cả đều đã được thực hiện với sự công bằng không thể chê vào đâu được, với sự đứng đắn đến chết người. Chắc hẳn Marie đã động lòng thương, nên đã mang đi tất cả những gì có thể làm tôi nhớ đến em. Chắc là em còn khóc nữa với những giọt nước mắt hệt như, trong các phim quay cảnh li hôn, lúc người phụ nữ nói: "Không bao giờ em quên được những năm tháng sống với anh". Tủ áo rất sạch (có ai đó đã dùng đến giẻ lau để lau bụi), được sắp xếp ngăn nắp không chê vào đâu được, không hề có một chút lẫn lộn nào giữa đồ vật, quần áo của chúng tôi, đấy là cái tệ hại nhất Marie có thể để lại cho tôi, cứ như là người ta vừa mới thực hiện trong tủ một sự cắt bỏ phẫu thuật hết sức thành công. Không còn lại thứ gì của em, dù là một cái cúc áo của em rơi ra. Để thoát khỏi sự phản chiếu của tôi trong gương, tôi đã mở cánh cửa tủ, bước thấp bước cao đi vào bếp, lấy chai cognac nhét vào túi áo, đi ra phòng khách, ngả người trên ghế tràng kỉ và rút chân phải ra khỏi ống quần. Đầu gối tôi vẫn sưng, nhưng nằm xuống tôi thấy bớt đau. Còn bốn điếu thuốc lá trong bao, tôi đốt một điếu. Tôi tự hỏi xem điều gì là tệ hại nhất: điều Marie bỏ lại ở đây quần áo của em hay là - như em đã làm - mang đi hết không để lại một lời âu yếm nào với tôi: "Không bao giờ em có thể quên được những năm tháng sống với anh". Có thể là nên như vậy. Tuy nhiên tôi vẫn muốn tìm thấy dù là một sợi nịt bụng hoặc một chiếc cúc áo rơi trên mặt gỗ bên dưới, trong tủ. Hoặc là, tốt nhất em mang đi cả chiếc tủ và đốt nó đi. Đúng vào lúc chúng tôi ngồi vào bàn ăn, chúng tôi nhận được tin về sự hi sinh của Henriette. Anna đã để lại trên mặt tủ buýpphê chiếc khăn ăn của Henriette cuộn tròn màu vàng theo chị chưa bẩn đến mức phải thay. Mắt chúng tôi đều hướng vào chiếc khăn ấy: hơi dính mứt, có một vệt nhỏ màu nâu nước xúp hoặc nước chấm. Lần đầu tiên trong đời tôi cảm thấy thật đáng sợ những đồ vật người ta để lại đằng sau mình lúc ra đi hoặc sau khi chết. Mẹ tôi bắt đầu ăn, cử chỉ ấy hẳn có nghĩa là: cuộc sống vẫn tiếp tục hoặc là cái gì tương tự, nhưng tôi biết chắc chắn không đúng như vậy. Bằng một cú đánh mạnh và nhanh tôi làm chiếc thìa xúp của bà rời khỏi các ngón tay bà và tôi chạy vụt ra ngoài vườn rồi lại quay trở vào nhà ngay sau đó trong tiếng la hét om sòm ở trong nhà. Nước xúp được đun sôi đã làm bỏng mặt mẹ tôi. Tôi chạy lên gác, bốn bực một, lao vào phòng của Henriette, mở toang cửa sổ ra và vơ lấy tất cả những gì có trong tầm tay vất tung ra ngoài vườn: hộp, quần áo, búp bê, nón, giầy, mũ bonê. Mở đến các ngăn kéo tủ nằm giữa xấp quần áo của chị, tôi thấy những vật nho nhỏ hẳn là thân thiết đối với chị: các bỏng hạt phơi khô, các viên sỏi, các bông hoa, các mẩu giấy và những bọc thư được buộc lại bằng một dải lụa màu hồng. Lần lượt các đồ vật rơi vào tay tôi, giày tennis, vợt, chiếu quả, và tôi đều quẳng hết ra vườn. Sau này Léo nói lại là người ta tưởng tôi phát điên và sự phản ứng quá mau không ai kịp ngăn lại. Sau khi đã lật đổ ba ngăn kéo đầy đồ qua mép cửa sổ, tôi lại lao vào nhà xe, vác ra vườn chiếc can xăng dự trữ lớn, đổ hết xăng lên các đồ vật tôi chất đống ở đó và châm lửa đốt. Tôi còn lấy chân gạt vào lửa đang cháy tất cả những gì chồi ra, rồi thu nhặt các mẩu giấy, các đồ vật nhỏ, những bông hoa ép khô, những bọc thư rải rác chung quanh, tôi cũng vứt hết vào lửa. Sau đó, tôi chạy vào phòng ăn lấy chiếc khăn ăn quấn tròn màu vàng trên mặt tủ buýpphê đem ra đốt nốt. Sau này Léo nói lại với tôi là tất cả đã diễn ra trong có năm phút. Trước khi có ai kịp đoán ra ý định của tôi, thì tôi đã ném tất cả vào đống lửa đỏ rực rồi. Chúng tôi còn được một viên sĩ quan người Mĩ đến khám xét, tin chắc là tôi đã đốt đi các tài liệu mật, như những tài liệu của tổ chức ỎMa Chó SóiÕ, nhưng ông ta đã đến quá chậm: tất cả đều đã cháy sém cháy đen, kinh khủng và hôi hám. Và khi ông ta định tịch thu một bọc thư, tôi đấm một cú vào tay ông ta và đổ nốt vào lửa chỗ xăng còn lại trong can. Một lát sau đến lượt những lính cứu hỏa xuất hiện, mang theo những vòi nước to một cách kì cục, đằng sau họ một tay rống lên một cách kì cục khẩu lệnh kì cục nhất tôi chưa bao giờ nghe thấy: "nước, chạy!" Và họ còn không thấy ngượng đem đến những vòi rồng rất lớn để phun nước, vào cái giàn thiêu khốn khổ của tôi, và vì có một khung cửa sổ hơi bị bén lửa, một đội viên cứu hoả đã chĩa thẳng vòi nước lên, biến gian phòng thành bể bơi đến nỗi sau này ván sàn trong phòng bị vênh lên và mẹ tôi khóc sướt mướt trước khi gọi cho Công ty bảo hiểm để hỏi xem có thể coi đó là sự tổn thất được bảo hiểm bồi thường như là một sự thiệt hại về nước và do hỏa hoạn thuộc phạm vi bảo hiểm động sản hay không. Tôi đưa cổ chai lên miệng làm một hụm cognac, cho lại chai vào túi áo, rồi rờ xem đầu gối, khi nằm duỗi ra đúng là tôi thấy đỡ đau hơn. Nếu biết điều và tập trung tư tưởng thì sự sưng phồng và cơn đau sẽ giảm đi. Tôi có thể kiếm một chiếc thùng đựng cam rỗng, mang ra ngồi ở cửa nhà ga, gảy đàn và hát các bài Kinh Cầu nguyện. Như thế ngẫu nhiên, tôi đặt chiếc mũ dạ hoặc mũ cátkét của tôi ở bên cạnh, và nếu có ai đó có ý nghĩ quẳng vào đó cho tôi một cái gì đó thì người khác cũng sẽ làm theo. Xem xét lại thấy mình không còn một điếu thuốc lá nào, tôi mới thấy thật cấp thiết phải có tiền. Chắc chắn hơn cả là tự mình đặt trước vào trong mũ một đồng groschen hoặc vài đồng năm pfennig. Léo chắc sẽ tìm được cách xoay xở kiếm cho tôi số tiền đó. Tôi đã hình dung thấy mình ngồi trong bóng tối trước mặt nhà ga với bộ mặt hoàn toàn bôi trắng, áo dệt kim màu lơ, áo vét tuýt màu đen, quần vải màu xanh và đã tự nghe thấy mình hát, cố gắng làm át đi tiếng ồn trên đường phố: Rosa mystice - ora pronobis - turis Davidica - ora pronobis - virgo fidelis - ora pronobis(1) - Tôi sẽ ngồi ở đấy cho đến khi chuyến tàu từ Rome tới, cho đến khi cô conjux in fidelis(2) của tôi và ông chồng Cơ Đốc giáo của cô xuống tàu. Lễ cưới bắt hắn phải khơi lên việc xem xét đến nhức đầu: Marie không góa chồng, không li dị chồng, và - điều mà cuộc đời tình cờ đã làm tôi biết chắc - em không còn là một thiếu nữ. Sommerwild hẳn phải bứt đầu bứt tai: đối với hắn một lễ cưới mà không có áo voan trắng như tuyết sẽ mất hết giá trị thẩm mĩ. Nhưng có thể còn có những thể thức nghi lễ đặc biệt cho các thiếu nữ đã từng bị quyến rũ, cho các cô nguyên là vợ không có cưới xin của một diễn viên hài? Ông giám mục đứng ra làm lễ cưới đã nghĩ như thế nào? Chắc chắn không chỉ có một ông giám mục. Một hôm, Marie đã lôi tôi đến dự một buổi lễ cầu kinh nhật tụng do một giám mục cử hành, và tất cả những sự lặp đi lặp lại (đặt xuống và nhấc lên mũ lễ, đặt xuống và nhấc lên dải dây màu trắng, dải quai bên này, dải quai bên kia, đặt xuống dải dây màu đỏ, nhấc lên dải dây màu trắng) đã gây ấn tượng sâu sắc đối với tôi. Chất nghệ sĩ ở tôi làm tôi đặc biệt nhạy cảm với cái đẹp trong sự lặp đi lặp lại của một cử chỉ. Tôi cũng nghĩ đến tiết mục kịch câm của tôi về chùm chìa khóa. Tôi có thể dễ tìm được bột nặn, lấy dấu các chìa khóa, đổ nước vào khuôn đã thành hình và đưa vào tủ lạnh làm đông nước lại. Tôi cũng nhất định có thể tìm được một chiếc tủ lạnh nhỏ xách tay để mỗi buổi tối làm đông lại trong đó chùm chìa khoá, chúng sẽ tan ra trong quá trình thực hiện tiết mục. Tất nhiên có thể thu được một cái gì đó từ ý tưởng này, nhưng tạm thời gác lại đã: nó quá phức tạp. Hơn nữa, bị phụ thuộc vào quá nhiều dụng cụ, có thể sẽ đẻ ra nhiều điều bất ngờ về mặt kỹ thuật: đúng là chỉ cần một tay bày cảnh trí trên sân khấu, có chuyện xích mích cũ với một người rênan trong chiến tranh, mở tủ lạnh ra, thế là tất cả sẽ đi tong. Tốt hơn hết là cố bám vào giải pháp kia: ngồi ở thềm sân ga Bonn với bộ mặt thật đã được trát phấn của tôi, hát những bài Kinh Cầu nguyện và tự đệm đàn. Tôi sẽ đặt bên cạnh tôi chiếc mũ trước kia tôi dùng trong những mô phỏng Charlot của tôi. Chỉ còn thiếu có vài đồng xu để làm mồi nhử: cùng ra một đồng groschen cũng tốt, nhưng một đồng groschen và thêm một đồng năm pfennig thì tốt hơn, và càng tốt hơn nữa nếu có ba đồng tiền; groschen, một đồng năm pfennig, thêm một trong hai đồng đó. Những người đi qua đồng thời hiểu ra rằng tôi không giống như những tín đồ cuồng tín coi khinh của bố thí và nhận thấy là một món tiền đóng góp nhỏ nhất, dù chỉ là một đồng tiền đồng, cũng được hoan nghênh. Sau này tôi sẽ còn bỏ thêm vào một đồng bằng bạc, như vậy để chỉ ra rõ là, thứ nhất, tôi không từ chối số tiền lớn hơn và thứ hai, đã có người sẵn sàng bỏ ra số tiền lớn đến như thế. Tôi cũng có thể đặt một điếu thuốc lá vào trong mũ, vì có nhiều người sẵn sàng trút bỏ bao thuốc của họ hơn là rút ví tiền ra. Tất nhiên có thể xuất hiện vào lúc nào đó một tay thuộc loại có nhiệm vụ kiểm tra việc tuân thủ các quy tắc trật tự: "Xin cho phép xem giấy phép hát rong...", hoặc một tay của Uỷ ban Trung ương hội trấn áp tội phạm thánh buộc tội tôi là trong biểu diễn có động đến vấn đề tôn giáo. Trường hợp nếu người ta hỏi tôi giấy căn cước, thì chỉ cần ở gần chỗ tôi có một cục than bánh: mọi người đều biết cái câu ghi trên đó: Hãy sưởi ấm với Schnier, tôi sẽ cẩn thận gạch đít, bằng phấn đỏ cái tên chữ có màu than đen, và có thể tôi sẽ thêm vào trước nó một chữ H. Tấm danh thiếp ấy, dù ít tác dụng, ít ra cũng có lợi là không gây ra một sự hiểu lầm nào. Và rồi, có một việc bố tôi rất có thể làm được cho tôi, vì nó không làm ông tốn một xu nào: kiếm cho tôi một giấy phép hát rong. Chỉ một cú telephon cho ông thị trưởng đầu tiên nào đó, hoặc đôi lời trao đổi riêng ở câu lạc bộ hát ngẫu hứng là xong. Bố tôi không thể từ chối giúp tôi việc đó. Lúc ấy tôi chỉ còn có việc hoàn toàn bình thản ngồi trên thềm nhà ga và đợi ở đấy chuyến tàu từ Rome đến. Nếu Marie có thể đi qua trước mặt tôi mà không ôm hôn tôi, tôi vẫn còn có việc, đi tự vẫn... sau đó. Đúng là tôi có lùi bước trước ý định tự vẫn và vì một lí do có thể tỏ ra là quá tự đề cao mình: ý muốn của tôi về việc giữ gìn cho Marie người diễn viên hài của em. Bởi vì nếu em đi đến chỗ rời bỏ Zỹpfner, chúng tôi sẽ gặp lại nhau trong một hoàn cảnh lí tưởng, hoàn cảnh của Besewitz. Em có thể là người vợ không có cưới xin của tôi, bởi vì sự li hôn tôn giáo với Zỹpfner vĩnh viễn bị cấm đối với em, và lúc đó tôi sẽ làm cho mình được máy thu hình phát hiện trở thành một nhân vật nổi tiếng buộc nhà thờ phải nhắm mắt làm ngơ. Vì tôi không có tham vọng về một lễ cưới tôn giáo, các ngài ấy cũng sẽ không phải sử dụng để chống lại tôi thứ vũ khí đã lỗi thời của họ: Henri VIII. Tôi thấy trong người có khá hơn. Đầu gối hết sưng, chỗ đau dịu đi. Còn lại chứng đau đầu và nỗi u uất, nhưng tôi quen với chúng cũng như với ý nghĩ về cái chết mà người nghệ sĩ không rời khỏi nó, cũng như một linh mục không rời khỏi quyển Kinh Nhật tụng của ông ta. Tôi còn biết chính xác sự thể sẽ diễn ra như thế nào sau khi tôi chết: tôi không thể thoát khỏi hầm mộ nhà Schnier. Mẹ tôi đã khóc, bà thề thốt bà là người duy nhất hiểu tôi. Sau khi tôi chết, bà sẽ đi khắp nơi kể lể "Hans của chúng tôi thực sự là con người như thế nào". Cho đến ngày hôm đó và có thể là cho đến tận cùng các thế kỉ, bà vẫn kiên quyết tin chắc là bà đã sinh ra một đứa con "dâm đãng" và "hám của". Bà sẽ nói: "Hans của chúng tôi thật sự có năng khiếu, đúng thế, nhưng chẳng may lại là đứa con dâm đãng và hám của... còn hoàn toàn vô kỉ luật nữa, ôi!... mà sao nó có năng khiếu đến thế, có năng khiếu đến thế!" Sommerwild nói: "Schnier người bạn tốt của chúng ta, một chàng trai mới thú vị và tuyệt vời làm sao!... Không may bị mối oán hờn không rũ bỏ được đối với giới giáo sĩ, hoàn toàn thiếu quan điểm siêu hình". Blothert sẽ tiếc là đã không thành công trong việc làm cho người ta phải chấp nhận đúng lúc ý kiến của hắn về án tử hình để có thể hành hình tôi một cách công khai. Fredebeul sẽ tuyên bố về tôi "một người không thể thay thế được, mặc dù hoàn toàn thiếu lôgic trong lĩnh vực xã hội". Kinkel, hoàn toàn bị xáo lộn, khóc sướt mướt thật sự, nhưng đã quá chậm. Monika Silvs thổn thức, khóc quá mức như thể cô là vợ góa của tôi, đau khổ hối tiếc là đã không tức khắc đến làm cho tôi món trứng tráng. Không thể tin là tôi đã chết, Marie bỏ Zỹpfner, chạy đi tìm tôi ở khắp các khách sạn... uổng công. Bố tôi thấm thía tính chất bi thảm của hoàn cảnh và hối tiếc là đã không, trước khi chia tay tôi, kín đáo đặt lên mặt tủ quần áo của tôi vài tờ giấy bạc. Karl và Sabine sẽ khóc không giấu giếm, một sự biểu lộ làm tất cả những người đến dự lễ tang tôi đều cho là khó coi. Sabine sẽ lén lút thọc tay vào túi chồng, vì bà ta lại một lần nữa quên không mang theo khăn tay. Edgar buộc phải cầm nước mắt lại và có thể, sau đám tang, sẽ trở lại vườn nhà chúng tôi để chạy dọc một lần cuối cùng đường đua một trăm mét, rồi một mình quay lại nghĩa trang đặt một bó hoa hồng trước mộ Henriette. Ngoài tôi ra, không ai biết cậu ta mê chị, không ai biết là những bức thư tôi đốt đi đều mang ở mặt sau cũng vẫn các chữ cái đầu: E.W. Nhưng đấy chưa phải là điều bí mật duy nhất tôi mang theo xuống mồ, bởi vì có một hôm mẹ tôi đã lén lút đi xuống hầm rượu, ở đấy tôi đã thấy bà mò vào chỗ để thức ăn dự trữ, cắt cho mình một lát giăm bông thật dày và đứng ăn rất vội, bằng tay. Điều đó không còn là ghê tởm, mà chỉ là đáng ngạc nhiên, và tôi thấy xúc động nhiều hơn là ghê sợ. Tuy không được phép, tôi đã xuống tầng hầm thật ra là để tìm những trái banh tennis cũ ở gian buồng để rương, hòm, khi nghe thấy tiếng bước chân của mẹ tôi, tôi vội tắt đèn đi. Và tôi thấy bà lấy trên giá xuống một lọ mứt táo nghiền, rồi đặt lại nó vào chỗ cũ, sau đó tôi nhận thấy khuỷu tay bà quay đi quay lại trước khi thấy bà cuộn lại và nhét lát giăm bông vào mồm. Tôi chưa bao giờ kể lại với ai tình tiết này và sẽ không bao giờ kể lại. Điều bí mật của tôi sẽ yên nghỉ dưới tấm bia đá hoa cương trong hầm mộ nhà Schnier. Dù lạ thường đến như thế nào, tôi vẫn yêu người đồng loại của tôi, loài người. Khi một người đồng loại của tôi mất đi, tôi thấy buồn. Tôi cho rằng tôi vẫn khóc bên mộ của mẹ tôi. Trên mộ của già Derkum, tôi không sao tự chủ được: tôi không ngừng tay hất đất xuống mặt gỗ trần linh cữu của ông, nghe thấy cả ai đó thì thầm sau lưng tôi rằng làm như vậy là không phải phép, nhưng không lúng túng tôi vẫn tiếp tục hất đất cho đến khi Marie cuối cùng phải giằng lấy chiếc xẻng khỏi tay tôi. Tôi từ chối việc nhìn lại cửa hàng của ông, ngôi nhà của ông, và không nhận một vật kỉ niệm nào về ông. Không gì hết. Là một phụ nữ biết phân biệt phải trái, em bán đi cửa hàng và để dành tiền "cho các con của chúng tôi". Tôi đã có thể không còn khập khiễng đi ra tới phòng ngoài. Tôi lấy cây ghi ta ra khỏi bao rồi, trở lại phòng khách, đặt hai chiếc ghế bành đối diện với nhau, kéo máy telephon lại gần tôi, ngồi duỗi chân ra so dây đàn. Mấy tiếng đàn trong lúc so dây đã làm tôi thấy dễ chịu, và khi bắt đầu hát tôi cảm thấy mình gần như thoải mái: mater amabilis-mater amabilis(1). Khi hát ora pro nobis(2), tôi còn đệm đàn. Rõ ràng là cách giải quyết này hợp với tôi. Đàn ghi ta trên tay, mũ để ngửa ra ở bên cạnh, tôi sẽ ngồi đợi chuyến tàu từ Rome về với khuôn mặt thật của tôi: mater boni consilii(3). Marie đã chẳng nói với tôi hay sao, hôm tôi trở về với số tiền của Edgar Wieneken, rằng không bao giờ, không bao giờ chúng tôi xa nhau nữa: "Chỉ có cái chết mới chia lìa được chúng ta". Tôi còn chưa chết. Bà Wieneken vẫn nói: "Người nào còn thèm ăn thì chưa chết được". Tôi hát và tôi đói... tôi không thể tưởng tượng ra được một người như Marie lại có thể sống ru rú ở nhà: cùng với nhau, chúng tôi đã đi từ thành phố này đến thành phố khác, từ khách sạn này đến khách sạn khác, và khi chúng tôi phải ở lại một nơi trong nhiều ngày, em nói: "Những chiếc va li để mở chĩa vào em như những cái mõm đòi được ăn". Và chúng tôi nhét đầy mõm các va li ấy. Khi tôi bắt buộc phải lưu lại một hay hai tuần lễ ở một thành phố, em đi khắp nơi như thể có ai nhắc đến em. Các rạp chiếu phim, các nhà thờ, các tờ báo dởm, cờ tào cáo. Có phải em thật sự muốn dự buổi đại lễ long trọng ngày Zỹpfner được thưởng huân chương xứ Malte(1), giữa các ngài thủ tướng và các vị chủ tịch? Tự em phải tẩy đi bằng bàn là các vết nến ở bộ đồng phục của chồng em? Đấy chẳng qua là vấn đề thị hiếu, Marie ạ... nhưng không phải thị hiếu của em. Tốt hơn cả là em nên tin vào một diễn viên hài không tin đạo, hắn kịp đánh thức em dậy để đi lễ nhà thờ được đúng giờ, khi cần hắn có thể gọi tắcxi cho em đi đến tận nhà thờ. Em không bao giờ phải giặt chiếc áo sợi dệt kim của anh. ----------------(1) Lời cầu nguyện Đức Mẹ đồng trinh Marie. (2) Người vợ không chung thủy (Latinh). (1) Vật đáng yêu - vật đáng yêu (tiếng Latinh). (2) Cầu nguyện cho chúng con. (3) Điều quyết định tốt đẹp. (1) Huân chương do các tu sĩ làm phước dòng Saint Zean sáng lập 1099, sang lánh nạn ở Malte 1518 - 1798. Được đặt ra ở Rome từ năm 1834.