I Mới đây vợ ất có một nhận xét về thế thái nhân tình sắc lẹm, không chỉ đo bằng một Tết một năm mà là hàng chục Tết hàng chục năm. Nói như thời nay là sự trưởng thành trải đời khác hẳn với bản chất mộc mạc chân quê của Thị: -Nghe theo miệng lưỡi của người thời nay chỉ có đổ vỡ gia đình, hỏng hết mọi việc. Chồng vợ mình bồ bịch thì xé xác tan thây. Trong khi chồng vợ người bồ bịch thì khen hết lời, nào là ga lăng, nào là sõi đời, nào là tân tiến. ất tự hào: “ấy là chốn tận cùng của nhân văn vậy!”. Nhưng Thị có sự mâu thuẫn khiến ất giật mình. Trong khi lên án gay gắt thói bồ bịch đa thê, như là đi tiên phong trong đạo đức mới, thì Thị lại kể đầy tự hào khi đụng đến thân nhân, gia đình, quê hương Thị. Thị kể như hát: Hồi bé hễ đến Tết là em được sang ăn Tết với ông em. Ông em đẹp trai, tài hoa lắm. Đi đến đâu là các cô các bà cứ chết mê chết mệt. Ông lại rất quí cháu, em sang là được ngồi vào lòng ông. Có một Tết em nhận ra chuyện buồn cười lắm. Mâm cỗ bày trang trọng trước ban thờ, ông ngồi giữa, mặt đối diện với ngọn đèn lớn, mọi người cứ thế nối nhau theo vòng tròn. ánh nến chiếu vào da ông đỏ au. Vào cỗ, sau hồi lâu nhâm nhi chén rượu thuốc, ông cầm đôi đũa mun gõ một tiếng “keng” vào cái bát sứ trắng muốt tức thì bà già mà em biết là vợ ông đưa tay xới cho ông bát cơm gạo tám thơm phức. Đến khi ông gõ hai tiếng, thì một bà trẻ hơn xới cơm cho ông. Đến ba tiếng gõ thì lại một bà khác xới... Cứ thế cho hết bữa cỗ. Khi ông gõ lên bốn tiếng cuối cùng vào bát mình thì một người đàn bà còn trẻ đưa bàn tay còn xuân sắc ra... Tôi ấy về em mới dám hỏi mẹ: - Ông gõ đũa thế là thế nào hả mẹ? Mẹ cười rồi tắt nụ cười ngay: - Gia phong của nhà mình đấy. Lớn lên con sẽ hiểu. ông con có bốn bà vợ. Vậy mà các bà cứ tăm tắp theo tiếng gõ đũa của ông không hề tị nạnh, giành giật nhau. Mọi chuyện khác cũng thế. Vì các bà yêu ông mà! Nói rồi mẹ vuốt đầu con gái, như thể nhấn những chuyện lạ lùng ấy vào đầu cho con gái hiểu. Năm nào Thị cũng xăng xái về quê trước Tết dăm hôm. Mang theo lòng nhớ thương và tự hào gia tộc quê hương như cái túi quà nén chặt nơi tay. Mang theo cả độ trải đời và những điều phi lý ở Thị. II Tàu hỏa đến ga tỉnh sau non một giờ như đi du lịch đồng bằng Bắc Bộ. Xuống tàu đi về con đường huyện càng có nét du lịch hơn. Gió biển Bắc thổi lộng. Vải thiều và vườn chuối, vườn cam xanh mươn mướt quanh năm. Đi sâu vào càng có cảm giác hơi ẩm của biển của sông. Đường liên xã có bến đồ, qua mùa lũ lớn năm trước bị sạt đi nay đã lan lấp lại. Các rặng vải thiều càng nhiều. Đã như nghe được tiếng các loại chim đồng và tiếng cá quẫy... Từ bến phà Hệ đến cái xóm Trường Hạ thân yêu của Thị còn phải non chục cây số xe ôm. Đường đất chạy dọc con mương lớn, có cả những mái thuyền nan đây đó. Thị có thói quen cuốc bộ dù mỏi rã rời để ngắm lại con đường tuổi thơ. đã về đến đây chẳng dại gì còn ngồi xe cộ như ở phố xá. Quê Thị có con sông Vân úc đầy phù xa. Con sông và những rặng vải thiều ghi vào trí nhớ Thị sâu nhất. Sóng dờn dợn không nhanh không chậm, không ào ạt như bến Bính, Bạch Đằng... Nó nhởn nhơ thanh cao nhưng đầy nội lực bồi đắp. Những bến sông gợi cảnh bà xưa ra bến sông giặt giũ, nó không lớn không nhỏ, không chuyển dịch bao nhiêu trước biến thiên thời gian. Nó có độ bền vững hiếm có. Thị nở nụ cười mãn nguyện trên gương mặt lúc này đỏ như đàn ông say rượu. Ngọn gió mát lạ lùng. Nghe cả những rợn sóng dồn nhau đến tận bờ xa của con sông Vân úc, chạy đến tận đất An Lão quê ngoại ken dày bóng cau. Trầu cau từ xưa thuộc về quê Thị. Thị thở dốc rồi lại cười mãn nguyện. Lát nữa Thị đi qua cái cầu đá xanh có từ xửa xưa qua mấy hàng cau, rặng nhãn, là đến mảnh vườn rộng như trang trại và ngôi nhà thân yêu. Mẹ Thị tóc bạc phơ sẽ ra hái hai quả bưởi đường ngọt đến tận gan ruột mà chỉ quê Thị mới có. ông bố đang sắp ban thờ, không quên đưa ra ít vải khô mùa trước còn thơm thoảng vị đường mật của trời đất. Cậu em ra ao vườn lùa cá, cô em dâu hạ vào buồng chuối xanh còn lại để nấu nồi canh cá gia truyền. Tiếng reo lên từ cuối vườn rộng của lũ trẻ cùng ông dồn con lợn chó để chuẩn bị xẻ thịt. Như chỉ quê Thị vườn rộng bát ngát mới có thú nuôi con lợn thả rông từ Tết trước. Điều này thì chàng rể ất đi nhiều vùng quê, công nhận chỉ quê Thị mới có. Trẻ con lau nhau mười mất đứa nội ngoại sau khi cùng ông rượt đuổi chú lợn chó, giờ đứng cả ở sân để ăn kẹo bánh bác cả đưa từ phố xá về. Chúng rào rào như cá mặt ao. Vừa ăn quà bánh chúng vừa hứng chí dở “món võ gia tộc” ra với nhau... - Ê, cái Tèo giống hệt bố mày!... - Ê, cái Xoan giống mẹ thì xinh gái. Còn cái Thơm giống bên bố nó thì xấu điên! Cái Xoan vểnh mặt lên, còn cái Tèo, cái Thơm thì khóc rống. Cái Tèo là con cô Thùy, cô út của ông bà, lấy chồng xã trên. Cái Thơm là con cô Thiểu, lấy chồng xã dưới. Tết nào cũng vậy, năm nào cũng vậy, đùa trêu thế nó thành lệ rồi. Tức là chỉ con cháu họ mạc bên Thị là đẹp, còn lai vào họ khác là xấu, khó coi. Loại chuyện này Thị đã kể nhiều lần vào các Tết trước, khiến ất có lúc thấy khó hiểu, đến mức gai người lên.