Chương 1 - 1
Nhu cầu phát triển xứ đàng trong, phục quốc và củng cố quốc gia

Những hành động quyết định
Từ lâu, các chúa Nguyễn đã biết về vùng đất ở Đồng Nai và Cửu Long, nhưng cơ hội  chưa thuận lợi để đẩy mạnh cuộc phát triển về phía Nam. Năm 1623, một phái bộ của chúa Nguyễn đến Oudong yêu cầu được lập cơ sở ở Prei Nokor (vùng Sài Gòn) để thu thuế hàng  hóa.
Năm 1658, khi còn bận rộn giao tranh với chúa Trịnh ở phương Bắc, chúa Hiền cho  quan Khâm mạng đến Trấn Biên dinh (Phú Yên) đem 2000 quân đến Mỗi Xui (Mô Xoài) để  đánh phá, bắt vua Nặc Ông Chân giải về Quảng Bình. Khi ấy ở Mỗi Xui (vùng Bà Rịa ngày nay) và ở Đồng Nai, “đã có lưu dân của nước ta đến sống chung lộn với người Cao Miên khai khẩn ruộng đất. Người Cao Miên khâm phục oai đức của triều đình đem nhượng hết cả đất  ấy rồi đi lánh chỗ khác, không dám tranh trở chuyện gì”.
Năm 1672, tình hình vô cùng thuận lợi cho Hiền Vương, ngài đã thắng chúa Trịnh, lấy  sông Gianh làm ranh giới. Năm 1764, Cao Miên có loạn, thêm lý do để quân chúa Nguyễn  can thiệp, lần này phá luôn được các đồn binh Cao Miên ở Sài Gòn, Gò Bích và Nam Vang  sau khi thắng ở Mô Xoài.
Bảy năm sau, 1679, Trần Thắng Tài và Dương Ngạn Địch đem binh biền và gia quyến hơn 3000 người và chiến thuyền hơn năm chục chiếc đến gần kinh đô.
Hiền Vương cho phép bọn di thần nhà Minh vào Nam. Chi tiết đáng chú ý là đoàn  chiến thuyền này được đưa vào Nam có người hướng dẫn. Đây là cuộc hướng dẫn thần tình,  chứng tỏ thời chúa Nguyễn bản đồ và khung cảnh ở đồng bằng sông Đồng Nai và Cửu Long  được nghiên cứu khá tường tận. Chúa Nguyễn và người hướng dẫn đã đánh giá đúng mức  giá trị chiến lược của vùng Mỹ Tho và vùng Biên Hòa — nơi bọn di thần nhà Minh được phép  đến định cư — sự đánh giá ấy mãi đến sau này vẫn còn là đúng.
Miền Nam vẫn còn hai nơi quan trọng khác ở phía Tây và Tây Nam. Năm 1699,  Nguyễn Hữu Cảnh đem binh lên tận Nam Vang để can thiệp về quân sự. Chuyến về vào  khoảng tháng tư năm canh thìn (1700), ông cho quân sĩ theo dòng Tiền Giang, trú đóng tại  Cái Sao (vùng chợ Thủ của Long Xuyên) “Ba quân bị phát bịnh dịch và ông cũng bị nhiễm  bịnh”. Thời gian trú quân ở đây là hơn nửa tháng, binh kéo đi hai ngày sau là ông mất.  “Ông có công dẹp yên Cao Miên rồi khai thác đất này”. Ai trực tiếp khai thác? Chắc chắn là số binh sĩ bị bịnh, hoặc một số tình nguyện ở lại vùng Cái Sao mà khai thác trước khi đất  đai này được vua Cao Miên nhượng cho. Bấy giờ nhóm này sống cheo leo bên kia sông Tiền.  họ được gọi là dân Hai Huyện, trực thuộc phủ Gia Định từ xưa.
Năm 1705, Nguyễn Cửu Vân thừa lịnh hành quân lên Cao Miên để đánh quân Xiêm,  khi trở về lại cho trú quân ở Vũng Gù (nay là Tân An) lập đồn điền, “làm thủ xướng cho  quân dân”, đắp đồn và đào kinh cho rạch Vũng Gù và rạch Mỹ Tho ăn thông với nhau, nối  liền sông Vàm Cỏ Tây qua Tiền Giang.
Về phía Vịnh Xiêm La, khoảng năm 1680, Mạc Cửu đã lập ấp rải rác từ Vũng Thơm, Trủng Kè, Cần Vọt, Rạch Giá, Cà Mau. Hà Tiên trở thành thương cảng quan trọng, thôn ấp  định cư nằm sát mé biển, thuận tiện cho ghe thuyền tới lui, hoặc ở đất cao theo Giang  thành, sông Cái Lớn, sông Gành Hào, Ông Đốc để canh tác.
Trần Thắng Tài (Đồng Nai), Dương Ngạn Địch (Mỹ Tho), Nguyễn Hữu Cảnh (Tiền  Giang), Nguyễn Cửu Vân (Vàm Cỏ), Mặc Cửu (Hà Tiên) và quân dân đã đi những bước tiên  phong trong thời gian ngắn. Nhóm di thần nhà Minh và dân Việt thật sự làm ruộng và định  cư  nơi đất lạ. Bao nhiêu khó khăn dồn dập xảy tới: cuộc tranh chấp về quân sự với người  Cao Miên, người Xiêm. Mãi đến 134 năm sau (1834), vùng đất mà ông Nguyễn Hữu Cảnh
khai sáng còn gặp chinh chiến với quân Xiêm, mặc dầu cuộc Nam tiến hoàn tất vào năm  1759. Lại còn việc tranh chấp dằng dai với anh em Tây Sơn, khiến việc khẩn hoang bị đình  trệ hoặc hư hại.
Chúa Nguyễn nắm nguyên tắc căn bản là phát triển các đơn vị hành chính liền ranh  nhau. Thoạt tiên dinh Trấn Biên đóng ở vùng Phú Yên. Năm 1698, chưởng cơ Nguyễn Hữu  Cảnh đặt ra Gia Định phủ gồm có:
— Xứ Đồng Nai làm huyện Phước Long, dựng dinh Trấn Biên.
— Xứ Sài Gòn làm huyện Tân Bình, dựng dinh Phiên Trấn;
Rồi lần hồi, vùng Long Hồ nối vào đất Gia Định, vùng Mỹ Tho nối vào Gia Định, vùng  An Giang nối vào Long Hồ (Vĩnh Long). Lúc Hà Tiên quá suy sụp, năm 1805 (đời Gia Long)  dinh Vĩnh Trấn (Vĩnh Long) cai quản từ hữu ngạn Tiền Giang đến Rạch Giá, Cà Mau, tức  Vịnh Xiêm la để rồi năm 1810 trả lại cho trấn Hà Tiên như cũ.
Từ ngàn xưa, dân Việt học được kinh nghiệm về định cư: miền rừng núi bao giờ cũng  bất lợi, ít đất thịt, nhiều sỏi đá, nhứt là bịnh rét rừng (sơn lam chướng khí) nguy hại có thể  gây nạn diệt chủng. Nhà cửa nên cất nơi đồng bằng, nhưng đất phải cao ráo, gần sông rạch  càng tốt, tránh nơi nước đọng ao tù. “Sông sâu nước chảy” là cuộc đất lý tưởng về phong  thủy (tài lợi dồi dào) nhưng trong thực tế là ngừa được bịnh rét, giao thông thuận lợi, có  nước để làm ruộng, có nước để uống, nếu là nơi nước mặn gần biển thì trên giồng cao vẫn  đào giếng được.
Năm 1698, khi Nguyễn Hữu Cảnh đặt hai huyện đầu tiên, tình hình khẩn hoang được  mô tả như sau:
— Đất đai mở rộng 1000 dặm, dân số được hơn 40000 hộ, chiêu mộ lưu dân từ Bố  Chánh châu trở về Nam đến ở khắp nơi, mọi người phân chiếm ruộng đất, chuẩn định thuế đinh điền và lập hộ tịch đinh điền. Từ đó con cháu người Tàu ở nơi Trấn Biên thì lập thành  xã Thanh Hà, ở nơi Phiên Trấn thì lập thành xã Minh Hương, rồi ghép vào sổ hộ tịch.
Nhóm di thần nhà Minh đến ở cù lao Phố và vùng Mỹ Tho gồm 3000 người khi tiên  khởi. Hai mươi năm sau, con cái của họ lớn lần. Một số người Trung Hoa khác lần hồi đến  làm ăn buôn bán, rồi định cư luôn.
Ta thấy còn lại trên ba chục ngàn gia đình Việt Nam  gồm có:
— Những người lập nghiệp từ trước ở Mô Xoài (Bà Rịa).
— Những người từ Bố Chánh (Quảng Bình) trở vào đến lập nghiệp. Số người này sống  rải rác từ Bà Rịa đến cù lao Phố (Biên Hòa), vùng Sài Gòn, Mỹ Tho. Địa danh Trấn Biên  bao gồm một vùng rộng rãi từ ranh Bình Thuận đến tận Nhà Bè. Phiên Trấn bao gồm Tân  Bình đến phía Cần Giuộc, Cần Đước, Tân An. Phủ Gia Định thuở ấy ăn đến tận vùng Cái  Bè (tả ngạn Tiền Giang) sau này là châu Định Viễn. Đây là những lưu dân. Nhưng nên chú  ý số người “có vật lực” từ miền Trung đến. Không vốn liếng thì không làm ruộng được, người  có chút ít vốn nếu chịu mang vào “đất mới” sẽ dễ trở thành điền chủ, phú hào.
Lỵ sở thường đặt ở những nơi quan trọng, dân đông, kinh tế dồi dào, thuận lợi cho việc  thương mãi và là vị trí có giá trị chiến lược quân sự. ở lưu vực sông Đồng Nai và Cửu Long,  dân ta thiết lập được:
Vùng cù lao Phố: nòng cốt của Biên Hòa
Đây là vị trí xứng danh ải địa đầu (Trấn Biên) với đường bộ đường thủy nối liền về  miền Trung, đường bộ lên Cao Miên và đường thủy ăn xuống Sài Gòn. Nhóm dân Trung  Hoa theo chân Trần Thắng Tài gây cơ sở lớn ở cù lao Phố, chọn vị trí thuận lợi, sát mé sông. Năm năm sau khi định cư, chùa Quan Đế dựng lên.
Trần Thắng Tài chiêu nạp được người buôn nước Tàu, xây dựng đường phố, lầu quá đôi  từng rực rỡ trên bờ sông, liên lạc năm dặm và phân hoạch ra ba nhai lộ, nhai lớn giữa phố
Lịch Sử Khẩn Hoang Miền Nam — Trang 6/6
lát đá trắng, nhai ngang lát đá ong, nhai nhỏ lát đá xanh, đường rộng, bằng phẳng, người  buôn tụ tập đông đúc, tàu biển, ghe sông đến đậu chen lấn nhau, còn những nhà buôn to ở  đây thì nhiều hơn hết, lập thành một đại đô hội.
“Đại Phố” bấy giờ là đệ nhứt thương cảng ở miền Nam, phồn thịnh nhờ lý do sau đây:
— Việc thương mãi tổ chức khéo léo, Trần Thượng Xuyên chiêu tập người buôn nước  Tàu đến kiến thiết, đây là bọn thương buôn chuyên nghiệp, có vốn to và giàu kinh nghiệm,  đến sau chớ không phải là người đi theo Trần Thượng Xuyên trong đợt tiên phong (số người  đi đầu gồm đa số là quân sĩ, tức là nông dân nghèo, không vốn).
— Sông sâu có chỗ thuận lợi cho tàu biển đậu (đây là vực sâu gần đền thờ ông Nguyễn  Hữu Cảnh).
— Việc tồn trữ và phân phối hàng hóa được điều hành hợp lý. Nhà lầu, phố xá bên các  nhai lộ lát đá là kho hàng và cũng là nơi nghỉ giải trí của chủ tàu và thủy thủ. Tàu chạy  buồm gặp gió thuận thì mới đến hoặc đi được. “Xưa nay thuyền buôn đến hạ neo xong là lên  bờ thuê phố ở, rồi đến nhà chủ mua hàng, lại đấy kê khai những hàng hóa trong thuyền và khuân cất lên, thương lượng giá cả, chủ mua hàng định giá mua bao tất cả hàng hóa tốt xấu  không bỏ sót lại thứ gì. Đến ngày trương buồm trở về gọi là “hồi đường”, chủ thuyền có yêu  cầu mua giúp vật gì thì người chủ buôn ấy cũng chiếu y ước đơn mua dùm chở đến trước kỳ  giao hẹn, hai bên chủ khách chiếu tính hóa đơn thanh toán rồi cùng nhau đờn ca vui chơi, đã được nước ngọt tắm rửa sạch sẽ lại không lo sự trùng hà ăn lủng ván thuyền, khi về lại  chở đầy thứ hàng khác rất là thuận lợi”.
Chưa thấy tài liệu cụ thể về các sản phẩm mua bán lúc ấy, nhưng ta đoán là thương  gia Huê kièu nắm độc quyền về xuất nhập cảng từ khi bắt đầu khẩn hoang, ngoài những  sản phẩm đất Đồng Nai như gạo, cá khô, còn một số sản phẩm từ Cao Miên đem xuống: các  loại thảo dược, ngà voi. Sản phẩm nhập cảng gồm tơ lụa, vải bô, dược phẩm cho đến những  xa xí phẩm. Người Tàu thích dùng đồ bên Tàu: gạch ngói, đá xây cột chùa, nhang đèn, giấy  tiền vàng bạc. Họ cưới vợ Việt Nam, bày ra những thói ăn xài, phung phí vào dịp Tết.
Những địa điểm định cư lúc ban đầu là vùng Bà Rịa, Đồng Môn, Long Khánh, Tân  Uyên, những cánh đồng ở hai bên bờ sông Đồng Nai gần cù lao Phố. Đất Trấn Biên lúc bấy  giờ ăn đến Thủ Đức, Giồng Ông Tố, vùng Thủ Thiêm, Nhà Bè; phía Tây thì ăn qua vùng Thủ Dầu Một, Lái Thiêu.
Vùng Bến Nghé Sài Gòn: nòng cốt của Gia Định
Đây là vùng đất giồng ở sông Sài Gòn, rạch Thị Nghè lên Hốc Môn, Gò Vấp; vùng Chợ  Lớn ngày nay ăn xuống Bình Điền, Bình Chánh; Gò Đen, nối liền đến Cần Đước, Cần Giuộc,  những giồng thuận lợi để làm ruộng và làm rẩy. Nếu vùng cù lao Phố được ưu thế là có nước  ngọt quanh năm, thì vùng Sài Gòn lại bị ảnh hưởng nước mặn từ biển tràn vào, giồng cao  ráo, đào giếng có thể gặp mạch nước ngọt, phần còn lại là đất quá thấp.
Vùng Sài Gòn là Prei Nokor (chùa Cây Mai được gọi là Vat Prei Nokor) nằm trên  giồng, phía Chợ Lớn ngày nay. Năm 1739, đồn Dinh đóng ở thôn Tân Mỹ, có tài liệu ghi là Tân Thuận, phải chăng vì quân sĩ muốn ở gần bờ sông lớn (gần Nhà Bè) để dễ di chuyển và  kiểm soát an ninh? Thoạt tiên từ cù lao Phố đến Bến Nghé — Sài Gòn chỉ dùng đường thủy,  chợ Nhà Bè thành hình, ứng dụng vào nhu cầu như một chợ nổi ở giữa ngã ba. Hanh Thông  xã (Gò Vấp) trở thành đơn vị hành chánh từ năm 1698, Phú Thọ năm 1747, Tân Sơn Nhứt năm 1749. Ngay từ năm 1698, người Hoa kiều lập xã Minh Hương ở vùng Sài Gòn, nơi đây  họ cũng nắm việc thương mãi. Năm 1770, sử chép chuyện ông Tăng Ñn đánh cọp tại chợ  Tân Kiểng (Tân Cảnh), năm 1774 chùa Giác Lâm dựng lên, trên gò đất cao ráo (do người  Minh Hương là Lý Thụy Long quyên tiền), chùa Kim Chương lập năm 1775. Phú Lâm, vùng Bình Điền là đất giồng. Nhưng nơi thuận tiện cho việc canh tác phải kể là vùng Cần Giuộc, Cần Đước. “Gạo Cần Đước nước Đồng Nai” nổi danh là ngon và trong mát. Vùng ven biển  Nam kỳ (trừ ra rừng Sác — Cần Giờ và rừng Đước mũi Cà Mau) còn nhiều đất rất tốt. Bên  kia Cần Đước là Gò Công với nhiều giồng và đất phù sa ở bờ Cửa Đại, Ba Lai (trở thành vựa  lúa quan trọng đời Gia Long).
Đất đã tốt lại ở ven biển, lưu dân có thể đi ghe bầu từ miền Trung vào vàm mà lập  nghiệp, ngoài huê lợi ruộng nương còn huê lợi cá tôm. Đánh lưới ngoài biển vốn là sở trường  của dân Việt. Làm ruộng ở những nơi xa lỵ sở thì dễ trốn thuế, tha hồ chọn lựa đất tốt. Nhờ  đường biển, việc liên lạc về quê xứ miền Trung được thuận lợi.
Trấn Biên và Phiên Trấn khi mới khẩn hoang tuy đất không tốt bằng phía Cửu Long  nhưng vẫn là phì nhiêu so với vùng Bình Thuận. Vì ở gần lỵ sở, gần thương cảng nên lúa gạo bán có giá. Về mặt an ninh vì xa sông Tiền sông Hậu nên khỏi sợ nạn chinh chiến khi  chúa Nguyễn và Xiêm La gây hấn.
Vùng Ba Giồng: nòng cốt của Định Tường
Sông Cửu Long khác hơn sông Đồng Nai và sông Vàm Cỏ. Hằng năm, Cửu Long có nơi  nước lụt tràn bờ. Đất giồng ven bờ sông, đất cù lao ở Cửu Long khác hơn mấy gò ở gần Đồng  Nai. Vùng Cửu Long đất thấp, đào xuống vài lớp xuổng là gặp nước, việc trồng cây ăn trái lại dễ dàng, khỏi tưới. Múc nước giếng, hay gánh nước từ mé rạch lên nhà, lên rẫy lại ít tốn  công. Bờ Cửu Long thường có bãi bùn, bồi đắp nhanh chóng, đất cù lao lan ra trong vài năm là thấy cuộc biển dâu. Việc vận tải, giao thông dùng ghe xuồng thay vì dùng xe bò hoặc đi  bộ, khiêng gánh. Kỹ thuật cày bừa cùng là ngày tháng cấy hái phải thay đổi cho thích ứng  với hoàn cảnh mới.
Dương Ngạn Địch “đem binh lính ghe thuyền chạy vào cửa Soi Rạp và Đại Tiểu hải  khẩu rồi lên đồn trú ở xứ Mỹ Tho”. Đây là cuộc định cư có sắp đặt, “xá sai Văn Trinh và tướng thần lại Văn Chiêu đưa dụ văn sang Cao Miên bảo Thu Vương chia đất để cho bọn  Dương Ngạn Địch ở. Tháng 5, Văn Trinh dẫn cả binh biền Long Môn và đưa ghe thuyền đến  đóng dinh trại ở địa phương Mỹ Tho rồi dựng nhà cửa, tụ tập người Kinh, người Thượng  (người Miên) kết thành chòm xóm”, “sau này mới lập dinh trấn, đều là tùy thời dời đổi, hoặc  hướng Nam, hoặc hướng Bắc, hoặc đem tới, hoặc rút lui cũng chẳng ngoài địa cuộc ấy”.
Trên 1000 binh sĩ của Dương Ngạn Địch làm ăn tại đâu?
Họ không rời khỏi “địa cuộc” tốt chọn lựa lúc ban đầu như tài liệu trên cho biết. Chúng  ta có thể xác nhận là giồng Cai Yến ăn đến vùng Ba Giồng, khởi đầu là Tân Hiệp (nay còn  gọi là giồng Trấn Định) đến Thuộc Nhiêu, Cai Lậy, giữa Tiền giang và Đồng Tháp Mười.
Lúc mới khẩn hoang, hai lỵ sở chính là Biên Hòa và Phiên An ở gần nhau phía Đồng  Nai. Các quan thì muốn cho dân chúng phân tán ra chiếm cứ đất phía Tây Nam nên đặt  quy chế rộng rãi, không câu thúc. Về nguyên tắc, người khẩn hoang ở Vũng Gù (Tân An,  sông Vàm Cỏ) hoặc Mỹ Tho, đều là dân của hai huyện Phước Long và Tân Bình. Để khỏi  chuyên chở đường xa khi đóng thuế bằng lúa và bằng tiền mặt, họ có thể nạp tại các kho  thuế ở địa phương, vừa thuận lợi cho dân, cho các quan cũng khỏi lo sợ nạn thất thâu. Một  số người làm nghề rừng, nghề biển hưởng quy chế riêng khỏi lập thôn ấp, chỉ cần đôi người  thay mặt đứng ra chịu trách nhiệm để kết họp thành trang trại, man, thuộc, nậu. Họ sống  định cư hoặc lưu động, với người cai trại hoặc người bộ trưởng, người đầu nậu cầm đầu.
Chín kho thâu thuế (cửu khố trường) dành cho các trại, các nậu, mang tên sau đây  (đặt ra từ năm 1741):
— Quy An
— Quy Hóa
— Cảnh Dương
— Thiên Mụ
— Gian Thảo
— Hoàng Lạp
— Tam Lịch
— Bả Canh
— Tân Thạnh
Ba kho Tân Thạnh, Cảnh Dương, Thiên Mụ, làm chỗ cho dinh Trấn Biên trưng thâu tô  thuế để nạp tải về Kinh, đều ở phía bắc Hậu giang tức là sông Cát, phía đông cù lao Phố.
Kho Tam Lạch (Tam Lịch) ở vùng Mỹ Tho (theo cha Jean de Jésus thì Tam Lạch là nơi  mà quân Đông Sơn khởi sự xưng danh tánh), ta hiểu là vùng Ba Giồng.
Kho Bả Canh ở vùng Cao Lãnh ngày nay.
Kho Gian Thảo ở cách phía nam thành Gia Định 4 dặm rưỡi, sau sửa lại gọi là kho Bốn  Trấn.
Kho Hoàng Lạp ở huyện Phước Long (Biên Hòa). Phải chăng kho này dùng để thâu  sáp ong và lâm sản do thợ rừng phía biên giới Việt Miên đóng góp?
Kho Quy An và Quy Hóa ở đâu? Có nên suy luận là vùng An Hóa ở cửa Đại ngày nay,  lấy hai tiếng sau chót nhập lại? Nguyễn Khoa Thuyên ghi rằng ở Quy An có hơn 100 thôn,  tên Quy An được nhắc tới theo thứ tự sau Tam Lạch và Tân Bình. Bả Canh được Nguyễn  Khoa Thuyên ghi lại như là một trại, cùng với hai trại khác là Ba Lai và Rạch Kiến.
Trên bản đồ, ta thấy có đến 4 kho tập trung ở cù lao Phố và Bến Nghé để thuận đường  chở chuyên về kinh đô Huế và các tỉnh miền Trung khi chúa Nguyễn còn nắm chủ quyền.  Mấy kho kia ở Ba Giồng (Tam Lạch), Cao Lãnh (Bả Canh), Qui An có lẽ gần một vàm sông  nhánh của Cửu Long, hoặc Ba Lai, hoặc cửa Đại.
Đời vua Hiển Tôn (1691—1725), lập phủ trị ở phía bắc chợ. Năm 1772 lập Trường Đồn  đạo, năm 1779, lấy phần đất nằm giữa trấn Biên, Phiên trấn và Long Hồ đặt làm Trường  Đồn dinh có Lưu thủ, Ký lục và Cai bộ coi việc quân sự, hành chánh, thuế vụ và bãi bỏ các  kho trên. Trường Đồn dinh đóng ở giồng Cai Yến (giồng này bắt đầu từ vùng Khánh Hậu  thuộc Tân An ngày nay), rồi lại đổi tên là Trấn Định, đóng ở Tân Hiệp. Hai tiếng Định  Tường chỉ xuất hiện từ năm Gia Long thứ 7 (1808).
Vùng Long Hồ: nòng cốt của Vĩnh Long, An Giang
Kiểm soát sông Tiền, sông Hậu là vấn đề mà các chúa Nguyễn quan tâm nhứt, về mặt  quân sự và về canh tác. Muốn dùng binh lên Cao miên, phải cho chiến thuyền đi ngược dòng  Tiền giang để đến Ba Nam rồi Nam Vang. Tiền giang là sông nhiều nhánh, gần vàm biển  mỗi nhánh khá rộng với bờ đất phù sa cao ráo, thuận lợi để trồng đậu, trồng khoai, đặc biệt  là trồng dâu nuôi tằm, trồng cau, trồng trầu, trồng dừa, các loại cây ăn trái. Đất còn lại là ruộng tốt. Đây là cuộc đất lý tưởng “sông sâu nước chảy”. Thoạt tiên, hai tiếng Long Hồ  phát xuất từ tả ngạn Tiền giang. Năm 1732 chúa Nguyễn sai quan khổn súy Gia Định chia phần đất của Gia Định (sau này là của Định Tường) lập châu Định Viễn, dựng dinh Long  Hồ tại Cái Bè, gọi là Cái Bè dinh.
Năm 1756 và 1757, cuộc Nam tiến hoàn tất về mặt chính trị. Trước mặt dinh Cái Bè —  ở vàm rạch Cái Bè phì nhiêu, bên cạnh rạch Cái Thia nhiều phù sa — là những cù lao lớn  giữa các sông Ba Lai, Hàm Luông và Cổ Chiên, chưa kể đến mấy cù lao tuy nhỏ nhưng quan trọng ở giữa Tiền giang. Bên kia Tiền giang là nơi tập trung nhiều sốc Miên, vùng Trà Vinh.  Có thể là trước khi sáp nhập vào lãnh thổ Việt Nam, lưu dân đã đến làm ăn rải rác nhưng  cuộc khẩn hoang được xúc tiến quy mô hơn từ khi trở thành lãnh thổ Việt Nam, danh chánh  ngôn thuận. Hai địa danh cù lao Bảo, cù lao Minh xuất hiện sau này, xứng danh là trái châu của Cửu Long.
Phía cù lao Bảo có tám giồng, phía cù lao Minh có 11 giồng. Đặc điểm của những giồng  này là chịu ảnh hưởng nước lớn nước ròng do thủy triều, nhưng không bao giờ bị ngập vào  mùa lụt của sông Cửu Long.
Nguyễn Cư Trinh và Trương Phúc Du xin dời dinh Long Hồ từ Cái Bè qua đất Tầm  Bào, tức là vùng chợ Vĩnh Long ngày nay, đồng thời đặt những đồn ở Tây Ninh, Hồng Ngự,  cù lao Giêng, Sa Đéc, Châu Đốc.
Dinh Long Hồ kiểm soát Tiền giang và hai bên bờ Hậu giang. Đồng thời dinh này cũng  bao trùm luôn vùng biên Vịnh Xiêm La với Long Xuyên đạo (Cà Mau), Kiên Giang đạo  (Rạch Giá). Riêng về vùng Ba Thắc (Sóc Trăng) nơi người Miên sống quá tập trung thì việc cai trị vẫn thuộc về họ.
Dụng ý của chúa Nguyễn là dùng nơi này để khống chế Cao Miên. Sông Cửu Long là biên giới Việt Nam ở miền ba biên giới.
Năm 1779, chúa Nguyễn duyệt xem bản đồ, nâng vùng Mỹ Tho làm dinh (Tường Đồn  dinh) đồng thời cũng thử bày một chuyến phiêu lưu: dời dinh Long Hồ đến cù lao Hoằng  Trấn, ở giữa Hậu giang. “Đương thời có người bàn rằng địa thế Hậu giang rộng lớn, rừng  núi mù mịt, vùng Ba Thắc, Cần Thơ, Trà Vinh có nhiều sốc của Cao Miên mà cách xa dinh  Long Hồ, nên đặt một đai trấn để khống chế, mộ dân đến khai khẩn ruộng đất”. Dinh Long  Hồ dời đến Hoằng Trấn năm trước là năm sau (1780) lại lui về chỗ cũ (tức là vùng chợ Vĩnh  Long), đổi tên là Vĩnh Trấn dinh.
Kinh nghiệm cho thấy rằng con đường từ Hậu giang lên Cao Miên quá xa, không  thuận bằng đường Tiền giang, phía Vĩnh Long. Cù lao Hoằng Trấn ở Hậu giang được khai  thác sớm, còn mang tên là cù lao Tân Dinh, gợi lại hình ảnh của dinh Long Hồ ngày trước.  Giữa Tiền giang và Hậu giang, có s≥n nhiều sông rạch lớn nhỏ liền lạc nhau lại còn nhiều  giồng đất tốt, quanh năm nước ngọt, mùa nước lụt không ngập (vùng Sa Đéc). Những cù lao  trên sông Tiền, sông Hậu đều đáng giá, nhiều cù lao vừa rộng vừa dài, đất biền chung  quanh cù lao rất màu mỡ, năng xuất cao: cù lao Dung, cù lao Trâu, cù lao Dài, cù lao  Giêng, cù lao Mây, cồn Bình Thủy, cù lao Năng Gù. So với sông Vũng Gù (Vàm Cỏ Tây) luôn  cả sông Đồng Nai thì Tiền giang và Hậu giang đất tốt hơn, khí hậu khá lành. Dân cư còn  thưa thớt, đòi hỏi nhiều đợt lưu dân đến khai thác. Duy có điều bất lợi là xa Gia Định, người  Miên sống tập trung tại nhiều vùng lớn rộng có thể khuấy rối an ninh ; vùng Thất Sơn chưa  thám hiểm được, lại còn cánh đồng bát ngát (Rạch Giá, Cần Thơ) nằm giữa hữu ngạn Hậu  giang và vịnh Xiêm la. Nước Xiêm đang hồi hăng sức, có thể đột nhập miền biên giới — một  biên giới chưa rõ rệt, khó định cư vì nước ngập quá sâu, không thích hợp với lối cày cấy  đương thời (đồng Châu Đốc, Láng Linh, Tháp Mười).
Những chuyến đi về “tẩu quốc và phục quốc” của vua Gia Long được thực hiện dễ dàng là nhờ ngài am hiểu địa thế của vùng đất rộng ấy hơn quân Tây Sơn. Nào là sông Mân Thít  nối ngang Ba Kè tới vùng Trà Ôn, nơi nhiều người Miên sống tập trung. Nào vùng Nước  Xoáy tấn thối dễ dàng, lại còn vùng Cần Thơ với rạch Cần Thơ ăn thông qua sông Cái Bè rồi sông Cái Lớn với vùng U Minh. Sông Gành Hào, sông Ông Đốc ở tận mũi Cà Mau. Thời  thạnh trị của họ Mạc quá phù du vì không đủ dân và không đủ quân để kiểm soát một vùng  Hậu giang quá rộng mà trên danh nghĩa thì họ Mạc được chúa Nguyễn giao cho cai quản.
Sơ kết thành quả:
Thương cảng Sài Gòn thành hình và phát triển
Người Hoa kiều nắm nội và ngoại thương ngay từ buổi đầu, họ lại có thế lực quân sự. ở  cù lao Phố, Trần Thắng Tài sống thuận hòa với chúa Nguyễn, năm 1700, ông cùng quân sĩ tùy tùng tham gia trận đánh quyết định, chiến thắng tại Nam Vang. Con Trần Thắng Tài là Trần Đại Định cưới con gái Mạc Cửu, tức là em gái của Mạc Thiên Tứ (vợ Mạc Cửu là người Việt Nam, quê ở Đồng Môn, thuộc Biên Hòa), về sau Trần Đại Định vì bị hiểu lầm nên buồn  tủi, chết trong ngục. Dương Ngạn Địch chết vì phó tướng là Hoàng Tấn làm phản, Hoàng  Tấn lại bị quân sĩ Việt Nam trừng trị. Họ Mạc ở Hà Tiên được chúa Nguyễn cho hưởng quy  chế tự trị. Dòng họ này trung thành với chúa Nguyễn nhưng lại bị Xiêm Vương là Phi Nhã Tân quấy rối (ông vua Xiêm này gốc người Triều Châu). Một viên tướng Triều Châu tên là Trần Liên đã đem binh qua đốt phá Hà Tiên, quyết sanh tử với Mạc Thiên Tử. Hai tên cướp  Triều Châu khác là Hoắc Nhiên và Trần Thái cũng gây khá nhiều rắc rối cho họ Mạc ở Hà  Tiên.
Có người cho rằng người Trung Hoa hải ngoài thường tự tôn, ôm ấp giấc mơ làm bá  chủ một cõi. Nếu có thật vậy, thì những giấc mơ ấy không bao giờ thực hiện được ở đất Đồng  Nai, ít ra là về mặt chánh trị và quân sự. Chỉ một lần hồi năm 1747 khi có thương gia người  Phước Kiến là Lý Văn Quang đến cư ngụ tại cù lao Phố, nhân thấy việc phòng bị lơ là nên  cấu kết với hơn 300 bè đảng, xưng là đại vương. Cuộc khởi loạn bị dập tắt, Lý Văn Quang và  đồng bọn bị áp giải về Phước Kiến (bấy giờ, ta ngại rắc rối về ngoại giao với nhà Thanh).
Năm 1772, chúa Nguyễn suy yếu, Trương Phúc Loan lộng quyền nhưng quân sĩ Đàng Trong vẫn còn mạnh, 10000 quân ở dinh Bình Khương, Bình Thuận cùng 300 chiến thuyền  hợp với quân ở dinh Long Hồ kéo lên Cao Miên đánh thắng một trận lớn để cứu vãn tình thế nguy ngập ở Hà Tiên, cứu Mạc Thiên Tứ khi quân Xiêm chiếm cứ thành này ;
Tình thế ở Đàng Trong trở nên bi đát khi anh em Tây Sơn khởi nghĩa. Tháng hai năm  1776, Nguyễn Lữ léo vào đất Gia Định. Tháng năm năm ấy, Nguyễn Lữ rút lui sau khi cướp  lấy lúa kho, chở hơn 200 thuyền chạy về Quy Nhơn. Con số này giúp chúng ta thấy phần  nào thành quả của việc khẩn hoang ở Đồng Nai và Cửu Long.
Một viên cai bộ ở phủ Gia Định là Hiến đức hầu Nguyễn Khoa Thuyên báo cáo lại  những con số cụ thể về lực lượng quân sự và tình hình chánh trị, kinh tế. Sau đây là vài chi  tiết về xứ Đồng Nai:
— Huyện Phước Long (vùng Trấn Biên) có hơn 200 thôn, dân số 8000 người, lệ thuế ruộng hơn 2000 hộc.
Các thuộc Cảnh Dương, Thiên Mụ, Hoàng Lạp có phỏng 40 thôn nậu, dân số 1000  người phải nạp thuế.
Thuộc Ô Tất gồm phỏng 30 nậu, dân số ước 500.
— Huyện Tân Bình có hơn 350 thôn, số dân hơn 15000 dinh, thuế ruộng hơn 3000 hộc.
Quy An có hơn 100 thôn, số dân 3000 đinh, ruộng hơn 5000 thửa.
Tam Lạch có hơn 100 thôn, số dân 4000 đinh, ruộng hơn 5000 thửa.
Các trại Bả Canh, Ba Lai, Rạch Kiến, có 100 thôn, dân 4000 đinh, ruộng hơn 4000  thửa.
— Châu Định Viễn có lối 350 thôn, dân 7000 đinh, ruộng 7000 thửa.
Nhìn con số trên, ta thấy Cửu Khố (còn gọi 9 trường biệt nạp), dành cho vùng đất ở xa  Trấn Biên và Phiên Trấn (sau này là Trấn Định, trở thành Mỹ Tho), gồm các thuộc:
Cảnh Dương, Thiên Mụ, Hoàng Lạp, Ô Tất (đóng thuế về Phước Long).
Tam Lạch, Quy An, Bả Canh, Ba Lai, Rạch Kiến (đóng thuế về huyện Tân Bình, vùng  Sài Gòn).
Tài liệu của Nguyễn Khoa Thuyên cũng nêu rõ quân số, các nơi trú quân của chúa Nguyễn. Nhiều thủ ngự đặt ở Tiền giang và Hậu giang gần vàm rạch mà ta tin rằng ở vùng  phụ cận có thôn xóm khá sung túc: vàm Ông Chưởng, Tân Châu, chợ Thủ, Sa Đéc, Vũng  Liêm, Láng Thé, Lấp Vò, Trà Ôn, Cần Chung (Cần Chong nay là Tiểu Cần), cù lao Tân  Dinh, Bắc Trăng (thuộc Trà Vinh).
Thành tích này khá lớn lao: những vùng đất phù sa ven sông rạch, những cù lao  thuận lợi cho việc canh tác cổ truyền (ruộng cày, mỗi năm một mùa gặt) đều có người chú ý đến, không bỏ sót. Đồng bằng Cửu Long hơn đồng bằng Đồng Nai rõ rệt về mặt canh tác, sản xuất lúa gạo, với nhiều triển vọng tươi sáng hơn.
Trước 1776, thương cảng lớn nhất của miền Nam là cù lao Phố.
Năm 1776 và 1777 quân Tây Sơn tràn vào Gia Định, đánh cù lao Phố “chiếm dỡ lấy  phòng ốc, gạch đá, tài vật chở về Quy Nhơn”.
Nông Nại Đại Phố tức là thương cảng cù lao Phố suy sụp luôn, thương gia Hoa kiều  bèn kéo nhau xuống vùng Chợ Lớn ngày nay để lập chợ Sài Gòn, sát với chợ Tân Kiểng  thành hình từ trước 1770.
Thương cảng Sài Gòn (nên hiểu là Chợ Lớn ngày nay) thành hình và phát triển nhanh  từ năm 1778. “Từ khi Tây Sơn nổi lên, quan quân hội cả ở trấn Phiên An, thuyền buôn cũng  dời đậu ở sông Tân Bình (sông Sài Gòn)”. Nhưng 4 năm sau, năm 1782, Nguyễn Nhạc tới 18  thôn Vườn Trầu, bị phục kích thua thảm bại, hộ giá Ngạn của Tây Sơn tử trận. Nhạc nhận  ra bọn phục kích là đạo binh Hòa Nghĩa gồm nhiều người Tàu theo giúp Nguyễn ánh. “Nhạc  bèn giận lây, phàm người Tàu không kể mới cũ đều giết cả hơn 10000 người. Từ Bến Nghé  đến sông Sài Gòn, tử thi quăng bỏ xuống sông làm nước không chảy được nữa. Cách 2, 3  tháng người ta không dám ăn cá tôm dưới sông. Còn như sô, lụa, chè, thuốc, hương, giấy,  nhất thiết các đồ Tàu mà nhà ai đã dùng cũng đều đem quăng xuống sông, chẳng ai dám  lấy. Qua năm sau, thứ trà xấu một cân giá bán lên đến 8 quan, 1 cây kim bán 1 quan tiền,  còn các loại vật khác cũng đều cao giá, nhân dân cực kỳ khổ sở”.
Ngoài việc trả thù riêng người Tàu, Nguyễn Nhạc còn có dụng tâm tiêu diệt đầu não  kinh tế của miền Nam, nơi chúa Nguyễn nắm được nhân tâm từ lâu.
Suốt thời gian tẩu quốc và phục quốc, Sài Gòn được xem là kinh đô của Nguyễn ánh  (1779—1801).
Sài Gòn được ưu thế là gần vùng Mỹ Tho và Long Hồ. Việc chuyên chở lúa gạo và sản  phẩm từ Tiền giang tuy khó khăn nhưng lúc bấy giờ kinh rạch vẫn tương đối thuận lợi cho  loại ghe có sức trọng tải nhẹ. Nhìn trên bản đồ, ta thấy sông rạch chằng chịt ; vào mùa mưa  nước sông tràn đầy, nhưng mùa nắng thì nhiều khúc không lưu thông được, hoặc lưu thông  khó khăn phải sang qua ghe nhỏ, kéo bằng sức người hoặc sức trâu, sông rạch lại quanh co,  không đủ nhân công để vét. Công trình đào kinh khởi đầu với sáng kiến của Nguyễn Cửu  Vân để cố gắng nối liền sông Vũ Gù (Vàm Cỏ Tây) qua sông Mỹ Tho tức là Vàm Cỏ Tây qua  Tiền giang, sau lại đào sâu thêm. Tuy nhiên, vì có giáp nước khiến phù sa hai đầu dồn vào  nên bị cạn, thuyền to phải chờ khi nước lớn mới qua lại được. Đã có tạm đường thông thương  từ Mỹ Tho qua Vũng Gù. Vũng Gù thông qua Vàm Cỏ Đông đến Bến Lức, theo đường nước  đến Ba Cụm rồi theo sông Bình Điền đến Chợ Lớn. Năm 1772, Nguyễn Cửu Đàm (con của  Nguyễn Cửu Vân) đào kinh Ruột Ngựa, nối liền Rạch Cát đến kinh Lò Gốm mà trước kia  ghe thuyền không qua lại được, chỉ có “một đường nước đọng móng trâu”. Phía Gò Công,  Cần Giuộc cũng có đường thủy lên Rạch Cát. Phía Hậu giang, khi tranh chấp bằng quân sự với Tây Sơn, Nguyễn ánh vẫn tấn thối theo đường sông từ Sài Gòn Gia Định đến tận Sa Đéc, Cần Thơ, Cà Mau, Rạch Giá.
Dời đến Sài Gòn thì thể thức phân phối và tích trữ hàng hóa không được thuận lợi như lúc ở cù lao Phố: “Khi thuyền cặp bến, không có chủ lớn bao trữ nên phải gánh đến các chợ  bán lẻ linh tinh, kịp khi muốn mua thổ hóa đem về, thì đi tìm đông hỏi tây rất nhọc sức. Lại  có bọn thổ côn giả dạng làm người giàu có nói dối, mua xong rồi tìm nơi trốn tránh, nếu mất  số vốn một ít thì còn gắng chịu mà về, thảng hoặc mất vốn quá nhiều thì phải cầm ghe lấy  tiền ở đến mùa đông để truy tầm bọn ấy, làm cho kẻ viễn thương ngày càng cực khổ”.
Tệ đoan xảy ra vì địa bàn hoạt động của Sài Gòn rộng hơn cù lao Phố, nhưng chỉ là lúc  giao thời. Về sau, cũng chính thương gia Huê kiều đứng ra tổ chức hệ thống mua bán hoàn hảo hơn.
ở vàm Hậu giang, từ lâu người Miên sống tập trung tại vùng Ba Thắc (Sóc Trăng) trên  đất giồng cao ráo, làm ruộng khéo léo, gạo nổi tiếng là ngon. Thay vì chở lên Sài Gòn,  thương gia địa phương đứng ra chịu mối với các ghe buôn từ nước ngoài đến. Một thương  cảng thành hình từ xưa, phỏng đoán là ở vùng Bãi Xàu (Mỹ Xuyên ngày nay) nơi sông Ba Xuyên ăn thông ra Hậu giang. Theo nhựt ký của cố đạo Levavasseur vào năm 1768, thì thương cảng này mang tên là Bassac thành lập ở mé sông, nơi đất thấp với nhà lợp lá. ở đây  dùng tiền quan (quan 600 đồng của Việt Nam) ; một đồng bạc Con ó trị giá 5 quan tức là 3000 đồng. Chợ bán gạo, nhiều loại trái cây, rau, gà vịt, heo. Phải chờ nước lớn ghe thuyền  mới vào được. Thuyền chủ toàn là Trung Hoa, dân ở chợ đa số là người Trung Hoa, quan cai trị là người Cao Miên. Thuyền buôn đều của người Trung Hoa, đậu san sát từ 100 đến 150  chiếc để mua gạo và mua đường. Không hiểu họ đem tới đây bán những món gì.
Nên nhắc đến thương cảng Hà Tiên mà các thương gia ngoại quốc thường đề cập tới, được phồn thịnh một thời nhờ xuất cảng sản phẩm của Cao Miên phần lớn, khi Mạc Cửu và Mạc Thiên Tử còn hưng thời.
Việc tổng động viên năm 1789
Cuộc tranh chấp bằng võ lực giữa Tây Sơn và Nguyễn ánh làm nguy hại cho nông  nghiệp. Nói chung thì quân Tây Sơn không thâu phục được nhân tâm, trừ một trường hợp là  cuộc chiến thắng quân Xiêm ở rạch Gầm, Xoài Hột vào năm 1874. Quân Xiêm do hai tướng  Chiêu Tăng và Chiêu Sương với lực lượng hùng hậu kéo đến nhưng Trịnh Hoài Đức, người  viết sử thiên vị rõ rệt về phe Nguyễn ánh cũng đã thú nhận: “Binh Tiêm đến đâu đều cướp  bóc khó bề hạn chế nên vua (Nguyễn ánh) lấy làm lo. Đã vậy mà binh Tiêm lại kiêu hãnh,  lòng dân bất phục”. ở trấn Vĩnh Thanh, trong lúc Tây Sơn vào chiếm cứ thì dân chúng “đều  chôn cất của cải không dám phơi bày ra, cho nên bọn cường đạo không cướp lấy được vật gì”.  “Chợ phố lớn Mỹ Tho, nhà ngói cột chàm, đình cao chùa rộng, ghe thuyền ở các ngả sông  biển đến đậu đông đúc làm một đại đô hội rất phồn hoa huyên náo. Từ khi Tây Sơn chiếm  cứ, đổi làm chiến trường, đốt phá gần hết, từ năm 1788 trở lại đây, người ta lần trở về, tuy  nói trù mật nhưng đối với lúc xưa chưa được phân nửa”.
Chánh sách của Tây Sơn ở miền Nam là phá căn cứ địa, chận các đường thủy từ Sài  Gòn, Cần Giờ đến vùng vàm sông Cửu Long, chận các vị trí chiến lược nối Tiền giang qua  Hậu giang, Hậu giang đến vịnh Xiêm La, từ vùng Long Xuyên (Cà Mau) ra Phú Quốc, qua Xiêm. Thủy quân của Tây Sơn đồn trú hoặc tuần tiểu tới lui vùng Băng Cung, Ba Thắc, Phú  Quốc, vàm sông Mân Thít, Trà Ôn, Sa Đéc, sông Ba Lai. Khi chiếm đóng, chính sách kinh tế và việc tổ chức hành chính thay đổi như thế nào? Nguyễn Huệ chịu trách nhiệm từ Huế ra Bắc phần. Nguyễn Lữ, phò mã Trương Văn Đa, lưu thủ Hóa ở đất Gia Định khong biểu  dương được tài năng gì lạ ngoài những hàng động quân sự.
Quân Tây Sơn bị cô lập ở đất Gia Định vì những lý do sau đây:
— Dân khẩn hoang mang ơn các chúa Nguyễn, họ được khá giả hơn lúc ở miền Trung,  đất tốt còn nhiều, chưa cần một chánh sách điền địa mới, hoặc một sự thay trào đổi chúa.
— Quân Tây Sơn không thâu phục được người Huê kiều (đốt chợ cù lao Phố, đốt chợ Sài  Gòn, Chợ Lớn, phá chợ Mỹ Tho), là hậu thuẫn kinh tế cho Nguyễn ánh.
— Người Cao Miên ở Trà Ôn, người Đồ Bà (Chà Châu giang) đều có cảm tình và tích cực  ủng hộ Nguyễn ánh, nhờ đường lối chính trị mềm dẽo. Lúc bấy giờ quân Tây Sơn nặng lo những vấn đề ở Bắc hà (cựu thần nhà Lê) và còn lo đối phó với quân nhà Thanh. Quân Tây  Sơn đánh giá quá thấp sức chịu đựng của Nguyễn ánh, nhứt là chuyện Nguyễn ánh cầu viện với nước Pháp. Pháp quốc lúc bấy giờ đang nuôi nhiều tham vọng, việc tổ chức quân đội  của Pháp đạt kỹ thuật cao, với hải quân mạnh và võ khí tốt. Hành động của Bá Đa Lộc tuy phiêu lưu nhưng gây nhiều hậu quả trầm trọng. Tháng 9 năm 1788, chiến thuyền và sĩ  quan Pháp đến trong khi Nguyễn Huệ lo ứng phó với Tôn Sĩ Nghị ở Thăng Long.
Tháng 8 năm 1788, Nguyễn ánh thâu phục thành Gia Định. Tại Gia Định năm ấy lập  ra kho Bốn Trấn làm kho chung cho cả bốn trấn Phiên An, Biên Hòa, Vĩnh Thanh và Định  Tường để thâu trữ thuế khóa, chi cấp bổng hướng. Tháng sáu năm 1789, Nguyễn ánh đưa  ra chánh sách rõ rệt, lấy việc tăng gia sản xuất làm trọng, đặt ra các điền toán gồm 12  người (trong đó có Trịnh Hoài Đức, Lê Quang Định, Ngô Tùng Châu, Hoàng Minh Khánh)  đi khắp bốn dinh Phiên Trấn, Trấn Biên, Trấn Vĩnh, Trấn Định để đốc xuất dân chăm làm  việc ruộng. Ai không làm ruộng phải đi lính. Ai làm ruộng đất tốt được 100 thúng lúa, hoặc làm ruộng đất xấu được 70 thúng lúa trở lên thì được tưởng thưởng, nếu là phủ binh (binh  lính phục vụ tại các công sở) được miễn một năm khỏi làm việc quan (làm xâu). Những  người dân lậu (không vô sổ bộ) có thể làm ruộng dưới quyền chăm sóc của các quan điền  toán, xem như là lính, nếu thiếu vốn thì được vay trước, sau sẽ trả.
Vào tháng 10 năm 1890, ngài đặt thêm sở Đồn Điền nhằm khuyến khích quân sĩ tại  ngũ tích cực cày cấy, bấy lâu vì chiến tranh nhiều vùng đất phải bỏ hoang. Binh sĩ thuộc  dinh Trung quân và quân các vệ thuyền đến khẩn ruộng tại Tháo Mộc Câu (sông Vàm Cỏ)  gọi là trại Đồn Điền, nhà nước cấp ngưu canh điền khí và lúa giống, đậu, bắp giống, hễ cắt  hái xong rồi đem nạp vào kho, chánh cơ Nguyễn Bình coi việc ấy.
Các quan địa phương phải lập đội đồn điền, mỗi năm một người trong đồn điền nạp 6 hộc lúa, ai mộ được 10 người trở lên cho làm quản trại, trừ tên trong sổ làng (khỏi đi lính).
Về mặt quân sự, ngài sai lựa quân chiến tâm, tức là quân tinh nhuệ, hết lòng đánh  giặc, tập luyện kỹ càng được cấp lương và tiền rất hậu.
Để tích trữ thêm lúa gạo phòng khi hành quân tái chiếm các thành ở miền Trung, ngài đặt ra lúa thị túc, thị nạp, tức là thứ thuế phụ thu (ngoài thuế điền).
— Năm 1792, mỗi người nộp thuế thị túc từ 1 đến 5 phương.
— Năm 1799, vùng Bình Định, Phú Yên mỗi mẫu ruộng nộp 17 thăng gạo.
— Năm 1800 ở Gia Định, mỗi người nạp 2 phương, người già tàn tật nộp phân nửa.  Ruộng một mẫu nộp một phương gạo; một phương gạo bấy giờ trị giá 7 tiền 30 đồng. Những  năm dùng binh, số thuế và số thị túc phụ thu vẫn không đủ để chi tiêu, nhà nước thu trước  thuế năm tới. Về thuế ruộng, mỗi năm nhà vua thâu hai kỳ.
Nhà nước giữ độc quyền mua những hóa hạng liên hệ tới nhu cầu quân sự như kẽm,  sắt, đồ đồng, diêm, lưu hoàng. Năm 1791, đặt thêm lệ về việc khẩn hoang: sau khi khẩn, 3 năm mới thâu thuế, ai muốn khẩn thì nộp đơn trong thời hạn ngắn là 20 ngày, quá thời gian ấy, đất hoang sẽ giao cho quân sĩ cày cấy, dân không được giành nữa.
Lúa gạo đất Gia Định tích cực góp phần vào việc phản công của Nguyễn ánh. năm  1795 và 1796, chở tiền gạo ở Gia Định ra trữ tại thành Diên Khánh. Năm 1799 lúc ngài ra Quy Nhơn, quân lính lại chở thêm quân lương, “chẳng hề thiếu thốn”. Năm 1802, sử chép là Gia Định đói lắm, ngài sai quan trấn phát gạo kho cho dân mượn, cùng ra lịnh giảm thuế ruộng cho tỉnh Gia Định. Phải chăng vì lúa gạo dùng vào việc quân quá nhiều?
Tháng 2/1790, Nguyễn ánh cho xây thành Sài Gòn, theo hình bát quái (còn có tên là Quy Thành) kiểu thành Vauban của Pháp (do Olivier de Puymanel vẽ kiểu và coi xây cất).  Đây là Gia Định kinh, Nguyễn ánh xem như kinh đô của mình, với thái độ tự tin. Từ thành  này có đắp quan lộ lên Biên Hòa, và quan lộ xuống Trấn Định (Mỹ Tho) đến Cai Lậy, đường  rộng 6 tầm, hai bên đường có trồng cây mù u và cây mít là thứ cây thổ nghi.
Nguyễn ánh tự tin là phải. Bấy giờ lúa gạo Gia Định có nhiều, quân sĩ đang thừa thắng, một số sĩ quan Pháp lại trực tiếp giúp đỡ. Ngài ra lịnh tấn công Quy Nhơn lần thứ  nhất (1790). Nguyễn Huệ băng hà, lại có cuộc tấn công lần thứ hai, lần thứ ba để rồi năm  1801, đến Huế.
Về sau, năm 1814, vua Gia Long còn nhắc nhở: “Gia Định là nơi trung hưng, ngày xưa  chỉ có một đám đất và một toán quân mà khôi phục đất cũ”. Nên nói thêm rằng đó là “đám  đất” tuy diện tích nhỏ hẹp nhưng tốt, gồm đất giồng và đất cù lao của Đồng Nai và Cửu  Long, và toán quân không quá đông đảo nhưng gồm toàn những nông phu đã chịu cực khẩn  hoang, đến khi đi lính cầm gươm rồi mà còn phải cày cấy, phải đóng thuế. Đó là hình ảnh  của Võ Tánh với 10000 quân ở vựa lúa Gò Công xin theo chân ngài.
Nguyễn ánh vĩnh viễn rời đất Đồng Nai để về Huế đô, nhưng đất Đồng Nai, Gia Định  vẫn còn giữ vai trò cũ: vai trò vựa lúa, vai trò tiền đồn của nước Việt. Vua Cao Miên và vua  Xiêm càng thèm thuồng vùng đất phì nhiêu này.
Những năm thái bình đời Gia Long
Gia Long xưng Hoàng đế ở Huế, vùng Gia Định dứt nạn binh đao trong khoảng thời  gian ngắn, nhưng là khá dài so với thời chúa Nguyễn và các trào vua kế tiếp. Từ Bình  Thuận trở vào, về mặt hành chánh đặt ra Gia Định thành với quan Tổng trấn cầm đầu,  nắm khá nhiều quyền hạn, lãnh coi các việc binh dân, xâu thuế và hình phạt của năm trấn:  Phiên An, Biên Hòa, Định Tường, Vĩnh Thanh và Hà Tiên. Lại coi luôn trấn Bình Thuận về  mặt quân sự. Dân số lần hồi đông đúc, các tổng trước kia đa số đều thăng làm huyện, huyện  thăng làm phủ.
Việc phồn thịnh của thương cảng Sài Gòn và lỵ sở của các trấn được ghi khá đầy đủ  qua Gia Định thành Thông chí do Trịnh Hoài Đức, người đương thời biên soạn. Đường giao  thông vận tải nắm ưu thế vẫn là đường thủy. Du khách Hoa Kỳ là John White năm 1819 có đến Sài Gòn, ghi lại trong quyển sổ tay như sau:
— Thành lũy Sài Gòn xây bằng đá ong, kế bên một cơ thủy trại, gần đó là xóm nhà của dân cư gồm những lều lụp xụp, thấp hẹp. Xóm buôn bán ở về hướng Đông. Khi đức Gia Long  dẹp yên giặc Tây Sơn thì dân chúng tụ về thành rất đông. Họ sửa sang nhà cửa lại mới, một  phần lớn các gia đình này dồn về hướng Tây của thành lũy nhà vua”.... “Thời buổi ấy, dọc theo hai bên bờ sông và bờ kinh rạch có vài chỗ đã được cẩn đá hay xây gạch kỹ càng, chạy  nối dài non ngàn thước tây. Về công lộ, có đường đã lót đá nguyên miếng lớn dễ coi, nhưng  phần nhiều vẫn quanh co uốn khúc và không được săn sóc tu bổ nên không được sạch”.
Về nhân số thì thành Sài Gòn phỏng độ lối:
— 180 000 dân bổn thổ
— 10 000 người Trung quốc.
Năm 1822 “lại có một thú y sĩ qů danh là ông Finlayson tháp tùng phái đoàn  Crawfurd cũng có đến viếng Sài Gòn. Finlayson viết: Sài Gòn gồm hai thành phố, mỗi cái đều rộng lớn bằng kinh đô nước Xiêm La, ấy là:
— Sài Gòn.
— Pingeh.
Nên hiểu Pingeh là Bến Nghé (Sài Gòn ngày nay), còn Sài Gòn là Chợ Lớn ngày nay.
Mức sản xuất lúa gạo lúc bấy giờ gia tăng như thế nào?
Chúng ta không có con số cụ thể. Chỉ biết là năm 1804, vua Gia Long sai các quan địa phương trữ lúa thuế vào kho cho nhiều. Kho Đồn Điền của Gia Định thành dựng năm 1805  gồm hai dãy kho ngói, mỗi dãy gồm sáu gian, trữ số lúa đồn điền để làm số lưu trữ, còn dư thì trữ theo kho ở các trấn.
Năm 1804, nước Lữ Tống (Phi Luật Tân) đói, xin đong gạo Gia Định, vua cho đong  500000 cân gạo, năm 1817 vùng Long Hồ, Sa Đéc đủ sức bán cho Cao Miên, nhân nạn đói  đến 10000 hộc lúa. Năm 1816, có lịnh cấm thuyền buôn không được chở lúa gạo ra nước ngoài. Đường thủy cũng được tu chỉnh lại, nhằm chuyên chở lúa gạo từ sông Cửu Long lên  Sài Gòn: năm 1819, sửa lại cho rộng và cho sâu con kinh nối liền từ Vũng Gù (Tân An) đến  rạch Mỹ Tho mà Nguyễn Cửu Vân đã cho đào từ năm 1705, dùng non 10000 dân phu trong  trấn Định Tường. Đào xong, vua đặt tên là Bảo Định Hà.
Cũng năm 1819, sai Huỳnh Công Lý đốc xuất dân phu đào con kinh nối liền từ cầu Bà Thuông (Thị Thông) đến kinh Ruột Ngựa (kinh Ruột Ngựa đào từ năm 1772), vua đặt tên là An Thông Hà vừa rộng, vừa sâu, hai bên bờ để đất trống, đưa sản phẩm từ Tiền giang lên  Sài Gòn “dòng sông sâu rộng, ghe thuyền đậu dài 10 dặm, theo hai con nước lên, nước ròng,  thuyền bè qua lại chèo chống ca hát, ngày đêm tấp nập, làm chỗ đô hội lưu thông khắp ngả, thật là tiện lợi”.
Hương binh được bãi cho về cày ruộng (1810). Lúc chiến tranh, nhiều cường hào lợi  dụng thời cơ, chiếm đất của dân nên vua định lệ quân cấp công điền công thổ (1804), và  công điền công thổ không được bán vì bất cứ lý do gì. Ai làm ruộng ẩn lậu, không khai báo  để đóng thuế thì có thể mất đất, đất giao cho người tố giác.
Vấn đề cho vay được đặt ra, trên nguyên tắc một vốn một lời (tức bất quá bổn), người  cho vay trái phép và con nợ lường gạt đều có tội. Từ năm 1806, khi mất mùa vì thiên tai,  hạn hán, lụt lội thì có lệ là chủ ruộng phải khai báo trước khi gặt để được miễn thuế. Khai báo gian hoặc quan lại mà giấu không chịu khai báo thì tội đồng nhau. Khi thâu thuế có  người đáng tin cậy ngồi coi, đề phòng nạn người coi kho làm khó dân, chê lúa xấu tốt, đong  ít đong nhiều để ăn hối lộ.
Trịnh Hoài Đức ghi chép rằng người địa phương ít dùng những địa danh về hành  chánh. Họ dùng tên của “những lỵ sở hoặc chỗ nhóm họp đông lớn, hoặc chỗ địa đầu” mà gọi  đại khái, tổng quát.
Trong dân gian gọi trấn Biên Hòa là Đồng Nai Bà Rịa, trấn Phiên An là Bến Nghé Sài  Gòn, trấn Định Tường là Vĩnh Gù Mỹ Tho, trấn Vĩnh Thanh là Long Hồ Sa Đéc, trấn Hà Tiên là Cà Mau Rạch Giá.
Trong một trấn tại sao chỉ chọn lựa hai vị trí, và tại sao lựa vị trí này mà không lựa vị trí khác? Dân gian nói thành thói quen ắt có lý do riêng. Theo chúng tôi nghĩ đó là họ muốn  xác nhận nơi làm ăn sung túc, “làm ăn“ có nghĩa là mua bán, cày cấy.
Sài Gòn là thành phố của người Trung Hoa dựng lên lúc ban đầu, nặng về bán sỉ,  trong khi thành phố Bến Nghé do người Việt xây dựng về sau, nặng về bán lẻ và là khu  hành chính. Vũng Gù tức là chợ Tân An ngày nay, tuy không có chợ lớn nhưng đáng chú ý nhờ khẩn hoang lâu đời, đất khá tốt. Sa Đéc nằm trong trấn Vĩnh Thanh, là nơi sung túc  dân cư trù mật, sống nhờ huê lợi ruộng tốt và vườn cây ăn trái. Trấn Hà Tiên, với lỵ sở nổi  danh là đẹp nhưng nghèo, không thể sản xuất đủ lúa gạo, cá mắm, chỉ có vùng chung quanh  chợ Cà Mau và chợ Rạch Giá là dễ đánh lưới và làm ruộng dễ trúng mùa, tàu buồm Hải Nam ra vào chở cá khô, gạo.
Gia Định thành Thông chí (trong mục Cương Vực Chí) đã nêu rõ danh sách các huyện, tổng, thôn ở toàn cõi Gia Định thành hồi đời Gia Long. Vùng nào tập trung nhiều làng xã trên diện tích nhỏ thì nhứt định là đất tốt, khẩn hoang có kết quả. Vùng nào có quá ít làng xã trên diện tích quá rộng thì đất xấu. Nguyên tắc lập làng xã là có người, tức là dân bộ.  Dân bộ phải nhiều đến mức nào đó (thường là 10 người) mới lập được một làng.
Mục Cương Vực Chí giúp ta thấy hình ảnh khá rõ rệt về tình hình khẩn hoang lúc bấy  giờ. Một thí dụ cụ thể là vùng Kiến Hòa ngày nay (tức là khái quát vùng cù lao Bảo và cù  lao Minh của Bến Tre thời Pháp thuộc) tuy diện tích nhỏ nhưng là một huyện, lấy tên là huyện Tân An với hai tổng Tân Minh 72 thôn và An Bảo 63 thôn. Riêng tổng Hòa Bình  (vùng Gò Công, Chợ Gạo và An Hóa) có đến 86 thôn, không kém vùng đông dân Sài Gòn,  Chợ Lớn.
Trong khi ấy, một huyện ở vùng khó khẩn hoang với diện tích to rộng chỉ có 37 thôn:  huyện Vĩnh Định, bao gồm phía hữu ngạn Hậu giang, từ biên giới Châu Đốc đến vàm Ba Thắc ở biển Nam Hải và chưa phân ra thành tổng như ở miệt trên;
Một nơi khác, đất phèn và nước mặn là mũi Cà Mau (nay là An Xuyên và một phần  của Bạc Liêu) chỉ có 40 xã thôn. Vùng Rạch Giá (Kiên Giang ngày nay, trừ Hà Tiên) gồm  một huyện với 2 tổng, tổng thứ nhứt là Kiên Định có 7 thôn, tổng thứ nhì là Thanh Giang có  4 thôn. Trong số này lại có những nậu, những thuộc, tức là xã thôn chưa thành hình đầy đủ.
Đồng ruộng ở Sài Gòn gồm dân số đông đúc, lúa bán cao giá, hoa màu phụ dễ khai thác: Hóc Môn, Bà Điểm, Gò Vấp, hoặc phía Phú Lâm, Bình Tiên, Bình Tây, Bình Đông.
Những con số trên chỉ ghi những thôn xã do người Việt Nam thành lập. Phía Hậu  giang, ruộng nương chưa đến đổi ít oi, dân số không quá thưa thớt, chỉ vì phần Cương Vực  Chí không ghi lại nhân số, diện tích các sốc Cao Miên, tập trung ở vùng Trà Vinh, Rạch Giá,  Bạc Liêu, Cần Thơ, Sóc Trăng.
Riêng về vùng gần chợ Hà Tiên ghi 6 phố, sở của người Tàu, 26 sốc Cao Miên và 19 xã  thôn Việt Nam (trong số này có 12 thôn ở đảo Phú Quốc).
“Huyện Kiến Hòa đất ruộng phì nhiêu, mênh mông bát ngát. Nhiều người lo việc canh  nông làm gốc, trong nhà có chứa vựa lúa gạo đầy dẩy”. Mục Phong Tục Chí của Trịnh Hoài Đức ca ngợi trường hợp huyện Kiến Hòa (trấn Định Tường). Định Tường lúc bấy giờ khá  rộng rãi, huyện Kiến Hòa nói trên bao gồm trọn vùng Gò Công, vùng Chợ Gạo, luôn cả vùng  đất giữa sông Ba Lai và Cửa Đại (tức là An Hóa ngày nay). Vùng Gò Công nổi danh đất tốt,  gạo ngon. Đất ở bờ Cửa Tiểu và Cửa Đại là phù sa cao ráo. Nói riêng về từng trấn, Định  Tường (với Gò Công làm nòng cốt) là vựa lúa quan trọng nhất của xứ Gia Định.
Về đất ruộng, ở nơi có núi đồi và có đồng bằng như miền Trung, theo lệ từ lâu, cứ phân  chia ra sơn điền và thảo điền. Sơn điền có năng xuất kém, thảo điền năng xuất cao, vì vậy  mà trong việc quy định thuế điền, luôn luôn thảo điền chịu thuế cao hơn.
ở vùng đồng bằng Cửu Long, để tiện việc thuế khóa, nơi nào đất mới trưng khẩn thì  khai là sơn điền (mặc dầu không có núi) để chịu thuế nhẹ, vài năm sau khi đất đã thành thục (trở thành đất thuộc) thì nâng lên làm thảo điền.
Ruộng ở đồng bằng Đồng Nai và Cửu Long chia ra hai loại, đứng về mặt kỹ thuật cày  bừa mà xét (sự phân biệt này qua thời Pháp thuộc vẫn còn):
— Đất cày
— Đất phát
Ruộng đất cày thường là tương đối cao, chờ mưa mới cày, thường là khai thác lâu năm,  nếu không cày thì mặt đất quá cằn cỗi thiếu chất màu mỡ, cày để trộn đất lên.
Vùng Phiên An, Biên Hòa gồm loại ruộng cày.
Ruộng đất phát là đất thấp, còn mới, ít khai thác, mặt đất còn nhiều cỏ và phân, nếu  cày thì đất phèn phía dưới lại trồi lên làm hư lúa (Trịnh Hoài Đức ghi là “trạch điền” để chỉ loại đất phát này).
Muốn làm ruộng đất phát, khi sa mưa, nước lên cỡ ba tấc tây thì phát cỏ (Trịnh Hoài Đức dùng chữ trảm phạt, nhưng không nói rõ là phát bằng thứ dụng cụ gì). Theo ý kiến  chúng tôi, nông dân thời ấy dùng cây phãng mà người Miên đã dùng từ trước. Phãng giống  như cây mã tấu, cán phãng uốn lại theo góc thước thợ, lưỡi phãng dài cỡ bảy, tám tấc tây. Người phát cứ đứng nghiêng mình mà chém, dùng cây cù nèo gạt cỏ qua một bên rồi chém tiếp. Phát cỏ xong xuôi, dùng cây bừa cào thứ to mà dọn cho đất trống trải, sau đó là cấy với cây nọc (đất không cày nếu dùng tay mà cấy thì không tài nào khoét lỗ để nhét cây mạ được).
Ruộng đất phát (trạch điền) ở Vĩnh Thanh một hộc giống thâu được 300 hộc, trong khi ruộng cày ở Phiên An, Biên Hòa một hộc lúa giống chỉ đem lại 100 hộc.
Giống lúa sạ (lên cao theo nước lụt) tuyệt nhiên không thấy nhắc tới. Lúc bấy giờ, việc mua bán, liên lạc với Cao Miên cũng khá thường xuyên. Lúa sạ có nhiều ở Cao Miên, tại sao  ta không cho du nhập để giải quyết việc trồng tỉa ở phần đất rộng mênh mông phía Đồng  Tháp Mười và phía Châu Đốc? Theo thiển ý chúng tôi, bấy giờ đất giồng ở bờ sông còn  nhiều, chưa cần khai thác quá xa tận vùng Châu Đốc và Đồng Tháp. Vả lại, lúa sạ không ngon cơm, bán thấp giá trên thị trường.
Trong Gia Định thành Thông Chí, không lời lẽ nào đề cập đến lối canh tác một năm  hai mùa ruộng (khi người Pháp chiếm nước ta hồi cuối thế kỷ 19, ở Nam kỳ vẫn chưa làm  một năm hai mùa). Ruộng hai mùa đòi hỏi đất cao ráo, để có thể đắp bờ mà giữ nước hoặt  tát nước vào ruộng cạn. Đắp bờ và tát nước đòi hỏi nhân công, các thửa ruộng phải liền lạc, gần nhau. Người nông phu lúc bấy giờ vì đất còn tốt và rộng nên chưa nghĩ đến cách khai thác thâm canh ấy. Lúc rảnh rỗi, họ trồng đậu, bắp khao dễ sinh lợi và ít tốn công hơn.
Doãn Uẩn từng là thự án sát tỉnh Vĩnh Long vào năm 1833 (sau làm đến Tổng đốc An  Hà) ghi lại vài chi tiết về cách làm ruộng: “Việc trồng lúa thì cứ phát rạp lau sậy, bừa cỏ hai ba lần rồi cấy, không phí sức nhiều. Như đã cấy rồi thì không cần trông nom tới, cũng  khỏi phải lo nước hạn. Vào những tháng 7, 8, 9 lục tục cày cấy, đến những tháng 11, tháng  chạp mới lần lượt gặt hái, rồi gom nhóm lại để ngay ngoài ruộng, tới ra giêng lối tháng 2, tháng 3 mới cho trâu đạp lấy lúa hột”. “Cổ nhân nói: Xuân canh, hạ vân, thu thâu, đông  tàng xét ra không thể hoàn toàn đúng với mọi vùng, hoặc thổ ngơi không điều hợp, thổ tục  thì theo thói quen mà làm, hoặc giả khí hậu có sớm có tối khác nhau, riêng tôi cũng chưa  thấu đạt được vậy. Cũng như nói về hoa quả, tại nhiều tỉnh dưa đều đại khái chín vào mùa hạ, mà Nam Kỳ lại chín vào đông xuân. Tại Bắc kỳ, sen nở mùa hạ, mà Kinh kỳ (Huế) lại  trỗ bông vào giữa thời gian giao mùa đông xuân, còn Nam kỳ thì bốn mùa sen đều có hoa  cả”.
Về phong tục ở miền Nam lúc bấy giờ, Trịnh Hoài Đức ghi lại khá nhiều chi tiết, xin  lược kê vài đoạn, chứng tỏ việc khẩn hoang đem lại mức sống sung túc: “ở Gia Định, có  khách đến nhà đầu tiên gia chủ dâng trầu cau, sau dâng tiếp cơm bánh, tiếp đãi trọng hậu,  không kể người thân sơ, quen lạ, tông tích ở đâu, ắt đều thâu nạp khoản đãi, cho nên người  đi chơi không cần đem tiền gạo theo, mà lại có nhiều người lậu xâu, trốn thuế đi đến xứ này  ẩn núp, bởi vì có chỗ dung dưỡng vậy”. “Đất Gia Định nhiều sông, kinh, cù lao, bãi cát nên  trong 10 người đã có 9 người biết nghề bơi lội, chèo thuyền, lại ưa ăn mắm, ngày ăn ba bữa  cơm mà ít khi ăn cháo”. Lại có thói đùa cợt, bằng cách thách đố nhau ăn hoặc uống thật  nhiều. Doãn Uẩn chép: “Cũng có kẻ nghèo phải đi ăn xin, nhưng mỗi tháng họ chỉ đi xin  một lần cũng đủ sống rồi. Họ thường tựu nhau nơi đình miếu, mỗi người đều có mùng màn  riêng. Trộm cắp cũng ít xảy ra, trâu thì có chuồng nhốt ngoài đồng”. Họ rất thích ca hát,  không ngày nào là không có múa hát.
Người Tàu còn khai thác ruộng muối ở vùng biển Sóc Trăng (Ba Thắc). Biên Hòa nổi  danh với nghề trồng mía, làm đường. Rừng Tây Ninh sản xuất nhiều gỗ tốt, đặc biệt là dầu  rái để trét ghe, làm đuốc.