Trong những buổi học được tiếp theo trong tuần, Harry tiếp tục làm theo những hướng dẫn của vị Hoàng Tử lai ở chỗ nào chúng được ghi khác với hướng dẫn trong sách của Libatius Borage, với kết quả là đến buổi học thứ tư Thầy Slughorn đã hết sức khoái cái khả năng của Harry, nói rằng thầy hiếm khi được dạy học trò nào tài năng như vậy. Cả Ron lẫn Hermione đều không vui lắm về chuyện này. Mặc dù Harry đã đề nghị xài chung cuốn sách với hai đứa nó, nhưng Ron gặp nhiều khó khăn hơn Harry trong việc giải đoán chữ viết tay, mà nó không thể cứ bảo Harry đọc to lên giùm, nếu không muốn bị nghi ngờ. Trong khi đó, Hermione vẫn kiên quyết cày bừa với cái mà cô nàng gọi là hướng dẫn “chính qui”, nhưng càng lúc cô nàng càng tỏ ra nóng nảy khi những hướng dẫn chính quy này đưa tới kết quả tồi tệ hơn hướng dẫn của Hoàng tử. Harry ngờ ngợ tự hỏi vị Hoàng Tử lai là ai. Mặc dù sô lượng bài tập mà tụi nó được giao đã khiến Harry không có thì giờ đọc hết toàn bộ quyển Chế tạo thuốc cao cấp, nó cũng đã lật sơ qua hết sách đủ để thấy là hầu như không có trang nào mà Hoàng tử không ghi chú thêm điều này điều nọ, mà không phải tất cả ghi chú đều liên quan đến việc bào chế thuốc. Thỉnh thoảng có những lời chỉ bảo về cái gì đó giống như bùa phép mà Hoàng tử đã tự mình sáng chế ra. “Hay chính là Công chúa,” Hermione gắt gỏng nói, khi nghe lỏm Harry chỉ cho Ron xem mấy cái đó trong phòng sinh hoạt chung vào buổi chiều thứ bảy. “Rất có thể đó là một cô gái. Mình thấy nét chữ viết tay giống chữ viết của con gái hơn chữ của con trai.” “Người đó được gọi là Hoàng Tử lai mà,” Harry nói. “Từ hồi nào giờ có bao nhiêu cô gái được gọi là Hoàng Tử?” Hermione dường như không trả lời được câu hỏi này. Cô nàng chỉ càu nhàu và giật phắt lại bài luận văn của mình về “Những nguyên tắc của Tái vật chất hóa” ra khỏi tay Ron, anh chàng này đang cố thử đọc bài viết ngược từ dưới lên trên. Harry ngó đồng hồ rồi vội vã nhét cuốn sách Chế tạo thuốc cao cấp cũ kỹ vô trong túi xách của nó. “Năm phút nữa tám giờ, mình phải đi thôi, kẻo trễ buổi học với thầy Dumbledore.” “Ối!” Hermione kêu lên ngạc nhiên, ngẩng đầu lên tức thì. “Chúc may mắn nha! Tụi này sẽ thức đợi, tụi này muốn nghe thầy dạy bồ môn gì!” “Hy vọng buổi học OK,” Ron nói, và hai đứa nó ngó theo Harry chui qua cái lỗ chân dung mà đi. Harry đi qua những hành lang vắng vẻ, tuy vậy nó cũng phải vội vã bước tránh ra sau một bức tượng khi giáo sư Trelawney xuất hiện ở một góc hành lang, lẩm bẩm một mình khi xào một bộ bài trông dơ hết chỗ nói, rồi vừa đi vừa xem. “Hai bích: xung đột,” bà lẩm nhẩm khi đi ngang qua chỗ Harry cúi lom khom ẩn núp. “Bảy bích: một điềm xấu. Mười bích: Bạo tan. Bồi bích: Một chàng trai trẻ ngăm đen có thể bị rắc rối, một kẻ không ưa người chất vấn...” Bỗng bà đứng sựng lại, ngay bên cạnh bức tượng Harry đang ẩn núp. “Chà, điều đó không thể đúng được,” bà nói, vẻ khổ sở, và Harry nghe bà xào lại bộ bài một cách quyết liệt rồi lại tiếp tục bước đi, chẳng lưu lại gì phía sau ngoại trừ một hơi nhẹ rượu nâu vẫn dùng để nấu ăn. Harry chờ đến khi chắc chắn là bà đã đi khỏi mới vội vã bước tiếp cho đến khi tới được hành lang tầng thứ bảy, nơi có mỗi một bức tượng đá thú đứng dựa tường. “Nước chua,” Harry nói, và bức tượng thú đá nhảy qua một bên, bức tường đằng sau nhẹ nhàng tách ra làm hai, và một cái cầu thang xoắn bằng đá tự chuyển động lộ ra, Harry bèn bước lên cầu thang để được đưa theo những vòng tròn êm ái lên đến cánh cửa có cái búa gõ bằng đồng dẫn vào văn phòng cụ Dumbledore. Harry gõ cửa. “Vào đi,” cụ Dumbledore nói. “Con chào thầy,” Harry nói khi bước vào văn phòng thầy hiệu trưởng. “À, chào con, Harry. Ngồi xuống đi,” cụ Dumbledore mỉm cười nói, “thầy hy vọng con đã có một tuần lễ thú vị trong tuần đầu tiên quay lại trường?” “Dạ, cám ơn thầy,” Harry nói. “Ắt hẳn con bận lắm, đã bị nợ một buổi cấm túc rồi!” “Ơ...,” Harry mới mở miệng nói lọng ngọng, nhưng cụ Dumbledore không tỏ vẻ nghiêm khắc lắm. “Thầy vừa dàn xếp với giáo sư Snape để cho con chịu cấm túc vào thứ bảy tuần tới thay vì tối nay.” “Dạ được,” Harry nói, trong đầu nó đang có nhiều vấn đề cấp bách hơn là vụ cấm túc với Thầy Snape, và giờ đây nó len lén nhìn quanh để xem có dấu hiệu nào về cái mà cụ Dumbledore dự định dạy nó vào tối hôm nay không. Văn phòng hình tròn này trông vẫn như từ trước tới giờ; những dụng cụ bàng bạc tinh xảo đặt trên mấy cái bàn cao khẳng khiu, nhả khói và kêu vo vo; chân dung của các vị hiệu trưởng tiền nhiệm ngủ gật trong các khung tranh và con chim Phượng hoàng lộng lẫy của cụ Dumbledore – con Fawkes – vẫn đậu trên nhành cây của nó phía sau cánh cửa, ngắm nhìn Harry với vẻ thích thú rạng rỡ. Thậm chí cảnh vật trông không có vẻ gì là cụ Dumbledore đã dọn dẹp chút đỉnh để có chỗ cho hai người cùng thực hành Pháp thuật. “Vậy là, Harry,” cụ Dumbledore nói, bằng giọng bàn công việc, “thầy chắc rằng con mấy bữa nay đang thắc mắc thầy dự định làm gì với con trong những... thầy muốn tìm từ gì cho hay hơn... những buổi học này?” “Dạ thưa thầy, phải ạ.” “Thế này, thầy đã quyết định là đã đến lúc con cần biết một số thông tin, một khi con đã biết cái gì khiến Chúa tể Voldermort cố tìm cách giết con cách đây mười lăm năm,” cụ ngưng một lúc. “Thầy nói vào cuối niên học vừa rồi rằng thầy sẽ nói với con mọi điều,” Harry nói. Khó mà không nhận thấy trong giọng nói của nó có một chút trách hờn. Rồi nó nói thêm ở cuois câu, “thưa thầy.” “Và thầy đã làm như vậy,” cụ Dumbledore điềm tĩnh nói. “Thầy đã nói với con mọi điều thầy biết. Từ điểm này trở đi, chúng ta sẽ rời khỏi cái nền tảng chắc chắn của sự thật mà cùng nhau du hành băng qua những bãi lầy tăm tối của ký ức để tiến vào rừng rậm của những giả thuyết rối rắm nhất. Từ đây trở đi, Harry à, thầy có thể sai lầm khủng khiếp như Humphrey BelcHermione, người đã tin lúc bấy giờ là thời điểm chín mùi để làm ra vạc nấu phó mát.” “Nhưng thầy tin là thầy đúng chứ?” Harry nói. “Đương nhiên là thầy tin, nhưng như thầy đã chứng minh cho con thấy, thầy cũng phạm sai lầm như mọi người bình thường. Thực ra, bỏ quá cho thầy, do có trí thông minh hơn nhiều người, sai lầm của thầy do vậy càng lớn hơn nhiều.” “Thưa thầy,” Harry ngập ngừng nói, “điều thầy sắp nói với con có liên quan gì tới lời Tiên tri không? Điều đó có giúp cho con... sống sót không?” “Nó liên quan rất nhiều đến lời Tiên tri,” cụ Dumbledore nói, thản nhiên như thể Harry mới hỏi cụ về thời tiết những ngày sắp tới, “và thầy chắc chắn là hy vọng rằng nó sẽ giúp con sống sót.” Cụ Dumbledore đứng dậy và đi vòng quanh cái bàn làm việc, ngang qua Harry, nó bồn chồn xoay mình trên ghế để nhìn theo cụ đang cúi xuống một cái tủ phía sau cánh cửa. Khi cụ Dumbledore đứng thẳng dậy, cụ cầm một cái chậu nông quen thuộc bằng đá có mấy dấu khắc chạm kỳ quái quanh miệng. Cụ đặt cái Tưởng ký lên bàn trước mặt Harry. “Trông con có vẻ lo lắng.” Harry quả thực từ nãy giờ vẫn ngó chừng cái Tưởng ký với chút ngán sợ. Kinh nghiệm trước đây của nó với cái dụng cụ kỳ quái lưu trữ và tiết lộ suy nghĩ và ký ức ấy, là tuy có thu được thêm nhiều hiểu biết, nhưng cũng rất ư khó chịu. Lần cuối cùng nó mắc mứu với nội dung của cái chậu đó, là nó đã nhìn thấy quá nhiều so với ước mongcủa nó. Nhưng cụ Dumbledore đang mỉm cười. “Lần này, con cùng vào Tưởng ký với thầy... và, bất thường hơn nữa, được phép hẳn hoi.” “Thưa thầy, chúng ta đi đâu ạ?” “Một chuyến du ngoạn xuống con đường mòn ký ức của Bob Ogden,” cụ Dumbledore nói, vừa lấy trong túi ra một cái chai bằng pha lê chứa một chất màu trắng ánh bạc có xoáy. “Bob Ogden là ai ạ?” “Ông ấy làm việc cho Bộ thi hành Luật Pháp thuật,” cụ Dumbledore nói. “Ông ấy mất cách đây ít lâu sau khi thầy tìm ra tung tích ông ấy và thuyết phục ông giãi bày những hồi ức cho thầy. Chúng ta sẽ tháp tùng ông ấy trong một vụ thăm viếng mà ông ấy đã thực hiện khi thi hành công vụ. Harry à, nếu con đứng…” Nhưng cụ Dumbledore đang gặp khó khăn trong việc rút cái nút chai ra : bàn tay bị thương của cụ dường như cứng đơ và đau đớn lắm. “Thưa thầy, cho phép con… ?” “Không hề gì, Harry à…” Cụ Dumbledore chĩa cây đũa phép của mình vào cái chai và cái nút bật ra ngay. “Thưa thầy... làm sao mà bàn tay của thầy bị thương vậy?” Harry lại hỏi, vừa nhìn mấy ngón tay thâm đen với một cảm giác vừa sợ hãi vừa xót thương. “Bây giờ không phải lúc kể câu chuyện đó rồi Harry à. Chưa đến lúc. Chúng ta có hẹn với Bob Ogden.” Cụ Dumbledore rót cái chất óng ánh bạc trong chai vô cái Tưởng ký, cái chất ấy không ra lỏng mà cũng chẳng phải khí, vừa xoắn tít vừa lung linh hư ảo. “Con vào trước đi,” cụ Dumbledore nói, ra dấu về phía cái chậu. Harry cúi khom tới trước, hít một hơi thở sâu, sâu, và nhúng cái mặt mình vô trong cái chất óng ánh bạc đó. Nó cảm thấy hai chân nó nhấc hổng khỏi sàn văn phòng; nó đang rơi, rơi xuyên qua bóng tối cuộn xoáy, và rồi, hết sức dột ngột, nó chớp mắt trong ánh nắng chói chang. Trước khi mắt nó quen lại với ánh sáng, cụ Dumbledore đã đáp xuống bên cạnh nó. Hai thầy trò đang đứng trên một con đường ở thôn quê, hai bên đường là những giậu cây cao xum xuê, dưới vòm trời mùa hạ sáng trong và xanh như sắc hoa xin-đừng-quên-tôi. Đứng phía trước hai thầy trò, cách chừng ba thước, một người đàn ông lùn và mập đeo một cặp kính dày cui thật to khiến cho đôi mắt ông ta nhỏ lại như hai đốm mắt ruồi. Ông ta đang xem một cột gỗ chỉ đường được cắm nhô ra khỏi bụi cây gai ở phía tay trái của con đường. Harry biết đây hẳn là ông Ogden; ông ta là người duy nhất có mặt ở đấy, và ông ta cũng đang mặc cái kiểu quần áo kỳ cục mà các pháp sư ít kinh nghiệm thường chọn mặc để trông có vẻ giống Muggle: trong trường hợp này là một cái áo khoác thầy tu và một đôi ghệt bên ngoài một cái áo bơi một mảnh có sọc. Tuy nhiên trước khi Harry có đủ thì giờ để ghi nhận ngoại hình quái đản của ông, ông Ogden đã bắt đầu bước đi thật nhanh xuống con đường nhỏ. Cụ Dumbledore và Harry đi theo. Khi họ đi ngang qua một tấm bảng gỗ chỉ đường, Harry nhìn lên hai mũi tên của cái bảng. Một cái chỉ ngược hướng con đường nó vừa đi qua có ghi: “Hangleton Lớn, 5 dặm”. Mũi tên kia chỉ theo sau lưng ông Ogden có ghi “Hangleton Nhỏ, 1 dặm”. Hai thầy trò đi bộ qua một quãng đường ngắn mà không thấy gì cả ngoại trừ mấy giậu cây bên đường, bầu trời xanh trên đầu và cái dáng khoác áo thầy tu bảnh tẻng phía trước. Thế rồi con đường quanh qua bên trái và biến tướng, chạy xuống một sườn đồi rất dốc, khiến cho hai thầy trò bỗng đứng trước một cảnh trí bất ngờ của cả một thung lũng nằm phía trước. Harry nhìn thấy một ngôi làng, chắc chắn là làng Hangleton Nhỏ, nép mình giữa hai ngọn đồi cao, có thể thấy rõ cả nhà thờ và nghĩa địa của làng. Bên kia thung lũng, nằm trên sườn đồi đối diện, là một biệt thự xinh xắn, chung quanh có những thảm cỏ trải rộng xanh mượt như nhung. Ông Ogden đã chuyển sang bước nhanh một cách bất đắc dĩ vì con đường chạy xuống quá dốc. Cụ Dumbledore sải dài bước chân hơn nữa, và Harry phải lật đật chạy theo cụ cho kịp. Nó nghĩ làng Hangleton Nhỏ ắt phải là đích đến cuối cùng của thầy trò nó và nó thắc mắc, như đã thắc mắc vào cái đêm thầy trò nó đi tìm Thầy Slughorn, là tại sao thầy trò họ lại phải tiếp cận từ một khoảng cách xa như vậy. Tuy nhiên, chẳng bao lâu sau nó khám phá ra rằng mình đã nhầm lẫn khi nghĩ rằng thầy trò nó đang đi đến ngôi làng. Con đường uốn cong về bên phải và khi vòng qua khúc quanh rồi, thầy trò nó mới kịp nhìn thấy một góc vạt áo thầy tu của ông Ogden biến mất trong một khaorng hở của giậu cây. Cụ Dumbledore và Harry đi theo ông ta vào một con đường đất hẹp chạy giữa những hàng giậu cao hơn, dày hơn cả những hàng giậu thầy trò nó đã bỏ lại phía sau. Con đường khúc khủy, gồ ghề, lởm chỏm đá và đầy ổ gà, cũng chạy xuống dốc đồi như con đường lúc nãy, và dường như dẫn đến một lùm cây âm u lui xuống phía dưới một chút. Quả nhiên, con đường mòn chẳng mấy chốc mở ra một khu đất trồng cây, và cụ Dumbledore cùng Harry dừng lại phía sau ông Ogden, ông này đã đứng yên và rút ra cây đũa phép. Mặc cho bầu trời không một áng mây, đám cây già trước mặt thầy trò Harry vẫn tỏa bóng râm âm u, sâu và mát, và chỉ cần vài giây mắt Harry đã phân biệt được một tòa nhà nửa ẩn nửa hiện giữa những thân cây mọc lộn xộn. Đối với Harry, đây dường như là một địa điểm lạ lùng để chọn xây nhà, hoặc là một quyết định quái đản khi để cho lũ cây mọc um tùm chung quanh, che khuất tất cả ánh sáng và cảnh trí của thung lũng bên dưới. Nó thắc mắc là liệu có ai ở trong ngôi nhà đó không; mấy bức tường rêu phong và nhiều miếng ngói đã rớt khỏi mái nhà, có thể thấy những mảnh ngói vụn vung vãi đó đây. Cây tầm ma mọc khắp chung quanh, ngọn cây vươn tới tận cửa sổ, những cái cửa sổ nhỏ xíu và bám đầy bụi bặm. Tuy nhiên, vừa khi nó kết luận là chẳng ai có thể sống ở đó, thì một trong mấy cái cửa sổ mở tung ra kèm theo tiếng loảng xoảng, và một làn hơi nước hay khói bốc ra từ cái cửa sổ nhỏ đó, như thể có ai đó đang nấu nướng. Ông Ogden lặng lẽ di chuyển về phía trước, và Harry thấy dường như ông hơi thận trọng. Khi bóng cây âm u đã che phủ lên người, ông ta lại dừng chân, đăm đăm nhìn vào cửa chính, trên cánh cửa đó ai đã đóng đinh một con rắn chết. Chợt có tiếng sột soạt và một tiếng nổ giòn, rồi một người đàn ông mặc toàn giẻ rách rớt xuống từ trên một ngọn cây gần đó, đáp xuống trên đất trên hai chân ngay trước mặt ông Ogden. Ông Ogden nhảy lùi ra sau nhanh đến nỗi giẫm lên đuôi vạt áo khoác của chính mình và té bổ ngửa. “Không ai mời ông.” Người đàn ông đứng trước mặt họ có mái tóc dày bám đầy bụi đến nỗi khó mà nói được nó vốn màu gì. Răng hắn ta sún gần hết. Mắt hắn ta nhỏ, đen và ngó chòng chọc về hai hướng ngược nhau. Đáng ra trông thế phải vui nhộn, nhưng hắn lại không hề như vậy; kết quả thiệt là dễ sợ, và Harry chẳng trách gì ông Ogden phải lùi lại liên tiếp nhiều bước trước khi mở miệng nói được. “Ơ... Xin chào. Tôi là nhân viên của Bộ Pháp thuật...” “Không ai mời ông.” “Ơ... Tôi xin lỗi... Tôi không hiểu ý ông,” ông Ogden nói, vẻ căng thẳng. Harry nghĩ ông Ogden cực kỳ tối dạ; theo ý Harry thì người lạ mặt kia bày tỏ rất rõ ràng, đặc biệt khi hắn ta vung cây đũa phép trong một tay, còn tay kia thì nắm một con dao ngắn đẫm máu. “Con hiểu hắn nói gì, ta chắc vậy, phỉa không Harry?” Cụ Dumbledore nói khẽ. “Dạ, dĩ nhiên rồi,” Harry nói, hơi lúng túng. “Tại sao ông Ogden không thể hiểu...?” Nhưng khi mắt Harry đụng phải con rawsn chết neo trên cánh cửa, nó bỗng hiểu ra. “Hắn nói Xà ngữ?” “Giỏi lắm,” cụ Dumbledore nói, vừa gật đầu, mỉm cười. Gã đàn ông ăn mặc te tua lúc này đang tiến về phía ông Ogden, tay cầm dao, tay cầm cây đũa phép. “Thế này nhé...” Ông Ogden bắt đầu nói, nhưng đã quá trễ: Một tiếng nổ to vang lên, và ông Ogden đã nằm quay lơ trên mặt đất, tay bụm chặt lấy mũi trong khi một dòng nước màu vàng nhơn nhớt lờm lợm xịt ra từ những kẽ ngón tay ông. “Morfin!” Một giọng hét to vang lên. Một lão già vội vã chạy ra khỏi căn nhà, đóng mạnh cánh cửa chính sau lưng, khiến cho con rắn chết lắc lư một cách đau khổ. Người này lùn hơn người xuất hiện trước đó và có một kích thước quái dị. Hai vai lão ta rất rộng và hai cánh tay rất dài, hợp với đôi mắt nâu sáng quắc, mái tóc ngắn rậm rì, và gương mặt nhăn nhúm, tạo cho lão ta cái dáng vẻ của một con khỉ già hùng mạnh. Lão già chạy ra và đứng lại bên cạnh cái gã cầm dao, lúc này gã đang sặc vì cười khi nhìn cảnh ông Ogden nằm trên mặt đất. “Ở Bộ hả?” Lão già ngó xuống ông Ogden hỏi. “Đúng!” Ông Ogden tức giận nói, vừa chấm chấm vết máu mủ trên mặt. “Và, tôi đoán, ông là ông Gaunt?” “Đúng vậy,” lão Gaunt nói. “Nó đánh trúng mặt ông hả?” “Phải, nó đánh!” Ông Ogden càu nhàu. “Lẽ ra ông nên báo trước sự có mặt của ông chứ hả?” Lão Gaunt nói giọng công kích. “Đây là tư gia mà. Đâu có thể cứ bước đại vô đây mà không tính trước chuyện con trai tôi tự vệ.” “Tự vệ lại cái gì hả trời?” Ông Ogden nói, vừa lồm cồm đứng dậy. “Mấy người ưa kiếm chuyện. Bọn xâm nhập gia cư. Dân Muggle và đồ cặn bã.”Cái mũi của ông Ogden vẫn còn đang xịt ra thành dòng cái chất vàng vàng như mủ, ông bèn chĩa cây đũa phép vào mũi mình, và dòng mủ đó ngừng ngay lập tức. Lão Gaunt nói qua khóe miệng với Morfin. “Đi vô nhà. Không được cãi.” Lần này, do đã có chuẩn bị, Harry nhận ra Xà ngữ; thậm chí trong lúc nó vừa nghe hiểu điều lão già đang nói, nó vẫn nhận ra được tiếng rít khè khè quái gỡ, là thứ âm thanh duy nhất mà ông Ogden có thể nghe ra. Morfin dường như muốn cãi lại, nhưng cha gã đã quắc mắt đe dọa khiến gã phải thay đổi ý kiến, lếch thếch bỏ vào trong nhà, dáng đi tròng trành hết sức kỳ cục, và đóng sập cánh cửa lại sau lưng, khiến cho con rắn chết lại buồn bã đong đưa. “Ông Gaunt à, tôi đến đây chính là để gặp con trai ông,” ông Ogden nói, vừa chùi vết mủ cuối cùng dính trên áo khoác. “Đó là Morfin, đúng không?” “Ừ, đó là Morfin,” lão già đáp giọng dửng dưng. “Ông có thuần huyết không?” Lão ta hỏi, bỗng nhiên đâm hung hăng. “Điều đó không quan trọng,” ông Ogden lạnh lùng nói, và Harry cảm thấy niềm kính trọng đối với ông Ogden tăng lên. Nhưng dường như lão Gaunt lại cảm thấy khác. Lão ta lừ mắt nhìn vào mặt ông Ogden và lẩm bẩm, bằng cái giọng rõ ràng có thể coi là xúc phạm, “Giờ tôi lại nghĩ về chuyện đó đây, tôi đã từng thấy mấy cái mũi như mũi ông ở dưới làng kia.” “Tôi không nghi ngờ chuyện đó, nếu con trai ông được thả lỏng để quậy người ta,” ông Ogden nói. “Có lẽ chúng ta có thể tiếp tục cuộc thảo luận bên trong nhà chứ hả?” “Bên trong?” “Vâng, thưa ông Gaunt. Tôi vừa mới nói với ông. Tôi đến đây về chuyện Morfin. Chúng tôi đã gởi một cú...” “Tôi không xài cú,” lão Gaunt nói. “Tôi không mở thư.” “Vậy thì ông khó lòng mà phàn nàn được là ông chẳng được báo trước về việc khách viếng thăm,” ông Ogden nói một cách chua chát. “Tôi đến đây vì một vụ vi phạm nghiêm trọng trong Luật Pháp thuật, vụ này xảy ra tại đây và sáng sớm ngày hôm nay...” “Được rồi, được rồi, được rồi!” Lão Gaunt rống lên. “Vậy thì mời vô cai nhà thương điên của tôi, và nó sẽ cho ông biết tay!” Ngôi nhà dường như gồm có ba phòng nhỏ xíu. Hai cánh cửa mở ra căn phòng chính, vừa dùng làm nhà bếp đồng thời là phòng khách. Morfin đang ngồi trên một cái ghế bành dơ không chịu nổi bên cạnh một ngọn lửa đang bốc khói, văn vẹo một con rắn còn sống nhăn giữa mấy ngón tay mập mạp và ư ử ngâm nga với con rắn bằng Xà ngữ: Rít đi, rít đi, rắn nhí, Trườn trên sàn Mi hãy biết điều với Mòin Nếu không hắn đóng đinh mày lên cửa. Có tiếng xô xtas ì xèo ở góc phòng bên cạnh cái cửa sổ mở, và Harry nhận ra là còn một người khác nữa trong phòng, một cô gái mặc một cái áo đầm tả tơi màu xám y như màu bức tường đá đầy bụi bặm sau lưng cô. Cô gái đang đứng bên cạnh một cái nồi đang bốc hơi trên một cái bếp đen thui cáu bẩn, và đang hục hặc với cái kệ chất nồi chảo trông hết sức nhớp nháp. Mái tóc của cô ta buông rũ xuống, xơ xác, và cô có một bộ mặt hơi nặng nề, bèn bẹt, tai tái. Đôi mắt của cô, cũng giống như mắt người anh, nhìn chòng chọc về hai hướng ngược nhau. Trông cô có vẻ sạch sẽ hơn hai người đàn ông một tí, nhưng Harry nghĩ nó chưa bao giờ trông thấy một người nào trông thảm hại đến như vậy. “Con gái tôi, Merope,” lão Gaunt miễn cường giới thiệu, khi ông Ogden tò mò nhìn về phía cô gái. “Chào cô,” ông Ogden nói. Cô gái không đáp lại, nhưng sợ sệt liếc cha mình một cái rồi quay lưng lại mọi người và tiếp tục khua khoắng đám nòi chảo trên cái kệ đằng sau lưng. “Thế này, ông Gaunt à,” ông Ogden nói, “để đi thằng vào vấn đề, chúng tôi có lý do để tin là con trai ông, Morfin, đã biểu diễn pháp thuật trước mặt một Muggle hồi khuya hôm qua.” Một tiếng xoảng điếc lỗ tai vang lên. Merope vừa làm rớt một trong mấy cái nồi. “Lượm nó lên!” Lão Gaunt gầm lên với cô gái. “Cứ thế, bừa bãi trên sàn như mấy tên Muggle bẩn thỉu, cây đũa phép của mày dùng để làm gì hả, cái đồ bịch rác vô tích sự?” “Xin ông Gaunt!” Ông Ogden nói với giọng bị sốc, khi Merope, sau khi đã lượm cái nồi lên, hoảng sợ đến tím tái, lại buông tay để rớt cái nồi xuống một lần nữa, đã run rẫy rút cây đũa phép của cô ra khỏi túi, chỉ vào cái nồi, lầm bầm một câu thần chú líu ríu không ai nghe được, khiến cái nồi bay vọt ngang căn phòng, tông vô bức tường đối diện, bể làm hai. Morfin phát ra một trận cười điên dại. Lão gaunt gào lên, “Gắn lại, đồ bị thịt vô dụng, gán nó lại!” Merope luýnh quýnh trượt ngang căn phòng, nhưng trước khi cô ta kịp giơ cây đũa phép của mình lên, ông Ogden đã giơ cây đũa phép của ông lên và kiên quyết hô “Chữa lành”. Cái nồi tự liền lại tức thì. Mất một lúc, lão Gaunt có vẻ như sắp quát vào mặt ông Ogden nhưng rồi dường như nghĩ lại: thay vì vậy, lão quay qua giễu cợt con gái của mình: “hên cho mày là cái ông tử tế của Bộ đang ở đây, hả? Có thể ông ta sẽ đem mày thoát khỏi tay tao, có thể ông ta không chê thứ á phù thủy nhớp nhúa...” Không nhìn ai mà cũng không cảm ơn ông Ogden, Merope lượm cái nồi lên, rồi đặt nó trở lại trên kệ bằng đôi tay run rẩy. Xong cô ta đứng thật yên lặng, lưng dựa vào bức tường giữa cái cửa sổ cáu bẩn và cái bếp lò, như thể cô chẳng mong ước gì hơn là lún vào trong bức tường đá đó mà biến mất cho rồi. “Ông Gaunt à,” ông Ogden lại bắt đầu nói. “Như tôi đã nói: lý do việc thăm viếng của tôi là...” “Tôi nghe ông nói lần đầu rồi!” lão Gaunt nạt ngang. “Vậy thì sao? Morfin tiện tay quay một tên Muggle một tí... vậy thì sao nào?” “Morfin đã vi phạm Luật Pháp thuật,” ông Ogden nghiêm nghị nói. “Morfin đã vi phạm Luật Pháp thuật,” lão Gaunt nhại lại giọng ông Ogden, làm cho nó trịnh trọng và ngân nga. Morfin lại cười khằng khặc. “Nó đã dạy cho tên Muggle bẩn thỉu một bài học, chuyện đó bây giờ là bất hợp pháp à?” “Vâng,” ông Ogden nói. “Tôi e là như vậy.” Ông rút từ túi áo trong ra một cuộn giấy da và mở ra. “Vậy thì, cái gì đó, bản án của nó đó hả?” lão Gaunt nói, giọng cất cao giận dữ. “Đây là trát đòi hầu tòa của Bộ...” “Trát! Trát? Ông tưởng ông là ai mà dám ra trát đòi con trai tôi đi bất cứ đâu hả?” “Tôi là Trưởng Đội Thi hành Luật Pháp thuật,” ông Ogden nói. “Và ông tưởng bọn ta là đồ cặn bã hả?” Lão Gaunt gào lên, lúc này đã tiến tới trước mặt ông Ogden, chĩa một ngón tay có móng vàng khè vào ngực ông ta. “Đồ cặn bã chạy quắn đít lên khi Bộ ra lệnh à? Ông có biết ông đang nói chuyện với ai đây không, hả đồ Máu Bùn nhãi nhép bẩn thỉu?” “Tôi có cảm giác là mình đang nói chuyện với ông Gaunt,” ông Ogden nói, có vẻ đề phòng, nhưng vẫn kiên quyết. “Đúng vậy!” Lão Gaunt rống lên. Trong một thoáng, Harry đã tưởng lão Gaunt làm một động tác tay tục tĩu, nhưng nó kịp nhận ra lão ta chỉ giơ cho ông Ogden xem một chiếc nhẫn cẩn đá đen xấu xí mà lão đeo ở ngón tay giữa. Lão ta quơ quơ ngón tay đeo nhẫn trước mắt ông Ogden. “Thấy cái này không? Thấy không? Biết là cái gì không? Biết xuất xứ của nó không? Nó thuộc về gia đình tôi hàng thế kỷ rồi, gia đình chúng tôi lâu đời như thế đó, và hoàn toàn thuần huyết suốt từ xưa đến nay! Biết người ta từng ra giá với tôi bao nhiêu cho cái này không, với huy hiệu dòng họ Peverell khắc trên mặt đá đen?” “Tôi không biết,” ông Ogden nói, chớp chớp mắt khi chiếc nhẫn được gí vô sát mũi ông chừng ba phân, “và chuyện đó đi lạc đề khá xa, ông Gaunt à. Con trai ông đã phạm...” Hú lên một tiếng giận dữ, lão Gaunt chạy về phía cô con gái. Tzrong một nửa giây, Harry tưởng đâu lão ta sắp bóp họng Merope khi lão vung tay lên cổ họng cô ta; nhưng ngay sau đó, lão lôi cô ta về phía ông Ogden bằng một sợi dây chuyền vàng đeo quanh cổ cô. “Thấy cái này không?” Lão ta gầm lên với Ogden, lắc lắc một cái mề đay vàng khá nặng vào mặt ông, trong khi Merope ú a ú ớ, miệng mồm há hốc ra để thở. “Tôi thấy, tôi thấy!” ông Ogden vội vàng nói. “Của Slytherin!” Lão Gaunt gào lên. “Của Salazar Slytherin! Chúng tôi là cháu chắt thừa kế chính thống của cụ, ông nói sao về chuyện này hả?” “Ông Gaunt, con gái của ông kìa!” ông Ogden lo lắng nhắc chừng, nhưng lão Gaunt đã buông Merope ra; cô bèn lê lết tránh xa ông bố, quay trở lại cái góc của mình, xoa xoa cái cổ và hớp lấy hớp để không khí. “Thế đấy!” Lão Gaunt nói giọng đắc thắng, như thể vừa chứng minh xong một điểm mấu chốt phức tạp vượt xa tất cả mọi tranh luận. “Ông liệu hồn đừng có mà đi nói chuyện với chúng tôi như thể chúng tôi là bùn đất dính dưới giày của ông! Hàng bao thế hệ thuần huyết, tất cả đầu là phù thủy… Tôi dám nói là nhiều hơn số ông tính ra!” Và lão giẫm giẫm cái sàn chỗ ông Ogden đứng. Morfin lại cười sằng sặc. Merope không nói gì, chỉ co rúc bên cạnh cửa sổ, đầu cúi gục và gương mặt giấu trong mái tóc rũ xuống. “Ông Gaunt à,” ông Ogden kiên trì nói, “tôi e là cả tổ tiên của ông lẫn tổ tiên tôi không liên quan gì tới vấn đề trước mắt. Tôi đến đây bởi vì Morfin, Morfin và người Muggle mà cậu ấy trù ẻo hồi khuya hôm qua. Theo thông tin của chúng tôi” – ông Ogden liếc nhìn xuống cuộn giấy da của mình - “thì Morfin đã ếm một bùa hay ngải lên người Muggle nói trên, khiến người đó phát ban vô cùng đau đớn.” Morfin cười hinh hích. “Im đi, con,” lão Gaunt gầm gừ bằng Xà ngữ, và Morfin lại nín khe. “Nếu nó có làm vậy thì đã sao nào?” lão Gaunt ngang ngược nói với ông Ogden, “Tôi đoán ông đã chùi dùm cái mặt dơ của tên Muggle đó rồi chứ, và cả trí nhớ của thằng đó để tống…” “Đó đâu phải là vấn đề phải không ông Gaunt?” ông Ogden nói. “Đây là một cuộc tấn công không do khiêu khích trong một trường hợp không có sự phòng vệ…” “Hừ, tôi đã thấy rõ ông là một kẻ khoái Muggle ngay từ lúc mới gặp ông,” lão Gaunt khinh khỉnh nói, và lại giẫm giẫm lên sàn nhà một lần nữa. “Cuộc tranh luận này chẳng đưa chúng ta tới đâu cả,” ông Ogden quả quyết nói. “Có thể thấy rõ ràng qua thái độ của con trai ông là cậu ta không hề cảm thấy hối hận về hành động của mình.” Ông liếc xuống cuộn giấy da một lần nữa. “Morfin sẽ ra tòa vào ngày mười bốn tháng chín để trả lời về sự cáo buộc đã dùng pháp thuật trước mặt một Muggle và khiến cho Muggle đó bị tổn thương và đau khổ…” Ông Ogden ngừng lại. Có tiếng vó ngựa lọc cọc, nhạc ngựa leng keng, và tiếng cười to vọng vào khuôn cửa sổ mở. Dường như con đường quanh co dẫn vào làng chạy rất sát chòm cây bao bọc ngôi nhà. Lão Gaunt đứng bất động, lắng nghe, hai mắt lão mở to. Morfin rít lên và quay mặt về phía phát ra âm thanh, có vẻ thèm thuồng. Merope ngẩng đầu lên. Harry thấy gương mặt cô ta trắng như bột. “Chao ôi, một cảnh ngứa mắt gì đâu!” Giọng một cô gái vang lên, nghe rõ qua khung cửa sổ mở như thể cô ta đang đứng trong cùng một căn phòng với họ. “ba anh không thể cho dọn dẹp cái chòi nát đó sao, anh Tom?” “Cái đó đâu phải của nhà anh,” giọng một chàng trai trẻ. “Mọi thứ bên kia thung lũng đều thuộc về gia đình anh, nhưng cái chòi đó thuộc về một lão bá vơ tên là Gaunt và con cái lão. Thằng con khùng lắm, chắc em có nghe mấy chuyện người ta đồn đãi trong làng…” Cô gái phá ra cười. Tiếng nhạc ngựa leng keng và tiếng vó ngựa lộc cộc vang lên càng lúc càng to hơn. Morfin làm như thể muốn nhảy ra khỏi cái ghế bành nó đang ngồi. “Ngồi yên!” Cha nó nói bằng Xà ngữ, giọng răn đe. “Anh Tom à,” giọng cô gái lại vang lên, bây giờ nghe rõ đến nỗi hẳn là họ đang ở bên cạnh căn nhà, “có thể em nhầm – nhưng có ai đó đã đóng đinh một con rắn lên cửa, phải không?” “Úi trời ơi, em nói đúng!” giọng chàng trai nói. “Chắc là thằng con trai, anh đã nói với em là thằng đó khùng mà. Đừng nhìn nó, Cecilia, cưng của anh.” Tiếng nhạc ngựa leng keng và tiếng vó ngựa lộc cộc bây giờ lại nghe nhỏ dần. “Cưng của anh,” Morfin thì thầm bằng Xà ngữ, nhìn cô em gái. “Hắn gọi con đó là “Cưng của anh”. Vậy là đằng nào đi nữa hắn cũng không thèm mày.” Merope trắng nhợt đến nỗi Harry cảm thấy chắc là cô ta sắp xỉu. “Chuyện gì hả?” Lão Gaunt nói sẵng giọng, cũng bằng Xà ngữ, hết nhìn con trai tới nhìn sang con gái. “Mày nói cái gì hả, Morfin?” “Nó khoái ngó thằng Muggle đó,” Morfin nói, một vẻ đồi bại hiện ra trên gương mặt khi hắn nhìn chòng chọc cô em gái, cô ta tỏ ra khiếp sợ cực kỳ. “Luôn luôn ở trong vườn mỗi khi thằng ấy đi ngang, dòm hắn qua giậu cây, có không? Và tối hôm qua…” Merope ngắc ngứ lắc đầu vẻ van xin, nhưng Morfin vẫn nói tiếp một cách tàn nhẫn, “đeo ở cửa sổ chờ hắn đánh xe ngựa về nhà, có không?” “Đeo ở cửa sổ để ngóng một thằng Muggle à?” Lão Gaunt rít lên trong miệng. Cả ba cha con nhà Gaunt hầu như quên béng sự có mặt của ông Ogden, ông này tỏ vẻ vừa ngơ ngáo vừa bực bội trước đợt rít khè và nghiến ngót mới mà ông không hiểu gì ráo. “Có đúng không?” Lão Gaunt hỏi bằng một giọng lạnh băng, tiến một hai bước về phía cô con gái đang khiếp đảm. “Con gái của ta, dòng dõi thuần khiết của Salazar Slytherin – mà si mê một thằng Muggle máu bùn nhơ nhuốc à?” Merope lắc đầu như điên, ép sát mình vào tường, dường như không thể thốt nên lời. “Nhưng mà con trị hắn rồi, Bố!” Morfin cười khằng khặc. “Con đã trị hắn khi hắn đi ngang qua đây và hắn hết còn đẹp trai khi ban cua nổi khắp mình mẩy, há Merope?” “Mày, đồ á phù thủy nhãi ranh gớm ghiếc, đồ phản bội huyết thống bẩn thỉu!” Lão Gaunt rống lên, mất hết bình tĩnh, và hai bàn tay lão siết quanh cổ họng cô con gái. Cả Harry và ông Ogden cùng lúc hét lên: “Đừng!” Ông Ogden giơ cây đũa phép lên và hô, “Buông ra!” Lão Gaunt bị văng ngược ra sau, cách xa cô con gái; lão ta vấp vào một cái ghế và té chỏng gọng. Rống lên một tiếng giận dữ, Morfin nhảy bọt ra khỏi ghế nhào vô ông Ogden, vung vẩy con dao đẫm máu trong tay và phóng bừa bãi bùa phép từ cây đũa phép của gã. Ông Ogden chạy thí mạng. Cụ Dumbledore ra dấu rằng hai thầy trò cũng nên chạy theo và Harry vâng lời, tiếng gào thét của Merope còn vang vọng trong lỗ tai nó. Ông Ogden chạy khỏi con đường mòn, hai tay vòng lên che đầu, và phóng ra con đường chính, đâm sầm vô một con ngựa nâu lông mượt do một chàng trẻ tuổi tóc đen đẹp trai cỡi. Cả chàng ta và cô gái xinh đẹp cỡi con ngựa xám bên cạnh đều phá ra cười ngặt nghẽo trước cảnh tượng ông Ogden đâm sầm vô hông con ngựa rồi lồm cồm đứng dậy chạy bán mạng ngược lên con đường, cái áo khoác thầy tu phất phơ che trùm từ đầu đến chân. “Thầy nghĩ điều đó là đủ rồi, Harry à,” cụ Dumbledore nói. Cụ nắm lấy cùi chỏ Harry và kéo mạnh. Tích tắc sau, cả hai thầy trò lại bay vọt lên xuyên qua bóng tối một cách nhẹ tênh, cho đến khi cả hai đáp xuống, đứng đối diện nhau, trong văn phòng của cụ Dumbledore lúc này đã mờ tối. “Cô gái ở trong cái chòi có bị chuyện gì không?” Harry hỏi ngay, trong khi cụ Dumbledore thắp thêm đèn bằng một cái phẩy nhẹ cây đũa phép. “Cai cô tên Merope, hay tên gì gì đó?” “À, cô ta sống sót,” cụ Dumbledore nói, vừa ngồi xuống sau bàn làm việc và ra dấu cho Harry cũng ngồi xuống. “Ông Ogden độn thổ trở về Bộ và chỉ trong vòng mười lăm phút sau đã trở lại với quân tiếp viện. Morfin và cha nó cố gắng chống trả, nhưng cả hai bị chế ngự, bị đưa ra khỏi chòi, và sau đó bị Tòa án Pháp thuật kết án. Morfin, vì vốn có tiền án về tấn công Muggle, nên đã bị kêu án ba năm ở nhà ngục Azkaban. MarVoldermorto, kẻ đã gây thương tích cho ông Ogden và nhiều nhân viên khác của Bộ Pháp thuật thì bị tù sáu tháng.” “MarVoldermorto à?” Harry ngạc nhiên lặp lại cái tên. “Đúng vậy,” cụ Dumbledore nói, mỉm cười xác nhận. “Thầy hài lòng là con theo kịp câu chuyện.” “Vậy lão già đó là…?” “Ông ngoại của Voldermort, đúng vậy,” cụ Dumbledore nói. “MarVoldermorto cùng con trai Morfin và con gái Merope là hậu duệ cuối cùng của dòng họ Gaunt, một dòng họ pháp sư rất lâu đời nổi tiếng về tánh khí hung tợn và bất thường truyền qua nhiều thế hệ do tập quán kết hôn với bà con họ hàng. Thiếu hiểu biết cộng với kiểu cách quí tộc phô trương đưa tới hậu quả là của nả dòng họ đã bị hoang phí qua nhiều thế hệ trước khi MarVoldermorto chào đời. Như con thấy đấy, ông ta sống trong cảnh nghèo nàn dơ dáy, tánh khí thô lỗ, và cực kỳ kiêu căng tự đại, với vài di sản của dòng họ mà ông ta nâng niu như con trai mình, và hơn cả con giá mình.” “Vậy Merope,” Harry chồm tới trước trên ghế của nó và nhìn đăm đăm cụ Dumbledore, “vậy Merope là… Thưa thầy, có phải điều đó có nghĩa cô ấy là… mẹ của Voldermort?” “Đúng vậy,” cụ Dumbledore nói. “Và ngẫu nhiên chúng ta cũng đã thoáng thấy cha của Voldermort. Thầy không biết con có để ý hay không?” “Có phải người Muggle mà Morfin đã tấn công không, thưa thầy? Người đàn ông cõi ngựa ấy?” “Đúng vậy,” cụ Dumbledore nói, tươi cười. “Phải, đó là Tom Riddle cha, cậu Muggle đẹp trai thường cỡi ngựa ngang qua căn chòi của gia đình Gaunt, người mà Merope phải lòng si mê đắm đuối.” “Và cuối cùng họ cưới nhau à?” Harry nói với vẻ không tin được, không thể tưởng tượng hai người không giống nhau chút nào ấy lại có thể yêu nhau. “Thầy nghĩ con quên mất,” cụ Dumbledore nói, “rằng Merope là một phù thủy. Thầy không tin rằng quyền năng pháp thuật của cô ta có thể bộc lộ ưu thế tối đa khi còn bị cha mình khủng bố. Một khi MarVoldermorto và Morfin đã ở yên trong nhà tù Azkaban, một khi cô ta được tự do một mình lần đầu tiên trong đời, thì thầy tin chắc, cô ta có thể bung ra để cho khả năng của mình phát triển hết mức và âm mưu một kế hoạch thoát khỏi cuộc sống vô vọng mà cô ta đã phải chịu đựng suốt mười tám năm… Con có thể nghĩ ra biện pháp nào mà Merope có thể dùng để khiến Tom Riddle quên đi người bạn tình Muggle, và phải lòng cô ta không?” “Lời nguyền Độc đoán?” Harry suy đoán. “Hay là Tình dược?” “Giỏi lắm. Về phần thầy thì thầy thiên về giả thuyết cô ta đã dùng một loại tình dược. Thầy chắc rằng như vậy sẽ lãng mạn hơn đối với cô ta, và thầy không nghĩ cô ta gặp khó khăn lắm trong việc mời Riddle một ly nước, vào một ngày nóng bức nào đó, khi Riddle đang cỡi ngựa về nhà một mình. Dù trường hợp nào xảy ra đi chăng nữa, thì chỉ trong vài tháng sau cái cảnh mà chúng ta vừa chứng kiến, ngôi làng Hangleton Nhỏ được thưởng thức một vụ xì căng đan khủng khiếp. Con có thể tưởng tượng thiên hạ đàm tiếu như thế nào khi con trai ông điền chủ trốn đi xây tổ uyên ương với Merope, con gái một kẻ bá vơ. Nhưng cái vụ tai tiếng chấn động cả làng ấy chẳng có nghĩa lý gì đối với MarVoldermorto. Ông ta từ nhà ngục Azkaban trở về, những mong thấy cô con gái của mình ngoan ngoãn chờ mình về với bữa ăn nóng dọn sẵn trên bàn. Nhưng thay vì vậy ông ta chỉ nhìn thấy một lớp bụi dày ba phân phủ trên bức thư vĩnh biệt giải thích việc cô con gái đã làm. Từ tất cả những gì mà thầy có thể khám phá ra, thì kể từ lúc đó trở đi, ông ta không bao giờ nhắc tới sự tồn tại của cô con gái nữa. Cơn khủng hoảng về sự bỏ trốn của cô con gái có lẽ đã góp phần làm cho ông ta chết sớm – hoặc cũng có thể ông ta chết vì không biết tự nấu ăn cho mình. Nhà ngục Azkaban đã làm cho MarVoldermorto thực sự suy yếu, và ông ta đã không sống được cho đến lúc nhìn thấy Morfin trở về căn chòi.” “Còn Merope? Cô ấy… cô ấy cũng chết sớm, phải không ạ? Chẳng phải là Voldermort được nuôi lớn lên trong một viện mồ côi sao?” “Thực ra, đúng như vậy,” cụ Dumbledore nói. “Ở đây chúng ta phải giả thiết một số thứ, mặc dù thầy nghĩ cũng không khó khăn lắm để loại trừ dần nhằm biết được điều gì đã xảy ra. Con thấy đó, trong vòng vài tháng trốn đi xây tổ uyên ương với nhau, Tom Riddle lại tái xuất hiện ở ngôi nhà trong trang trại ở làng Hangleton Nhỏ mà không dắt vợ cùng về. Chuyện đồn đại lan nhanh khắp trong vùng là anh ta nói gì đó về “bùa mê ngải lú” và bị “hớp hồn”. Điều anh ta muốn nói, thầy đoán chắc, là việc anh ta đã trải qua cơn mê ám rồi tỉnh ra, tuy nhiên thầy dám nói là anh ta không muốn nói thẳng ra những từ đó vì sợ bị coi là điên. Tuy nhiên, khi dân làng nghe anh ta nói thế, họ cũng đoán được là Merope đã dối gạt Tom Riddle, đã giả vờ như sắp có con, và vì vậy mà anh ta đã phải cưới cô ta.” “Nhưng cô ấy có con thực mà.” “Ấy là mãi một năm sau khi họ cưới nhau. Tom Riddle đã bỏ rơi vợ khi cô ấy đang có mang.” “Có chuyện gì trục trặc à?” Harry hỏi. “Tại sao tình dược hết hiệu nghiệm?” “Lại suy đoán nữa thôi,” cụ Dumbledore nói, “nhưng thầy tin là Merope, kẻ yêu chồng tha thiết, không thể chịu đựng hơn nữa cảnh nô dịch chồng bằng phương tiện pháp thuật. Thầy tin là cô ta đã tự nguyện ngưng cho chồng uống tình dược. Có thể, vốn mê muội, cô ta đã tin rằng giờ đây anh ta hẳn là đã đáp lại tình yêu của cô. Có thể cô ta nghĩ anh ta sẽ ở lại vì đứa con. Nếu vậy thì cô đã tính toán sai lầm trong cả hai trường hợp. Anh ta đã bỏ rơi cô ta, không bao giờ gặp lại cô ta, và không bao giờ bận tâm tìm hiểu coi con trai mình ra sao.” Bầu trời bên ngoài đã đen như mực và những ngọn đèn trong văn phòng cụ Dumbledore dường như chiếu sáng rạng rỡ hơn trước đó. “Thầy nghĩ hôm nay như vậy là đủ rồi, Harry à,” cụ Dumbledore nói, sau một lúc im lặng. “Dạ, thưa thầy,” Har nói. Nó đứng lên, nhưng chưa rời phòng. “Thưa thầy… biết tất cả những điều này về quá khứ của Vol có quan trọng không?” “Thầy nghĩ là rất quan trọng,” cụ Dumbledore nói. “Và nó… có liên quan gì đến lời Tiên tri không ạ?” “Nó có mọi thứ liên quan đến lời Tiên tri.” “Dạ,” Harry bối rối, nhưng cũng tin vậy. Harry quay lưng bước đi, chợt một câu hỏi nảy ra, nó bèn quay lại. “Thưa thầy, con có được phép kể cho Ron và Hermione mọi điều mà thầy vừa nói với con không?” Cụ Dumbledore cân nhắc ngó nó một lúc, rồi nói, “Được, thầy nghĩ cậu Weasley và cô Granger đã chứng tỏ là những người đáng tin cậy. Nhưng Harry à, thầy muốn đề nghị con hãy yêu cầu các trò ấy đừng kể lại cho bất kỳ ai khác nghe bất cứ điều gì về chuyện này. Sẽ chẳng hay ho gì nếu tin đồn lan ra là thầy biết được hay đoán được nhiều ít thế nào những bí mật của Chúa tể Voldermort.” “Thưa thầy, không đâu. Con sẽ bảo đảm là chỉ có Ron và Hermione thôi ạ. Chúc thầy ngủ ngon.” Nó lại quay lưng đi, và khi gần như đã ở ngưỡng cửa thì nón thấy cái vật đó. Nằm trên một trong mấy cái bàn nho nhỏ cao cẳng khẳng khiu bị đặt lên quá nhiều thứ dụng cụ bằng bạc, là một chiếc nhẫn vàng cẩn mặt đá đen to, nứt nẻ, xấu xí. “Thưa thầy,” Harry nói, vừa trố mắt nhìn chiếc nhẫn. “Cái nhẫn đó…” “Sao?” Cụ Dumbledore nói. “Thầy đã đeo nó khi chúng ta đến thăm giáo sư Slughorn đêm đó.” “Đúng vậy,” cụ Dumbledore đồng ý. “Nhưng chẳng phải… Thưa thầy, không phải đó cũng là chiếc nhẫn mà lão MarVoldermorto Gaunt đã đưa cho ông Ogden xem à?” Cụ Dumbledore cúi đầu. “Chính chiếc nhẫn đó.” “Nhưng mà làm sao…? Lâu nay thầy vẫn có nó sao?” “Không, thầy chỉ mới thu được nó gần đây thôi,” cụ Dumbledore nói. “Thực ra thì chỉ vài ngày trước khi thầy đến đón con ở nhà dì dượng con.” “Thưa thầy, vậy là vào khỏang thời gian thầy bị thương ở tay, phải không ạ?” “Ừ, vào khoảng đó Harry à.” Harry ngập ngừng. Cụ Dumbledore đang mỉm cười. “Thưa thầy, chính xác là làm thế nào mà…?” “Trễ quá rồi Harry à! Con nên nghe câu chuyện này vào lúc khác. Chúc con ngủ ngon.” “Dạ, chúc thầy ngủ ngon.”