ully là một con chó vàng bé nhỏ, bình thường, không thuộc loại chó nòi. Vả chăng loại chó vàng bình thường không nhất thiết phải có bộ lông vàng tuyền. Chó vàng bình thường nói chung không lập thành một nòi chó riêng khiến cho thiên nhiên phải tốn quá nhiều màu vàng cho nó. Trong mỗi con chó vàng bình thường đã tập trung đủ mọi nòi chó, thành ra nó là kết quả của sự liên minh tất cả các nòi chó mà chẳng thuộc vào nòi nào cả. Đồng thời mỗi con chó vàng bình thường lại thuộc nòi chó cổ xưa hơn và cũng tốt hơn bất cứ nòi chó quý phái nào, bởi vì nó là biểu hiện của sự nỗ lực của thiên nhiên phục hồi lại giống chó rừng nguyên thủy là tổ tiên của tất cả loài chó. Thực vậy, tên khoa học của chó rừng là "Canis aureus" chỉ đơn giản có nghĩa là "chó vàng". Và ta cũng gặp không ít nét đặc trưng của chó rừng ở những con chó vàng bình thường không phải loại chó nòi. Con chó thường này rất sáng dạ, được việc, dũng cảm và thích nghi dễ dàng nhất với cuộc sống vật lộn hơn bất kì con chó "thuần chủng" nào. Chúng ta hãy thử đem bỏ một con chó săn chân dài, một con chó ngao và một con chó vàng bình thường lên một đảo hoang. Con chó nào trong số ba con trên còn sống sót và khỏe mạnh sau nửa năm? Chắc chắn đó sẽ là con chó vàng bình thường, thấp kém không thuộc loại chó nòi. Nó không chạy nhanh bằng con chó săn chân dài nhưng lại không mang trong mình mầm mống của bệnh phổi và bệnh ngoài da. Nó dĩ nhiên cũng không thể so được với con chó ngao về sức lực và lòng dũng cảm không đắn đo, nhưng lại có một đức tính đáng giá gấp ngàn lần là trí khôn. Sức khỏe và trí khôn là những phẩm chất có nhiều giá trị trong cuộc đấu tranh sinh tồn, và một khi lũ chó không còn được con người che chở nữa thì chúng sẽ chết hết ngoại trừ loài chó vàng bình thường không phải là chó nòi. Đôi khi có con chó vàng bình thường rất giống chó rừng và sinh ra đời với đôi tai nhọn dựng đứng. Hãy coi chừng! Một con chó như vậy tinh ranh và dũng cảm, nó có thể cắn như sói. Trong bản thân nó chứa đựng tính hoang dã kì lạ mà ảnh hưởng của sự đối xử thô bạo hoặc cảnh thiếu thốn quá lâu sẽ làm cho nó sẵn sàng phản bội một cách dữ dội nhất, không đếm xỉa gì đến những đức tính tốt đẹp nhất của loài chó đã từng là cơ sở ràng buộc nó với người. I Con chó Wully bé nhỏ đã ra đời ở rất xa nơi đây, tại vùng núi Cheviots của xứ Scotland. Trong số tất cả các chú chó con chỉ còn lại có hai con là anh nó, một con chó rất giống con chó ưu tú ở vùng bên cạnh, và Wully - một con chó vàng bé xíu xinh đẹp. Wully đã trải qua thời thơ ấu trong sự đùm bọc của một con chó chăn cừu Scotland giàu kinh nghiệm, truyền dạy cho nó đủ mọi ngón nghề, và của một người chăn cừu già chẳng hề thua kém chúng nó về mặt trí tuệ. Khi Wully được hai tuổi nó đã là một con chó hoàn toàn trưởng thành và trông coi cừu rất khá. Nó biết tường tận từng con cừu non trong đàn, và người chăn cừu già Robin - chủ nó, rốt cuộc đã tin tưởng ở trí khôn và sự thận trọng của nó đến độ rất nhiều đêm lão cứ ngồi trong quán rượu để mặc cho Wully canh giữ những con cừu ngu ngốc đần độn ở ngoài đồi. Wully được dạy dỗ một cách khéo léo và là một con chó rất có năng lực, tương lai của nó đầy hứa hẹn. Tuy thế nó không mảy may có ý nghĩ coi thường ông chủ Robin đầu óc rỗng tuếch của nó. Lão chăn cừu già này có nhiều khuyết điểm và cả tật nghiện rượu nhưng ít khi đối xử tàn ác với Wully. Wully cũng rất quyến luyến lão, và một người vĩ đại nhất, thông minh nhất nước cũng khó lòng chiếm một tình cảm như thế. Wully không thể tưởng tượng được có người nào vĩ đại hơn Robin, nhưng kì thật thì cả trí óc lẫn thể xác đáng giá năm silinh mỗi tuần của lão đều thuộc quyền sở hữu một nhà tiểu công nghiệp chăn nuôi, người chủ thực sự của bầy gia súc mà Wully trông coi. Và khi tuân theo lệnh của con người đó - một người mà so về tính nhỏ nhen thì sánh ngang một địa chủ địa phương - Robin lùa ba trăm bảy mươi tư con cừu đến hội chợ Yorkshire thì trong đám ba trăm bảy mươi nhăm con vật sống, Wully là con vật hấp dẫn nhất và sáng dạ nhất. Cuộc hành trình suốt dọc vùng Northumberland diễn ra êm thấm. Người ta chở cừu qua sông Tyne bằng phà và cập bến an toàn đến thành phố South Shields mù mịt khói. Những ống khói nhà máy đồ sộ vừa mới phun ra những cột khói đen kịt che lấp hết ánh sáng ban ngày và bao trùm phố xá như hệt một đám mây dông, thế là bầy cừu đã tưởng dông bão sắp nổ ra. Chúng sợ phát khiếp lên và bất chấp mọi nỗ lực của những người canh giữ chúng bỏ chạy tản mát khắp thành phố theo ba trăm bẩy mươi tư hướng khác nhau. Robin phẫn nộ đến tận đáy cái tâm địa hèn mạt của lão. Lão đờ đẫn nhìn theo bầy cừu và sau đó ra lệnh. - Wully, tập hợp chúng lại! Sau khi cố gắng động não một cách phi thường như thế lão không còn lo lắng gì hơn nữa. Lão hút hết tẩu thuốc, ngồi xuống và bắt tay vào đan nốt chiếc bít tất còn dở dang. Wully tôn thờ Robin như vị chúa trời. Nó chạy khắp ba trăm bảy mươi tư hướng khác nhau, tóm gọn và đưa đủ ba trăm bảy mươi tư kẻ trốn chạy trở về căn nhà nhỏ bên bến phà trước khi Robin kịp đan xong chiếc bít tất. Cuối cùng Wully chứ không phải Robin ra dấu rằng tất cả cừu đã được tập hợp đông đủ. Lão chăn cừu già bắt đầu đếm cừu: … 370, 371, 372, 373… - Wully, - lão nói với con chó bằng một giọng trách móc, - chưa đủ tất cả! Còn thiếu một con. Tìm tiếp đi! Và Wully vô cùng mắc cỡ lại chạy khắp thành phố tìm con cừu còn thiếu. Ngay sau đó một chú bé con nào đó trỏ cho Robin thấy sai lầm của lão: tất cả ba trăm bảy mươi tư con cừu đều có mặt đầy đủ. Lão già bối rối. Biết làm thế nào bây giờ? Lão được lệnh nhanh chóng đi Yorkshire, vả lại lão biết rõ lòng kiêu hãnh không cho phép Wully quay trở về mà không có cừu, có thể nó sẽ ăn trộm đâu đó một con cừu lạ đem về. Một việc tương tự như thế đã từng xảy ra trước đây và đã gây ra bao nhiêu chuyện rắc rối khó chịu. Robin thấy vô cùng khó xử. Lão phải làm gì bây giờ đây? Bởi vì lão có thể do đó mà bị mất năm silinh mỗi tuần! Quả thực Wully là một con chó tuyệt diệu và bỏ nó thì rất tiếc, nhưng lệnh của chủ thì phải chấp hành. Ngoài ra lại còn vấn đề, nếu như Wully cuỗm thêm một con cừu nữa đem về đàn của lão thì ai mà biết được sẽ xảy ra điều gì với Robin ở cái nơi xa lạ này? Những suy nghĩ đó đưa đến kết quả là Robin quyết định bỏ rơi Wully và tiếp tục lùa cừu đi. Lão có kết thúc tốt đẹp cuộc hành trình hay không thì không rõ, vả chăng chuyện đó cũng chẳng có gì đáng chú ý cả. Trong khi ấy Wully chạy khắp xó xỉnh tìm kiếm vô vọng con cừu lạc. Nó tìm suốt ngày, và đến đêm quay trở về bến phà, đói khát, mệt mỏi và với vẻ mặt một kẻ phạm lỗi, thì thấy chủ và bầy cừu đã biến mất khỏi đó rồi. Nó đau khổ cùng cực đến nỗi nhìn nó thật đáng thương. Nó cứ rên ư ử, đau khổ chạy tới chạy lui, rồi theo phà sang bên kia bờ sông tìm kiếm Robin khắp nơi. Sau đó nó quay trở lại South Shields và tiếp tục công việc tìm kiếm suốt đêm. Cả ngày hôm sau nó đi tìm Robin và vài lần qua sông bằng phà hết bờ bên này lại sang bờ bên kia. Nó quan sát và ngửi hít từng người xuống phà, và nhanh trí một cách đáng kinh ngạc ghé vào tất cả các quán rượu quanh vùng hi vọng tìm thấy Robin ở đâu đó. Và ngày hôm sau nữa nó lại làm công việc đó, cứ lần lượt ngửi hít từng người đến bến phà. Chiếc phà này đi về năm mươi chuyến trong một ngày và chuyên chở trung bình mỗi chuyến khoảng một trăm người, nhưng Wully lần nào cũng đứng bên cầu phà và đánh hơi từng đôi chân bước lên bờ. Hôm đó nó theo dõi không dưới năm ngàn, có khi đến mười ngàn đôi chân. Sự việc cứ tiếp diễn sang ngày thứ hai, rồi ngày thứ ba, và luôn cả tuần lễ. Nó cứ đứng ở vị trí của mình, quên cả chuyện ăn uống. Nhưng chẳng bao lâu nó cũng cảm thấy đói và mệt mỏi rõ rệt. Nó gầy xẹp đi và rất dễ nổi nóng đến nỗi chỉ một ý định cỏn con ngăn trở công việc hằng ngày của nó là ngửi hít chân người cũng đủ làm cho nó bị kích động tột độ. Ngày lại ngày, tuần qua tuần Wully cứ chờ đợi và mong ngóng người chủ chăng thấy quay về. Những người lái phà khâm phục lòng trung thành của nó. Thoạt đầu nó coi khinh thức ăn và sự che chở mà người ta mang đến cho nó, và không ai biết nó ăn cái gì, nhưng cuối cùng cơn đói cũng bắt nó phải nhận của bố thí. Nó căm ghét cả thế gian nhưng vẫn trung thành với chủ cũ. Tôi làm quen với Wully sau đó mười bốn tháng. Nó vẫn kiên trì đứng gác bên bến phà. Nhưng nó đã khỏe ra và béo lên. Bộ mặt sáng sủa, cặp mắt long lanh, đôi tai nhọn hoắt của nó thu hút sự chú ý một cách đặc biệt. Nó vừa mới khẳng định chân tôi không phải là cái mà nó cần tới là đã chẳng để ý gì đến tôi nữa rồi. Và mặc dù tôi cố gắng suốt trong mười tháng sau xây đắp tình bạn với nó, tôi cũng chẳng đạt được một kết quả nào. Đối với nó giá trị con người tôi không hơn bất kì một người qua đường nào khác. Cứ như thế con chó trung thành ấy sống bên bến phà suốt hai năm trời. Nó không trở về vùng núi quê hương không phải vì sợ lạc đường hoặc vì khoảng cách quá xa xôi cách trở. Không, nó không rời bến phà vì tin chắc chủ nó - lão Robin thần thánh muốn nó ở lại đó. Và thế là nó ở lại. Tuy nhiên nó cũng đi phà qua bờ bên kia mỗi lúc nó cảm thấy việc đó có thể giúp ích cho nó trong việc tìm kiếm. Cứ mỗi chuyến qua phà của một con chó thì bị phạt một penny, và đến khi Wully kết thúc công cuộc tìm kiếm thì những người lái phà tính ra là nó đã nợ cả nhóm họ đến vài trăm bảng. Wully không bỏ sót một người hành khách nào vừa đặt chân tới bến. Tính chung nhà khảo sát kì lạ này đã khám xét gần sáu triệu cái chân. Và tất cả đều vô ích. Nhưng lòng trung thành không hề dao động của nó vẫn cứ như trước kia, mặc dù tính tình nó rõ ràng đã bị méo mó đi do ảnh hưởng của việc chờ đợi quá lâu như vậy. Chúng tôi không biết đã có chuyện gì xảy ra với Robin. Nhưng có lần một người chăn gia súc vạm vỡ bước xuống phà. Lúc Wully ngửi người lạ mặt đó theo thói quen, nó bỗng dưng nhảy cẫng lên. Lông nó xù ra, người nó run bần bật. Sau đó nó khe khẽ rên, hướng cặp mắt tha thiết nhìn người chăn gia súc. Không hiểu chuyện gì, một người lái phà kêu lên với anh ta: - Này, anh bạn, đừng chọc giận con chó của chúng tôi! - Ai lại đi chọc giận một con chó bao giờ hả đồ ngốc? Chính nó chọc giận tôi thì có. Nhưng chẳng cần phải giải thích thêm nữa. Tính tình Wully lập tức thay đổi. Nó âu yếm người lạ mặt đến mức khúm núm, gắng sức ve vẩy đuôi, một điều chưa từng thấy ở nó suốt mấy năm qua. Sự việc thật đơn giản: người chăn gia súc Dorley trước kia có quen Robin, cái khăn quàng và đôi bao tay ông ta mang có liên quan đến Robin vì trước kia chính lão già kia dùng chúng. Wully đánh hơi thấy, và do nó thất vọng thấy là không thể gặp được chính bản thân lão vào một lúc nào đó nên đã rời bỏ vị trí bên bến phà và quyết định đi theo người có đôi bao tay. Dorley rất hài lòng và sẵn sàng mang Wully đi theo về vùng núi Derbyshire, ở đó Wully lại quay về với trách nhiệm cũ của nó là trông coi đàn cừu. II Monsaldale là một trong những thung lũng nổi tiếng của vùng Derbyshire. Ở đó có một quán rượu duy nhất nhưng nổi tiếng gọi là quán "Con heo và cái còi", và chủ quán là Jo Greatorex, một gã người Yorkshire sáng dạ, lực lưỡng. Tạo hóa chỉ định gã làm người đi chinh phục những vùng đất không người ở, nhưng cuộc đời đã biến gã thành chủ quán rượu. Tuy nhiên những năng khiếu bẩm sinh ép buộc gã… Nhưng có gì là quan trọng nhỉ? Chỉ cần nói một điều là đủ: ở vùng này việc đi săn trái phép rất phổ biến. Bây giờ Wully sống ở mạn thung lũng phía đông, ngay phía trên quán rượu của Jo, và tình hình này có một ý nghĩa nhất định khi tôi quyết định đến ở Monsaldale. Dorley, người chủ mới của Wully, có một cánh đồng không lớn lắm trong thung lũng. Trên đồng cỏ ông ta chăn thả một đàn cừu khá đông. Wully cảnh giác canh giữ chúng cũng y như với đàn cừu trước, theo dõi chúng trong lúc chúng ăn cỏ và lùa chúng về ngủ đêm ở chuồng cừu. Nó trở thành một con chó không thích giao thiệp, cau có và sẵn sàng nhe nhanh ra với người lạ. Nhưng đàn cừu được canh giữ cẩn thận đến mức Dorley không mất một con cừu non nào trong suốt năm, mặc dù các trại gần đó thường xuyên khổ sở vì lũ chim ưng và cáo. Tại vùng này thật khó lòng tổ chức được một cuộc săn cáo bằng chó. Hàng dãy vách đá, những bờ rào đá cao và những vực thẳm cản trở việc phi ngựa theo đàn chó, mà ở bên vách núi thì lũ cáo có biết bao nhiêu nơi ẩn nấp chắc chắn, đến nỗi chúng ta chỉ nên lấy làm ngạc nhiên vì không hiểu tại sao chúng lại không sinh sôi nảy nở nhiều hơn. Tuy thế người ta cũng không hề phàn nàn về lũ cáo cho mãi đến năm 1881. Nhưng sau đó có một con cáo già tinh khôn đến sống ở gần bãi chăn thả, hệt như chuột sa chĩnh gạo. Nó cười nhạo cả đàn chó của thợ săn lẫn lũ chó canh giữ của các chủ trại. Trong các cuộc săn đàn chó đã nhiều lần rượt theo con cáo ấy, nhưng bao giờ nó cũng trốn thoát trong khu vực Hang Quỷ. Cứ đến được cái hẻm vực đó, nơi khe nứt trong vách đá kéo dài hàng dặm là con cáo được an toàn tuyệt đối. Các chủ trại quanh vùng hiểu ngay rằng không phải bỗng nhiên mà con cáo lại ưa thích khu vực Hang Quỷ, và đến khi có một con chó thiếu chút nữa tóm được con cáo ở bên lối vào hẻm vực nhưng sau một tuần đã hóa dại thì ai cũng tin rằng con cáo đó là anh em ruột của quỷ dữ. Trong lúc đó con cáo vẫn tiếp tục bắt cừu non, gây ra những vụ quấy rối vô cùng táo tợn. Tính mạng nó luôn luôn như treo trên sợi tóc mà lần nào nó cũng thoát được. Cuối cùng, nó bắt đầu giết chóc chỉ vì thích làm thế, giống y như nhiều con cáo già vẫn thường làm. Chủ trại Digby mất mười con cừu non chỉ trong một đêm, chủ trại Carroll mất bảy con ngay đêm sau, còn đêm sau nữa thì cái ao vịt của cha đạo sạch trơn. Tóm lại hiếm có đêm nào mà không có một người nào đó trong vùng lân cận không than phiền về vụ mất mát gia cầm, cừu và cả ngựa non nữa. Tất cả những vụ tàn sát đó đều được gán cho con cáo ở Hang Quỷ. Về con cáo đó người ta chỉ biết là nó rất lớn, bởi vì nó để lại những vết chân lớn. Nhưng không có người thợ săn nào có dịp thấy rõ nó. Những con chó tốt nhất trong đàn chó săn là con Sấm và con Chuông khi tìm được dấu vết con cáo lại không sủa và còn nhất quyết không đuổi theo dấu vết đó. Và khi người cầm đầu phường săn địa phương nghe đồn rằng con cáo đó điên thì anh ta tránh không đến săn ở thung lũng Monsaldale nữa. Thế là trong cuộc họp do Jo chủ tọa, các chủ trại đã quyết định đợi đến mùa đông, khi có tuyết rơi xuống, sẽ cùng nhau hợp sức thanh toán con cáo đáng nguyền rủa đó, không cần phải chú ý đến luật lệ nào nữa. Nhưng tuyết vẫn chưa rơi xuống mà tên kẻ cướp lông hung đó cứ tiếp tục lối sống của nó như trước. Mặc dù nó điên nhưng nó hành động rất khéo léo và tinh ranh. Nó không bao giờ đến thăm cùng một trang trại liền hai đêm. Nó không bao giờ ăn thịt ngay con mồi tại nơi nó vừa giết chết con vật, và không bao giờ để lại một dấu vết tiết lộ sự tháo lui của nó. Dấu vết thường mất đột ngột đâu đó trên cỏ khô hoặc trên đường đi. Dù sao tôi cũng đã có lần trông thấy nó. Một buổi tối, trời đã muộn tôi từ Bakewell quay về Monsaldale giữa lúc đang có bão lớn. Tôi đang đi vòng quanh bãi vây cừu của Stead thì đột nhiên có một tiếng sét nổ, và trong ánh chớp lóe sáng tôi trông thấy một cảnh tượng không bao giờ có thể quên được. Một con cáo lớn ngồi trên hai chân sau bên đường đi, cách chừng hai mươi bước, và nó nhìn tôi một cách hung dữ, cái lưỡi liếm mép một cách khả nghi. Tôi không trông thấy gì sau đó nữa, và có lẽ tôi đã quên luôn cuộc gặp gỡ này hoặc cho rằng mình đã tưởng tượng ra con cáo, nếu như sáng hôm sau người ta không tìm thấy hai mươi ba cái xác cừu non và cừu lớn ở bãi vây đó. Chỉ có một người không bị con thú dữ đột kích: đó là Dorley. Ông sống ở nơi cách Hang Quỷ một dặm, thế mà con cáo không hề động chạm đến cừu của ông. Con Wully trung thành đã chứng minh rằng nó đáng giá bằng tất cả lũ chó của những người láng giềng. Chiều nào nó cũng lùa cừu về, tất cả số cừu đều đầy đủ. Không có con nào thiếu cả. Con cáo điên có thể mò đến bất luận nơi nào ở vùng lân cận trang trại của Dorley, nhưng con Wully đúng là kẻ địch thủ xứng đáng của nó, một địch thủ dũng cảm, thông minh, tháo vát không những đã bảo vệ nguyên vẹn đàn cừu của chủ mà còn giữ được bản thân mình bình yên vô sự. Mọi người đều trọng vọng Wully, và có lẽ nó đã trở thành con vật được mọi người yêu mến nếu như nó không có tính nết ngang ngạnh. Nó chưa bao giờ biểu lộ tính cách vui vẻ, nhưng bây giờ càng ngày lại càng cáu kỉnh hơn. Con chó dường như chỉ gắn bó với Dorley và người con gái lớn của ông ta là Huldah, một cô gái xinh đẹp, vui vẻ trông coi việc nội trợ và nuôi nấng con chó. Đối với những người khác trong gia đình, Wully chỉ tỏ thái độ cam chịu, còn toàn bộ thế giới còn lại - tức là cả người lẫn chó, thì nó đều căm thù. Một bữa tôi đi theo lối mòn ngang qua bãi trống đằng sau nhà Dorley. Con Wully đang nằm trên ngưỡng cửa. Khi tôi đến gần, nó đứng dậy và không tỏ vẻ gì chú ý đến tôi cả, nó tiến ra lối mòn và dừng lại cách tôi chừng mười bước. Nó đứng bất động, mắt nhìn lơ đãng ra xa và chỉ có cái cổ xù lông của nó hơi động đậy tí chút mới chứng tỏ rằng đó là một con chó còn sống chứ không phải là một pho tượng bằng đá. Khi tôi đi ngang nó, nó vẫn không động đậy. Tôi không muốn rắc rối với nó nên đã tránh nó và đi tiếp Lúc ấy con Wully như vụt sống lại. Nó vẫn lầm lì một cách đáng sợ như cũ nhưng chạy lên trước chừng hai chục bước và lại chắn ngang đường đi của tôi. Tôi lại đến ngang hàng với nó, và lại bước tránh sang bên bờ cỏ rồi đi ngang qua trước mũi nó. Nó liền ngoạm vào gót chân trái của tôi, mà không hề sủa một tiếng nào. Tôi giơ chân kia lên định đá nó nhưng nó đã tránh được. Vì không cầm sẵn gậy, tôi vớ một hòn đá to và ném nó. Hòn đá ném trúng mông nó khiến nó ngã nhào xuống rãnh. Bị ngã con chó gầm gừ giận dữ, nhưng sau khi bò lên khỏi rãnh thì nó lẳng lặng bỏ đi chỗ khác. Nhưng dù cho Wully cau có và hung dữ như thế nào với toàn thế giới đi nữa thì đối với những con cừu của Dorley mà nó trông nom nó cũng chăm sóc rất chu đáo. Người ta đã loan truyền nhiều câu chuyện về những chiến công của nó: nào là nó đã cứu những con cừu non bị sa xuống hố và đầm lầy mà nếu như không được cứu thì nhất định đã chết, nào là nó đã canh chừng rất tinh tường lũ chim ưng và dũng cảm đuổi chúng không cho đến gần đàn cừu… III Đến khi tuyết đã rơi, các chủ trại ở Monsaldale vẫn hàng đêm tiếp tục nộp lễ vật cho con cáo điên. Bà góa nghèo Widder Gelt bị mất toàn bộ bầy cừu hai chục con, và hôm sau mới rạng sáng cả làng đã kéo nhau đi tìm. Những chủ trại vai rộng công khai mang súng đi theo dấu vết con cáo tìm thấy trên tuyết - những vết chân lớn rõ ràng là vết chân của tên sát nhân hung thần. Lúc đầu vết chân khá rõ nhưng đến gần con sông thì con cáo đã cho thấy cái tinh ranh muôn thuở của nó: nó trườn xuống nước ở chỗ bờ dựng đứng và nhảy xuống dòng nước chưa đóng băng đang chảy xiết. Ở bờ bên kia không trông thấy dấu vết gì, và sau hồi lâu tìm kiếm những người đi săn mới tìm được nơi con cáo ra khỏi dòng nước. Dấu vết dẫn họ từ đó đến một tường đá cao không có tuyết. Nhưng những người đi săn kiên trì không muốn ngừng tìm kiếm. Đến khi dấu chân cắt ngang dải tuyết nằm giữa tường đá và con đường lớn thì những người đi săn có hai ý kiến khác nhau: một số người cho rằng dấu chân đi lên phía trên theo con đường, còn một số người khác thì ngược lại cho rằng dấu chân sẽ xuôi xuống phía dưới. Jo cứ để mặc cho mọi người tranh cãi, và sau một hồi lâu tìm kiếm nữa những người đi săn mới lại gặp dấu chân trước, tuy rằng có một số người cho rằng dấu chân này lớn hơn. Dấu chân này dẫn họ từ con đường đến bãi vây cừu lâu nay vẫn bình yên vô sự. Từ đó con vật tinh ranh đi theo vết chân của một người nào đó đi trên con đường làng dẫn thẳng đến trang trại của Dorley. Ngày hôm đó cừu ở nhà vì có tuyết xuống, và con Wully rảnh rang đang nằm sưởi nắng trên một tấm ván. Khi những người đi săn đến gần căn nhà, nó gầm gừ một cách dữ tợn và chạy đến chỗ bầy cừu. Jo Greatorex đi theo nó. Anh ta chăm chú nhìn theo vết chân con chó để lại và mặt bỗng tái đi. Anh ta trỏ vào con chó đang chạy đi và thốt kêu lên: - Này các bạn, chúng ta đã nghĩ rằng mình đang đi theo vết chân con cáo chứ? Thì đấy, nó chính là kẻ đã cắn chết những con cừu của bà góa kìa? Một số người tán thành ý kiến của Jo, nhưng một số khác nhớ lại việc nghi ngờ các dấu vết để lại trên con đường lúc trước nên đã đề nghị quay trở lại để phân tích cặn kẽ mọi nhẽ. Giữa lúc ấy chính ông Dorley từ trong nhà bước ra. - Tom này, - Jo Greatorex nói với ông, - con chó của anh đêm qua đã cắn chết hai chục con cừu của bà góa Widder Gelt, và tôi cho rằng đây không phải là lần đầu tiên nó làm những việc như thế đâu. - Này, ông bạn, - Tom Dorley phản đối, - rõ ràng là cậu say rượu rồi! Tôi chưa từng bao giờ có một con chó chăn cừu tốt hơn con Wully. Cừu đối với nó chẳng khác gì con cái nó đẻ ra như vậy. - Đừng hòng? Chúng tớ đã được thấy nó làm gì với lũ con cái nó ở nhà bà góa Widder Gelt rồi nhé? - Jo nhận xét. Những người đi săn đã uổng công vô ích thuyết phục Dorley khi kể cho ông ta nghe về những cuộc tìm kiếm từ hồi sáng của họ. Ông ta không muốn tin điều gì hết và khẳng định rằng họ đã bịa đặt ra tất cả những chuyện đó vì lòng đố kị để chiếm đoạt con Wully của ông ta. - Đêm nào Wully cũng ngủ trong bếp, - ông ta nói, - và người ta chỉ cho nó ra để canh gác bầy cừu. Nó sống với lũ cừu cả năm tròn rồi mà chúng tôi có mất mát một con nào đâu. Cậu có hiểu không, ông bạn? Tom Dorley rất xúc động, ông ta chỉ thấy mọi chuyện này là mưu toan xúc phạm đến sự sống và danh dự của Wully. Jo và những người ủng hộ anh cũng nổi sùng, và cuộc cãi lộn chỉ kết thúc khi Huldah xen vào. - Cha ơi, - cô ta nói, - hay là hôm nay con ngủ dưới bếp nhé? Nếu con Wully lẻn đi thì con sẽ trông thấy. Còn nếu như nó không ra ngoài ban đêm mà cừu của hàng xóm vẫn cứ bị giết thì có nghĩa là Wully không can dự gì vào đó cả. Huldah nói và làm đúng như thế. Cô ta ngủ trên một cái ghế dài kê trong bếp, còn con Wully vẫn cứ nằm dưới gầm chiếc bàn bếp như thường lệ. Sau một lúc con Wully tỏ vẻ bồn chồn. Nó trằn trọc trở mình trên cái ổ của nó; vùng dậy hai lần, duỗi chân dài ra, nhìn Huldah rồi lại nằm xuống. Đến hai giờ đêm rõ ràng là con Wully không thể nào chống lại được một sự thôi thúc bên trong bí hiểm nào đó. Nó lặng lẽ đứng lên, nhìn cái cửa sổ thấp rồi lại nhìn cô gái nằm không động đậy trên ghế dài, Huldah thở đều đều và nhè nhẹ dường như đã ngủ. Con Wully tiến lại gần hơn, ngửi hít cô và thở vào mặt cô. Nhưng cô gái không động đậy Nó bèn dùng cái mũi khẽ đẩy vào người cô, rồi thận trọng vểnh tai và nghiêng đầu nhìn chăm chú vào bộ mặt bình thản của cô. Huldah vẫn không động đậy. Bấy giờ con Wully mới rón rén nhẹ bước gần đến cửa sổ, dùng mũi nâng cái then ngang cái cánh cửa và nâng nó lên vừa đủ để luồn một bàn chân xuống dưới cánh cửa. Sau đó nó dùng mũi nâng cánh cửa lên và lách ra ngoài. Nó lấy lưng và đuôi giữ cho cánh cửa khép lại một cách khéo léo, chứng tỏ rằng nó từng làm việc này nhiều lần. Ra được ngoài cửa sổ rồi con Wully liền biến mất vào bóng đêm. Huldah vô cùng kinh ngạc lén theo dõi con chó. Cô chờ một chút và sau khi tin chắc rằng nó đã thực sự chạy đi rồi thì cô ngồi dậy và đã toan lên tiếng gọi bố. Song cô nghĩ lại và quyết định chờ đợi để xem việc gì xảy ra tiếp theo đó. Cô nhìn chăm chú vào bóng đêm nhưng chẳng thấy con Wully đâu cả. Cô gái cho thêm củi vào bếp lò rồi lại nằm xuống ghế dài. Cô cứ nằm như thế không ngủ đến hơn một giờ đồng hồ, giật mình trước từng tiếng sột soạt nhỏ và lắng nghe tiếng tích tắc của chiếc đồng hồ để trong căn bếp. Cô cứ phân vân suy nghĩ mãi về con chó; chẳng lẽ quả thực con Wully cắn chết cừu của bà góa ư? Sự phân vân lại càng tăng thêm khi cô nhớ lại thái độ ân cần vui vẻ của con Wully đối với lũ cừu của nhà mình. Lại một giờ nữa trôi qua. Huldah nghe thấy tiếng sột soạt ở bên ngoài cửa sổ, và tim cô đập mạnh. Cánh cửa sổ lại được nâng lên, và một phút sau con Wully đã luồn vào trong bếp sau khi hạ cánh cửa xuống phía sau nó. Dưới ánh sáng chập chờn của những thanh củi đang cháy Huldah nhận thấy ánh mắt của con chó có một vẻ man dại kì lạ và trông thấy có vết máu tươi ở mõm và bộ ngực trắng như tuyết của nó. Nó thở hổn hển nhưng cố nén và lại nhìn cô gái. Cô gái vẫn không động đậy. Lúc bấy giờ nó yên tâm nằm xuống và bắt đầu liếm chân chùi mõm rồi khe khẽ gừ gừ như tuồng nhắc lại một câu chuyện vừa xảy ra nào đó. Huldah hoàn toàn tin chắc rằng Jo Greatorex đã nói đúng. Thế là cô nghĩ ngay ra một điều khác. Cô vụt hiểu rằng, con cáo thành tinh, kì quặc của vùng Monsaldale đang ở đây, ngay trước mắt cô! Cô gái đứng phắt dậy, nhìn thẳng vào mắt con Wully và bèn thốt lên: - Wully! Wully! Thực vậy phải không? … Ôi Wully, mày là một con thú tàn ác biết bao!... Giọng nói của cô gái vang khắp căn bếp như một tiếng sét. Con Wully giật nảy người lên như là bị trúng đạn. Nó đưa mắt nhìn cái cửa sổ một cách tuyệt vọng. Cặp mắt nó rực sáng, lông nó dựng ngược, nhưng nó lại nằm bẹp xuống sàn và lết đến gần cô gái dường như để cầu xin lòng khoan dung. Nó cứ lết chậm chậm lại gần cô gái mãi dường như muốn liếm chân cô, nhưng vừa đến sát tới nơi thì đột nhiên nó hung dữ như một con hổ nhảy xổ vào cô gái cố ngoạm vào cổ cô, mà chẳng sủa lên một tiếng nào cả. Huldah chỉ vừa kịp giơ tay lên che lấy cổ, và những cái răng nanh dài sáng loáng của con Wully đã cắm ngập vào khuỷu tay cô tới tận xương. - Cứu! Cứu! Cha ơi! Cha ơi!... - Cô gái kêu toáng lên. Con Wully nhẹ cân nên cô gái hất được nó ra ngay. Nhưng chủ định của nó đã rõ: nó hiểu rằng nó đã thua cuộc rồi, và cuộc thua này, phải trả giá hoặc bằng mạng sống của nó hoặc bằng tính mạng cô gái. - Cha ơi! Cha ơi! - Cô gọi ầm lên, còn con thú lông vàng đang điên cuồng thì cố giết chết cô, răng nó cắn và nhay những bàn tay không gì bảo vệ đã từng biết bao nhiêu lần cho nó ăn… Cô gái cố vùng thoát ra một cách vô vọng khỏi con chó. Và có lẽ chắc chắn nó đã ngoạm được hàm răng vào cổ cô gái nếu như đúng phút ấy bố cô không chạy vào trong bếp. Con Wully lao thẳng vào người chủ trại, vẫn giữ nguyên vẻ lầm lì dễ sợ. Nó điên cuồng cắn xé tay ông ta, nhưng một nhát rìu khủng khiếp đã đập nó ngã lăn ra sàn nhà lát đá, ở đó nó bị những cơn đau trước lúc chết làm cho thở dốc lên và quằn quại nhưng vẫn còn cố gượng dậy để lao tiếp vào cuộc chiến đấu tuyệt vọng. Một nhát rìu chớp nhoáng nữa đập vỡ sọ nó, và óc nó chảy lênh láng trên nền đá căn nhà của chính con người mà nó từng phục vụ một cách lâu dài và trung thực. Và con Wully thông minh, hung dữ, trung thành, giảo quyệt giãy lên một cái, duỗi thẳng đơ ra và nằm yên vĩnh viễn…