Chương 17
Hội Đồng Bào Thân Ái
Phong Trào Ái Quốc Đầu Tiên tại Pháp

     han Văn Trường thành lập hội Đồng Bào Thân Ái
Về sự thành lập Hội Đồng Bào Thân Ái - La Fraternité des Compatriotes, Phan Văn Trường viết: "Một ngày trong năm 1912, sau khi đưa đám một thiếu niên An Nam, học sinh trường Parangon [trường Nguyễn Thế Truyền học từ năm 1910], một số đồng bào đưa ra ý kiến lập Hội Ái Hữu Sinh Viên An Nam tại Pháp - Association amicale des étudiants annamites en France. Họ đề nghị tôi nghiên cứu dự trình để thực hiện càng sớm càng tốt. Tôi trả lời ngay: "Làm thì dễ, Pháp đã có luật 1/7/1901, tự do lập hội. Nhưng luật không chưa đủ, còn phải tính đến chính sách thuộc địa nữa. Các bạn nên biết, nếu ta lập hội mà không có phép, chính quyền thuộc địa sẽ tìm cách dẹp ngay"657.
Tuy nói vậy, nhưng rồi ông cũng làm:
"Tôi bắt tay vào việc. Viết bản Điều lệ và một bài quảng cáo dài. Hội được thành lập trong sự hoan hỉ của đồng bào đã giao phó trách nhiệm cho tôi. Tôi yêu mến đặt tên nó là Thân Ái - La Fraternité. Hội có mục đích:
1/ Giúp sinh viên Đông Dương xa gia đình có cơ hội gặp gỡ, kết bạn, đến chơi và giúp đỡ nhau trong trường hợp rủi ro, bệnh hoạn.
2/ Học chung với nhau để trao đổi kiến thức khoa học và văn chương.
Hội Thân Ái mỗi tháng tổ chức nhiều cuộc hội họp"658. Bản Điều lệ của Hội được Lê Thị Kinh tìm thấy, dịch và đưa vào "Phan Châu Trinh Qua Các Tài Liệu Mới659. Ở dưới có ghi: "Dịch nguyên văn từ quốc ngữ ra tiếng Pháp. Lorin, giáo viên dạy tiếng An Nam Trường Thuộc Địa", nhưng bà không tìm thấy bản quốc ngữ. Điều này dễ hiểu, vì Phan Văn Trường, bản tính thận trọng, viết bản điều lệ bằng tiếng Pháp, nhưng đề tên Lorin dịch, nên không hề có bản tiếng Việt. Lê Thị Kinh tìm thấy một số tư liệu quý về Phan Văn Trường và Hội Đồng Bào Thân Ái, mà có lẽ lúc còn sống chính ông Phan cũng không biết.
Về ngày lập hội, Phan Văn Trường ghi trong hồi ký: "Tôi chưa bao giờ gặp ông (Trinh) ở trong nước. Tôi quen biết ông tại Paris năm 1912"660. Ông Trường nói vì đồng bào thúc đẩy nên ông mới đứng ra lập hội, viết bản điều lệ và đặt tên là Thân Ái nhưng ông không ghi rõ ngày tháng việc này. Albert Sarraut xác định chủ tịch là Phan Văn Trường. Và trong bản Điều lệ, khoản 1, ghi: "Nay thành lập một Hội của người nước Nam có tên gọi Hội "Đồng Bào Thân Ái". Trụ sở của hội tạm thời đặt ở nhà của vị chủ tịch".
Rất may Lê Thị Kinh tìm được mật báo đầu tiên về cuộc họp ở trường Parangon ngày 18/1/1912 về Hội Ái Hữu Đông Dương - Société de Secours Mutuels Indochinoise, trong có câu: "Sau đám tang của Dang [Đang?], ông Trinh và và những người cùng đi đã mời tất cả người Đông Dương đến họp nghe nói chuyện tại Parangon. Đó là một cuộc mời họp đột xuất. Ông Trinh cùng một người tôi không biết rõ tên đã nói trước tiên"661.
Điều này ăn khớp với những gì Phan Văn Trường viết trong hồi ký: Sau đám tang một học sinh Parangon, một số đồng bào đưa ra ý kiến lập hội Ái Hữu Sinh Viên An Nam tại Pháp. Tóm lại, ngày 18/1/1912 là buổi họp đầu tiên tại trường Parangon có Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường tham dự662. Buổi họp này, vì chưa có hội, nên chưa có tên, mỗi người đưa ra một tên như: Ái Hữu Sinh Viên, Ái Hữu Đông Dương, Hội Tương Tế... Chỉ sau khi Phan Văn Trường đã viết xong bản điều lệ và đặt tên là Thân Ái-La Fraternité gửi cho Bộ Thuộc Địa, thì mới chính thức có Hội Đồng Bào Thân Ái.
Phan Văn Trường viết: "Hội hoạt động công khai không mờ ám. Chúng tôi cũng biết là có mật thám trà trộn trong đám hội viên, nhưng không sao, càng tỏ cho họ thấy là hội của chúng tôi theo đuổi những mục đích hoàn toàn hợp pháp và đáng khuyến khích. (...) Bọn mờ ám vẫn rình rập, với thế lực trong chính quyền thực dân, thế nào họ cũng phá. Hội của chúng tôi bị tẩy chay, họ phao tin hội này là ổ cách mạng, gián tiếp cảnh cáo hội viên nếu cứ cứng đầu không chịu bỏ thì có ngày sẽ phải hối hận"663.
Bản Lý lịch Phan Văn Trường của sở Mật Thám ngày 19/12/1919 viết: "Năm 1912, y lập Hội Tương Tế lấy tên là Đồng Bào Thân Ái, chỉ gồm toàn người Đông Dương. Hội này chưa bao giờ khai báo với cảnh sát, không có trụ sở và thường hội họp ở các phòng trong của các tiệm cà phê, nhất là tiệm ăn Tầu ở 183 Đại lộ Montparnasse. Hội này hình như đã bị giải tán vào tháng bẩy năm 1913 (?)"664
Hội Đồng Bào Thân Ái là tế bào đầu tiên của người Việt yêu nước tại Pháp. Lúc đó có Bùi Kỷ, đang học trường Thuộc Địa, làm thư ký và Khánh Ký doanh nhân làm thủ quỹ.
Phan Văn Trường và Phan Châu Trinh, trở thành hai nhà lãnh đạo đầu tiên của phong trào Việt kiều yêu nước tại Pháp. Vì hoạt động của hội, mà Phan Văn Trường và Phan Châu Trinh bị bắt năm 1914.
Cùng với việc lập Hội Đồng Bào Thân Ái, trong tháng 4/1912, Phan Văn Trường giúp Phan Châu Trinh viết lại bản điều trần Trung Kỳ dân biến thỉ mạt ký665 sang tiếng Pháp gửi cho Hội Nhân Quyền. Trong hồi ký, ông nhắc đến văn bản này nhiều lần nhưng chỉ nhẹ nhàng nói rằng ông giúp Phan Châu Trinh đưa bản điều trần lên Hội Nhân Quyền.
Về văn bản này, Lê Thị Kinh mới đầu cũng nghĩ là Phan Văn Trrường viết, nhưng sau bà lại dẫn ý kiến Hémery cho rằng đây là một "công trình tập thể", được ông De Pressensé, chủ tịch Hội Nhân Quyền duyệt lại trước khi gửi cho bộ trưởng Thuộc Địa. Chúng tôi không đồng ý với ông Hémery, bởi vì dấu ấn Phan Văn Trường quá rõ, không thể là "tập thể" được, ngoài bút pháp mà Roux và Babut không thể sánh, còn có những điểm sau:
1/ Bỏ hẳn giọng hạ mình đối với chính quyền Pháp của Phan Châu Trinh.
2/ Xưng nước mình là Đế Quốc An Nam, ngôn ngữ tự hào dân tộc, sẽ thấy lại trong bản Thỉnh Nguyện Thư Tám Điểm 1919.
3/ Vô tình xưng mình quê ở huyện Hà Đông - trong khi Phan Châu Trinh quê ở làng Tây Lộc, huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam. Phan Văn Trường mới quê ở Hà Đông.
4/ Lối lập ngôn "Xét rằng" cao kỳ của một nhà luật học, phù hợp với ngôn ngữ trong bản tuyên ngôn nhân quyền.
Phan Văn Trường có đủ thẩm quyền hơn nhiều người khác về sự thận trọng, tài lập luận và dùng chữ; chỉ cần đọc những thư hoặc thư ngỏ ông viết cho toàn quyền, bộ trưởng, dân biểu... để bắt bẻ, thì thấy khả năng bút pháp của ông.
Bản điều trần đăng trên Báo của Hội Nhân Quyền và Dân Quyền - Bulletin de la Ligue des droits de l'homme et du citoyen số 20 ngày 31/10/1912. Và được ông chủ tịch hội Nhân Quyền chuyển đến Bộ Thuộc Địa ngày 25/9/1912. Đầu năm 1913, Albert Sarraut phải nhượng bộ, hứa thả dần tù nhân vụ Trung Kỳ dân biến.
Toàn quyền Albert Sarraut gửi lá thư thứ nhất cho bộ trưởng Thuộc Địa về Hội Đồng Bào Thân Ái ngày 24/4/1912. Lá thư mở đầu bằng câu: "Theo điện số 1152 (V.P. Bộ Trưởng) Ngài đã chuyển cho tôi bản điều lệ của Hội Đồng Bào Thân Ái do những người An Nam ở Pháp thành lập. Chủ tịch là Phan Văn Trường, phụ giảng ở trường Ngôn Ngữ Đông Phương". Và kết thúc bằng câu: "Cần đề phòng ảnh hưởng của Phan Văn Trường, người có kiến thức rất uyên bác nhưng tự phụ, hay sinh sự và muốn có uy tín trong đồng bào mình ở Pháp và ở Đông Dương. Đồng Bào Thân Ái sẽ thành một Câu Lạc Bộ để trao đổi những cảm tưởng và ý nghĩ bất lợi cho sự thống trị của chúng ta, sẽ thảo luận các vấn đề chính trị nhiều hơn là những lợi ích vật chất và tinh thần của Hội. Tôi nghĩ cần phải theo dõi kỹ hành động của Hội này và mong ngài sẽ có những chỉ thị cần thiết cho việc đó"666.
Toàn quyền Albert Sarraut viết lá thư thứ hai cho bộ trưởng Thuộc Địa ngày 5/7/1912, tỏ rõ ý lo ngại hơn về Hội Đồng Bào Thân Ái, Sarraut nhấn mạnh: "Tôi đã yêu cầu ngài hạ lệnh theo dõi hoạt động của các thành viên, đặc biệt là Phan Văn Trường, chủ tịch Hội"667.
Và lần này có kết quả: Để trừng trị, Bộ Thuộc Địa ra lệnh cho hiệu trưởng trường Sinh Ngữ Đông Phương phải sa thải Phan Văn Trường.
Nhưng sự trừng phạt không dừng ở đó. Albert Sarraut lo ngại hai ông Phan dùng hội Đồng Bào Thân Ái để liên lạc với các tổ chức chống Pháp ở trong nước, đặc biệt Phan Châu Trinh liên lạc với Lương Văn Can và Phan Văn Trường với 5 anh em ông668, một gia đình nổi tiếng nhiều nhân tài ở đất Bắc, khiến Nguyễn Văn Vĩnh viết: "Nếu nước An Nam chúng ta có độ mươi gia đình như gia đình này, thì chúng ta sẽ có đủ nhân tài để bố trí làm tất cả những công việc cần thiết"669.
Lợi dụng việc Quang Phục Hội của Phan Bội Châu ném bom giết chết hai sĩ quan Pháp tại một quán cà phê ở Hà Nội tháng 4/1913, mật thám bắt người anh cả của ông Trường là Phan Tuấn Phong và con trai 13 tuổi là Phan Trắc Cư. Khám nhà em ông là Phan Trọng Kiên, tìm được thư của ông Trường, trong có câu: "Mong nước mình rồi sẽ có ngày 14/7", tức là ngày cách mạng Pháp phá ngục Bastille năm 1789. Hai anh em bị kết án chung thân biệt xứ vì "tội đã giết quan tư670 Chapuis và Montgrand", tại Hà Nội671. Cha con ông Phong và ông Kiên bị đầy sang Nouvelle-Calédonie.
Ngày 13/3/1914, Phan Văn Trường được mời diễn thuyết tại trường Cao Đẳng Xã Hội, Albert Sarraut lại can thiệp với Bộ Thuộc Địa, không cho Phan Văn Trường nói, nhưng không thành - các trường lớn và các đại học rất ghét sự can thiệp của chính quyền. Phan Văn Trường diễn thuyết về đề tài: Les revendications indigènes - Những thỉnh nguyện của người bản xứ. Lần đầu tiên ông chính thức dùng chữ Les revendications - thỉnh nguyện, đòi hỏi, về sau chữ này sẽ trở lại với Bản Thỉnh Nguyện Tám Điểm, năm 1919.
Tiếp theo đó là vụ bắt Phan Châu Trinh và Phan Văn Trường, tù từ tháng 9/1914 đến tháng 7/1915. Theo một mật báo thì Hội Đồng Bào Thân Ái phải giải tán năm 1916672.
Nhóm Người An Nam Yêu Nước ra đời.
● André Salles, con bài của Bộ Thuộc Địa để trừ khử Phan Văn Trường và Hội Đồng Bào Thân Ái
André Salles, thanh tra thuộc địa về hưu, mạnh cánh trong Bộ Thuộc Địa, là Bí thư - Secrétaire- của Ủy Ban Paul Bert trực thuộc Alliances Françaises- Liên Minh Pháp Ngữ, cơ quan truyền bá tiếng Pháp ở nước ngoài. Uỷ Ban Paul Bert có nhiệm vụ kiểm soát du học sinh đến từ thuộc địa. Học sinh đến Pháp được Salles đưa vào trường Parangon, một trường tiểu học tư ở Joinville le Pont, ngoại ô Paris, do Salles đỡ đầu, để dễ kiểm soát. Salles cực lực chống việc cho Phan Châu Dật vào trường Parangon, mặc dù lúc đầu y cũng tỏ vẻ "nâng đỡ" Phan Châu Trinh. Học sinh nào tỏ dấu hiệu khó bảo thì cha mẹ sẽ bị trừng trị. Ngay từ lúc mới sang, Phan Văn Trường đã được Salles mời đến gặp, chủ ý muốn "thu phục", nhưng thái độ của Phan Văn Trường lơ là, Salles đem lòng thù oán. Y tiếp tục theo dõi, coi hai ông Phan là phần tử xấu, ảnh hưởng đến học sinh, reo rắc mầm mống nổi loạn.
Trong một bản mật báo gửi Arnoux, một trong những xếp mật thám ở bộ Thuộc Địa, Salles viết: "Nghỉ hè năm 1910, khi gặp tại Ngân khố một trong các trẻ thơ đỡ đầu của chúng tôi mới 17 tuổi, đến nay vẫn chưa tốt nghiệp trung học, y (tức Phan Văn Trường) đã nói: "Chúng ta là những nô lệ, vì vậy tôi sẽ xin nhập quốc tịch Pháp". Sau đó, y đưa cho nó một danh mục sách bảo nên mua đọc:
- Dân ước của Rousseau.
- Thực chất luật pháp (tức Vạn pháp tinh lý) của Montesquieu.
- Thng" kiểu Châu Á có uy tín vượt trội (...) một con người trong sạch, giản dị, hoà mình vào quần chúng, được bạn bè khắp hoàn vũ mến yêu giúp đỡ còn đồng bào trong nước thì đặt hình lãnh tụ lên bàn thờ và tôn xưng là "Cha già của dân tộc" v.v... Cuốn "tiểu sử" viết về Hồ Chí Minh của Trần Dân Tiên đã biểu lộ rất rõ cái nhu cầu năm 1948 mà Hồ Chí Minh và cuộc cách mạng của ông đang muốn tạo ra cho phong trào yêu nước cộng sản trước tình hình mới - một lãnh tụ tuyệt vời và chỉ có lãnh tụ đó mới là tuyệt vời thôi!"623
Lập luận của Lữ Phương rất sắc bén. Duy có một điểm: bản gốc cuốn "tiểu sử" là chữ Hán, in năm 1949, tại Thượng Hải, chắc chắn phải do Hồ Chí Minh viết - trừ khi Vũ Kỳ biết chữ Hán, nhưng điều này khó mường tượng: ông Hồ đọc cho Vũ Kỳ bằng tiếng Việt rồi Vũ Kỳ dịch sang tiếng Tàu! Ông Hồ viết chữ Hán vì ông giỏi chữ Hán hơn quốc ngữ. Nhưng bản dịch quốc ngữ in năm 1958 tại Hà Nội, chắc phải do Vũ Kỳ và những người "quanh Bác" thực hiện, vì trình độ quốc ngữ của "Bác" không cao -xin xem bài Việt Nam Yêu Cầu Ca- không thể viết được cuốn "Những mẩu chuyện..." Lữ Phương có lý khi ông cho rằng Vũ Kỳ và những người "quanh Bác" đã góp phần trong bản quốc ngữ. So với bản chính Hán văn, sự khác biệt ra sao? Phải hỏi những nhà Hán học. Nhưng chắc bản Hán văn gần với lời ông Hồ hơn cả.
Vậy cuộc đời "thật" của Nguyễn Tất Thành từ ngày rời nước năm 1911 đến năm 1923, đi Nga, như thế nào?
Từ 1911 đến 1923, cuộc đời Nguyễn Tất Thành, có thể đã diễn ra như sau:
Ngày 4/6/1911, Nguyễn Tất Thành rời Sài Gòn trên tàu L'Amiral Latouche-Tréville, thuộc Compagnies des Chargeurs Réunis - Công ty vận tải liên kết, chạy đường Hải Phòng - Dunkerque, làm phụ bếp, lấy tên Văn Ba. Trên tàu gặp ông Bùi Quang Chiêu và được 2 người lính trẻ, giải ngũ, hồi hương, dạy đọc và viết tiếng Pháp. Ông Chiêu nói với Tất Thành: "Tại sao con lại làm cái nghề khó nhọc này? Bỏ nghề này đi. Con nên chọn một nghề khác, danh giá hơn..."624.
Sổ hành trình ghi: Ngày 5/6/1911 rời Sài Gòn; 6/7 đến Marseille; 15/7 tới Le Havre; 26/8/1911 đến Dunkerque625. Theo Trần Dân Tiên, tàu đến Le Havre để sửa chữa. Nhân viên được chuyển sang một chiếc tàu khác để trở về Đông Dương, nhưng anh Ba không muốn về, anh ở lại Le Havre, làm vườn cho ông chủ tàu tại Sainte-Adresse, ngoại ô Le Havre, trong khoảng một tháng, rồi lại tiếp tục lên tàu đi Phi Châu. Tại nhà ông chủ, anh Ba học tiếng Pháp với cô sen626.
Lê Thị Kinh viết: "Từ Dunkerque, tàu quay lại Sài Gòn và trên sổ lương của tàu có ghi: "Văn Ba đã lĩnh lương tại Sài Gòn ngày 16/10/1911". Ngày 31/10/1911 Tất Thành đã gửi một thư cho cha. Thư lọt vài tay mật thám và được chuyển cho khâm sứ Trung Kỳ"627.
Vậy Trần Dân Tiên giấu việc trở lại Việt Nam, bịa ra chuyện đi vòng châu Phi để làm gì? Nếu không phải là để chứng minh muốn "đi xem các nước" để tính chuyện "giúp đồng bào" ngay từ 1911? Tất Thành lúc đó chưa thể bị "mật thám" theo dõi, vì chưa có thành tích gì. Thành viết thư thẳng đến Tòa Khâm, nhờ khâm sứ chuyển tiền cho cha, đồng thời viết thư cho anh là ông cả Đạt, đang làm việc tại Tòa Khâm - Sẽ nói rõ hơn ở dưới. Trong các thư Tất Thành gửi cho cha hay cho toàn quyền, năm 1911-1912, còn ký cả tên Tây: Paul Tatthanh hay Paul Thành... nữa, vậy khó có thể nói đến việc đi Tây "tìm đường cứu nước".
● Đơn xin học trường Thuộc Địa
Lá thư đề Marseille ngày 15/9/1911, gửi Tổng Thống Pháp xin vào nội trú trường Thuộc Địa được Henri de Turenne628 phát hiện và công bố trên đài truyền hình Pháp trong chương trình về Hồ Chí Minh, tháng 1/1982. Vũ Ngự Chiêu và Nguyễn Thế Anh chụp được hai bức thư viết tay giống hệt nhau: một gửi Tổng Thống Pháp và một gửi Bộ Trưởng Thuộc Địa629 cùng về việc xin học.
Daniel Hémery, cho rằng sự lựa chọn này là do Phan Châu Trinh dẫn dắt. Lê Thị Kinh, có lẽ do ảnh hưởng Hémery, đưa ra giả thuyết: Khi ở Sainte-Adresse: "Chắc chắn Người đã tranh thủ đến Paris gặp bác Phan, làm quen với những người quanh bác, và đặc biệt để bàn bạc với bác về hướng sống và học tập... Và có thể không phải chỉ đến một lần". Và bà tiếp tục cho rằng nhân dịp này "Người" gặp Bùi Kỷ, đang học trường Thuộc Địa và Bùi Kỷ đã gợi ý và viết đơn giùm630.
Lập luận này không vững vì nhiều lẽ: Tất Thành chỉ ở Le Havre từ 15/7/1911 đến 26/8 đã theo tầu lên Dunkerque. Phan Châu Trinh tới Paris ngày 27/4/1911, lúc đó chưa quen Phan Văn Trường -chỉ gặp ông Trường tháng 1/1912- và chưa chắc đã biết Bùi Kỷ ở đâu. Việc thông tin thời ấy không dễ dàng, Tất Thành vừa từ Sài Gòn sang, tiếng Pháp chưa biết, lạ nước lạ cái, mà cũng chỉ ở Le Havre hơn một tháng, làm sao đã tìm được địa chỉ của Phan Châu Trinh? Mà dù có địa chỉ cũng chưa chắc đã dám xin chủ nghỉ việc để về Paris nhiều lần thăm bác, vì thời ấy di chuyển không dễ dàng như bây giờ. Hơn nữa, cả Trần Dân Tiên, Bùi Kỷ và Phan Châu Trinh đều không nói đến những cuộc gặp gỡ này. Vậy giả thiết "Bác" đã gặp Bùi Kỷ và Phan Văn Trường tại nhà Phan Châu Trinh không thể đứng vững.
Ngoài ra, hầu hết các tư liệu đều chứng minh: Năm 1911 Tất Thành chưa có ý đồ hoạt động chính trị, chỉ muốn giúp cha và tiến thân. Sau cùng, nếu Bùi Kỷ viết đơn giùm Tất Thành, thì cũng không gửi đơn xin học cho tổng thống và bộ trưởng, mà viết thẳng cho hiệu trưởng. Vậy người viết đơn giùm Tất Thành phải là người không có trình độ cao lắm, làm việc cùng với Tất Thành ở Công Ty Vận Tải tại Marseille, Le Havre hay Dunkerque, hoặc một sự quen biết nào khác. Ngày 21/10/1911, ông hiệu trưởng trường Thuộc Địa viết thư trả lời từ chối, chỉ nhận những người đã học và được toàn quyền tuyển chọn tại Đông Dương631.
Lữ Phương dựa theo tài liệu của Hémery, thuật lại những sự kiện: khi tàu ghé Sài Gòn giữa tháng 10/1911, ngày 31/10/1911, Tất Thành viết thư gửi khâm sứ Trung Kỳ nhờ chuyển cho cha mandat 15 đồng Đông Dương và viết thư cho anh là ông cả Khiêm -Nguyễn Sinh Khâm hoặc Nguyễn Tất Đạt- đang giúp việc vặt tại Toà Khâm Sứ Trung Kỳ, nhờ vận động xin vào Ecole Coloniale. Việc này cũng thất bại.
Theo lời khai của ông Bùi Quang Chiêu với mật thám Sài Gòn ngày 21/9/1922, thì khi gặp trên tàu, Tất Thành nói với ông mục đích sang Pháp là để xin khiếu nại cho cha vừa bị bãi chức, và muốn đến ở nhà thuyền trưởng Do Huu Chan đang làm việc ở Marseille để nhờ ông giúp đỡ trong việc khiếu nại đó632.
Xin nhắc lại: "Nguyễn Sinh Huy đậu phó bảng năm 1901; năm 1906 vào Huế nhậm chức thừa biện Bộ Lễ; 1909 được cử làm tri huyện Bình Khê (tỉnh Bình Định), nhưng chỉ 7 tháng sau, tháng 1/1910, thì bị bãi chức và bị triệu về Huế. Lý do: theo sở mật thám ông đã uống rượu say và đánh chết người"633.
Vậy việc khuyên Tất Thành xin vào trường Thuộc Địa và viết đơn giùm có thể là thuyền trưởng Đỗ Hữu Chân -hay Chấn- làm. Cũng không loại trừ khả năng chính ông Bùi Quang Chiêu đã nghĩ ra, vì thương Tất Thành là con quan -ông Chiêu đã dạy ông Nguyễn Sinh Huy về nông nghiệp- phải làm việc trên tàu cực khổ, nên đã giới thiệu Thành với ông Đỗ Hữu Chấn và nhờ ông Chấn giúp đỡ, vì ông Chấn ở cùng công ty hàng hải. Đơn xin học đề ngày 15/9/1911 ở Marseille, đúng là thời gian tàu ghé Marseille trên đường về Sài Gòn. Ngày 16/10/1911, Văn Ba lĩnh lương tại Sài Gòn. Tất cả ăn khớp vì đường Thủy Marseille - Sài Gòn là một tháng. Tại Sài Gòn, Tất Thành lại nhờ anh, ông Đạt, viết thư gửi khâm sứ và toàn quyền, xin vào trường Thuộc Địa một lần nữa, nhưng vẫn bị từ chối. Từ đây, Tất Thành phải chấp nhận nghề thủy thủ.
Theo Hémery, từ 1912 tới mùa hè 1914, Tất Thành vẫn dùng tên Ba, tiếp tục làm bồi, phụ bếp, hoặc phu khuân vác trên những tàu xuyên Đại Tây Dương, chạy đường Le Havre - Londres - New York, hoặc Châu Phi - Châu Mỹ.
Từ 1914 đến 1919, bỏ việc trên tàu, sống tại Luân Đôn với tên Nguyễn Tất Thành, ở số 8 Tottenham Road. Hémery cho rằng trong thế chiến, Tất Thành không sang Pháp vì sợ có thể bị gọi đi quân dịch. Làm việc tại khách sạn Carlton, rửa bát, rồi phụ bếp. Học tiếng Anh và hình như buổi tối có học thêm Máy móc (Mécanique) và Điện. Trao đổi thư từ với Phan Châu Trinh bằng Hán văn. Giữa tháng 6/1919, sang Paris. Hoạt động trong nhóm An Nam Yêu Nước. Ngày 27/12/1920, khai mạc hội nghị Tours của đảng Xã Hội (SFIO), Nguyễn Tất Thành xuất hiện công khai với tên Nguyễn Ái Quốc. Ngày13/6/1923, Nguyễn Ái Quốc bí mật đi Nga, tới Moscou ngày 30/6/1923. Tháng 2/1925, Lý Thụy xuất hiện ở Quảng Đông, tình báo Trung Hoa nhận diện là Nguyễn Ái Quốc. Thành lập Việt Nam Thanh Niên Cách Mệnh Đồng Chí Hội.
● Trình độ học vấn
Theo năm sinh chính thức 1890, thì khi xuống tàu đi Pháp năm 1911, Tất Thành 21 tuổi.
Từ điển Văn học và các tiểu sử chính thức khác đều ghi: thủa nhỏ học chữ Hán rồi quốc ngữ, sau vào Quốc Học Huế. Đầu năm 1911, bỏ học vào Phan Thiết dạy trường Dục Thanh, ít lâu sau vào Sài Gòn, rồi từ Sàigòn "xuất dương tìm đường cứu nước".
Daniel Hémery viết: "Theo lời khai của Đạt (anh cả của Thành) với Sở Mật thám năm 1920, thì Thành học trường bảo hộ (franco-indigène), dường như Đông Ba, đậu bằng Tiểu học (Certificat d'études primaires). Cả hai ghi tên vào trường Quốc học (...) nhưng Thành học dở dang, bỏ đi làm (khoảng 1909?), làm trợ giáo, lương 8 đồng một tháng, ở trường Dục Thanh tại Phan Thiết"634.
Hémery ghi rõ học trường Pháp-Việt, còn đậu cả bằng Certificat d'études primaires. Nếu chi tiết này đúng, tức là Nguyễn Tất Thành đi học đến năm 19 hoặc 21 tuổi, và nếu có Certificat d'études primaires, tất phải biết tiếng Pháp.
Nhưng Trần Dân Tiên viết ngược lại: Ở tàu Latouche- Tréville "mỗi ngày anh Ba phải làm từ 4 giờ sáng", "công việc kéo dài suốt ngày", "suốt ngày anh Ba đẫm nước, hơi và mồ hôi, mình đầy bụi than", buổi tối có hai người lính giải ngũ về Pháp, tốt bụng, "dạy cho anh đọc và viết". Và khi làm vườn cho ông chủ tàu ở Sainte-Adresse, "anh học tiếng Pháp với cô sen"635. Một người đã có bằng Certificat d'études primaires không thể không biết đọc và viết tiếng Pháp, mà phải học tiếng Pháp với cô sen.
Nhưng cũng không có lý gì mà Hồ Chí Minh viết sai về chuyện này, nhất là ông lập lại nhiều lần rằng khi đến Pháp ông không rành tiếng Pháp, không viết được tiếng Pháp, phải nhờ Phan Văn Trường viết hộ.
Tại sao có nghịch lý này? Xin tạm giải thích như sau: Trong lá thư từ chối đơn xin học của Nguyễn Tất Thành636, ông hiệu trưởng trường Thuộc Địa nói rõ lý do: Trường chỉ nhận những học sinh đã học ở Đông Dương và do toàn quyền Đông Dương quyết định. Vì vậy, khi về qua Sài Gòn, Tất Thành mới viết thư cho ông cả Đạt, nhờ ông viết thư cho khâm sứ và toàn quyền, để xin cho em mình vào học trường Thuộc Địa. Trong hai lá thư này, để có trọng lượng, chắc ông Đạt khai là em mình đã học các trường Pháp Việt Đông Ba và Quốc Học... Vì vậy, năm 1920, khi Nguyễn Tất Thành đã "nổi danh" là Nguyễn Ái Quốc, sở Mật Thám gọi ông Đạt lên hỏi cung, ông giữ nguyên lời khai cũ.
Tóm lại, vấn đề học vấn của Nguyễn Tất Thành, phần chữ Hán là chắc chắn, vì cha là phó bảng Nguyễn Sinh Huy, bạn của Trần Quý Cáp, Phan Châu Trinh... Còn việc học ở các trường Đông Ba, Quốc Học, dường như không lấy gì làm chắc lắm.
● Nguyễn Tất Thành đến Paris
1/ Trong thời gian ở Anh, Nguyễn Tất Thành có trao đổi thư từ với Phan Châu Trinh, gọi cụ Phan là Hy Mã nghi bá đại nhơn - Hy Mã là tên hiệu của Phan Châu Trinh, nghi bá bác kính- tự xưng là cuồng điệt Nguyễn Tất Thành -cuồng điệt người cháu hăng say. Vì Phan Châu Trinh bị theo dõi rất kỹ, loạt thư này không qua mắt được mật thám, đó cũng là một trong những lý do xác định khoảng 1914- 1918, Nguyễn Tất Thành sống ở Luân Đôn.
2- Theo Thu Trang, mật thám tìm thấy thẻ thư viện mang tên Nguyễn Ái Quốc, ghi năm 1919637. Chứng này không đáng tin, vì thẻ thư viện, cũng như thẻ sinh viên, phải đề đầy đủ họ và tên thật Nguyễn Tất Thành, hoặc chỉ đề họ Nguyễn, chứ không thể đề tên hiệu Nguyễn Ái Quốc. Việc này có thể do mật thám nhìn thấy thẻ có tên Nguyễn, rhóm Nguyễn Thế Truyền có lẽ còn là sinh viên nên chưa bị để ý - Sẽ nói đến sau.
3/ Nguyễn An Ninh được ba người bạn thân Lê Văn Thử, tác giả Hội kín Nguyễn An Ninh678, Phương Lan Bùi Thế Mỹ, tác giả Nhà cách mạng Nguyễn An Ninh 1899- 1943679 và Hồ Hữu Tường, tác giả 41 năm làm báo680 đều ghi nhận Nguyễn An Ninh sang Pháp lần đầu năm 1918.
Vậy cái tên Nguyễn Ái Quấc - Quấc chứ không phải Quốc - nếu có từ năm 1918, phải là dấu ấn của Nguyễn An Ninh. Ninh là người Nam, chỉ có người Nam, theo Huỳnh Tịnh Của, mới viết Quấc. Phan Văn Trường và Nguyễn Thế Truyền người Bắc, không viết như thế. Quấc Quốc cùng được sử dụng trong một thời gian, sau Nguyễn Thế Truyền chỉ dùng tên Quốc.
4/ Bộ Thuộc Địa bắt đầu theo dõi Nguyễn Ái Quốc vào khoảng tháng 10/1919. Báo cáo của Jean681 tháng 10/1919, có đoạn như sau:
"1- Ông Guesde nói phải, có Nguyễn Ái Quốc tên thật là Nguyễn Văn Quốc, người Sàigòn, học ở bên này đã lâu lắm. Song chưa biết tên ấy ở đâu - Phải quen Phan Văn Chường thời mới biết tên ấy được.
2- Xin ông làm ơn hỏi Sureté682 Paris xem Chường có ở Paris bây giờ không, hay là đi voyage như lời sergent interp683 Khương nói và cho tôi chỗ hắn ở (số nhà và phố)"684.
Theo báo cáo này, Jean đến tháng 10/1919, vẫn chưa xác định được nhân dạng Nguyễn Ái Quốc, lúc thì coi Nguyễn Ái Quốc là Nguyễn An Ninh - người Sàigòn, lúc thì coi Nguyễn Ái Quốc là Nguyễn Thế Truyền - học ở bên này đã lâu lắm, và chưa biết địa chỉ của Hội người An Nam yêu nước là nhà Phan Văn Trường, số 6 villa des Gobelins.
Những báo cáo của mật thám và chỉ điểm, trong hai năm 1919-1920 về Nguyễn Ái Quốc của Jean, của Edouard (cũng có tên là Đốc Phủ Bẩy) và của tổng thanh tra Pierre Guesde685, trong thời gian này đều có tính rối mù như thế, nghiã là như một nhân vật có đầy đủ khả năng biện luận, diễn thuyết, biết rõ tình hình Việt Nam và thế giới, đang viết và dịch sách Tây... tóm lại là khả năng của nhiều người họp lại.
5/ Về hoạt động của nhóm An Nam Yêu Nước, Daniel Hémery viết: "Từ mùa thu năm 1919, Nhóm Những Người Yêu Nước có cột viết trên các báo Le Popupaire (Người bình dân), L'Humanité (Nhân loại), Le Libertaire (Người tự do tuyệt đối), báo của CGT (một công đoàn), La vie ouvrière (Đời sống thợ thuyền) và Le Peuple (Dân chúng). Họ diễn thuyết, tổ chức những buổi họp mặt công cộng, với chủ đích bảo vệ quyền lợi Đông Dương trong nền văn chương chống thực dân theo cách của những nhà văn Indonésia (Nam Dương) hay Ấn Độ. Cuối năm 1919, Nguyễn Ái Quốc, theo lời khuyên của Paul Vigné d'Octon là người hết sức chống chế độ thuộc địa, làm việc ráo riết tại thư viện Quốc gia, sửa soạn ra cuốn sách Les Opprimés (Những kẻ bị đàn áp), có thể là sơ thảo văn bản tương lai Procès de la Colonisation (Bản Án Chế Độ Thực Dân) và nghiền ngẫm dự định dịch các tác phẩm tây phương, như L'Esprit des lois (Vạn pháp tinh lý) sang Quốc ngữ"686.
Câu này xác định hoạt động của nhóm Ngũ Long trên báo chí và diễn thuyết. Nhưng vì dùng tài liệu sai của mật thám, nên Hémery đã nhầm Nguyễn An Ninh với Nguyễn Ái Quốc/Nguyễn Tất Thành.
Trong các bài viết hoặc diễn thuyết của mình, Nguyễn An Ninh thường nhắc đến kinh nghiệm cần học hỏi của Ấn Độ, Nam Dương. Nguyễn An Ninh thời ấy là một thanh niên để tóc dài kiểu hippie, làm "người mẫu" để kiếm tiền học, chơi thân với Paul Vigné d'Octon và nhóm anarchiste - vô chính phủ, cộng tác với báo Le Libertaire của nhóm này. Mỗi cuối tuần, Ninh ra ngoại ô Paris, vào rừng tập nói, để diễn thuyết cho hùng hồn. Đó là Nguyễn An Ninh những năm 1918-1922 ở Pháp. Theo Phạm Quỳnh687, thập niên 1920 ở Pháp, diễn thuyết là một cái mốt, hầu như cuộc hội họp nào cũng có diễn thuyết. Nguyễn An Ninh còn viết cuốn La France en Indochine - Nước Pháp ở Đông Dương, chống Pháp mãnh liệt, in năm 1924, mang về Việt Nam trong chuyến đi với Phan Châu Trinh, sách này đã bị tịch thu688. Ninh dịch Contrat social - Dân ước của Rousseau và có ý dịch cả L'Esprit des lois - Vạn pháp tinh lý của Montesquieu.
Vậy hình ảnh một thanh niên tên Nguyễn, chơi thân với nhóm anarchiste, diễn thuyết hùng hồn, viết hết sách này đến sách khác, vào cuối 1919 đầu 1920, mà mật thám Jean mô tả và Hémery ghi lại trên đây, chỉ có thể là Nguyễn An Ninh, vì Nguyễn Tất Thành, đến tháng 6/1919, mới sang Pháp, đang học tiếng Pháp, làm sao cuối năm 1919, đã có thể "đăng đàn diễn thuyết", viết sách, và dịch Montesquieu được?
6/ Một mật báo khác viết: "Vào những năm 1920-1921, Hội những người An Nam yêu nước" đặt trụ sở tại số 6 villa des Gobelins. Số người lãnh đạo của Hội này, đã từng làm công việc tuyên truyền chống Pháp một cách rất mạnh nói chung, và đặc biệt chống ông Sarraut (toàn quyền Đông Dương) nói riêng. Những người này cho là ông ta đã gây nên nhiều nỗi đau khổ tại nước họ.
Tháng 10 năm 1921, Phan Văn Trường, Nguyễn Ái Quốc, Khánh Ký, Lê Văn Thuyết và Hai Tân đã quyết định đề nghị ám sát ông Sarraut (...) Nhưng nhờ sự can thiệp của Phan Châu Trinh mà dự án này không đem ra thi hành"689.
Những thông tin trong đoạn đầu, khá đúng, duy việc Phan Văn Trường định "ám sát" Sarraut là sai. Phan Văn Trường là người thận trọng, ghét bạo lực, hành động công khai, ông đối lập với Sarraut bằng luật pháp và ngòi bút. Nguyễn Thế Truyền sôi nổi và nóng nẩy hơn khi viết những bài đả kích Sarraut.
http://vnthuquan.net/user/Ct.Ly/image/anh9.jpg
● Hội Liên Hiệp Thuộc Địa và báo Le Paria
Hội Liên Hiệp Thuộc Địa - Union Intercoloniale là cơ sở quan trọng thứ nhì, đối với người Việt tại Pháp, sau nhóm An Nam Yêu nước. Hội quy tụ đại diện những nước nhược tiểu bị Pháp đô hộ, họp lại để cùng chống thực dân. Hội ra tờ báo Le Paria - Người cùng khổ.
Trần Dân Tiên khoe vai trò của mình trong tờ báo này:
"Để mở rộng việc tuyên truyền đến các thuộc địa, ông Nguyễn và các đồng chí của ông ra tờ báo Người cùng khổ (Le paria) do ông là chủ bút kiêm chủ nhiệm (...) Ông Nguyễn kiêm cả viết, chủ nhiệm, chủ bút, chữa bài, thủ quỹ, xuất bản và liên lạc"690.
Hồng Hà cũng viết: "Báo Người cùng khổ, cơ quan ngôn luận của vô sản thuộc địa do anh Nguyễn Ái Quốc sáng lập, làm chủ bút kiêm chủ nhiệm, phát hành trong những năm từ 1922 đến 1924 (...) Anh Nguyễn viết khỏe nhất và nhiều nhất, có số anh viết tới ba, bốn bài. Chính từ đây và từ năm 1922 này, người đọc được thấy những bài báo đầy tính chiến đấu mãnh liệt của anh Nguyễn"691.
Sự thực không như thế.
Hội Liên Hiệp Thuộc Địa được sáng lập tháng 7/1921, tại Paris. Mỗi thuộc địa có một đại diện trong ban chấp hành. Trụ sở số 9 rue Vallette, sau dời đến số 3 rue Marché des Patriarches. Tờ báo của hội là tờ Le Paria ra hàng tháng, dưới sự bảo trợ của nhà văn Henri Barbusse. Báo viết tiếng Pháp, tên in ba thứ chữ: Pháp, Hán và Ả Rập, tồn tại 4 năm, ra được 38 số: số 1, ngày 1/4/1922 và số 38, ngày 1/4/1926.
Thành phần của Hội khi mới thành lập gồm có: Marie Bloncourt, luật sư, đại diện Dahomey, Phi Châu, tổng thư ký, Nguyễn Ái Quốc, đại diện Đông Dương, Jean Baptiste, đại diện Guadeloupe; v.v... Lúc đầu có khoảng 200 hội viên. Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền và Nguyễn An Ninh đều là hội viên từ 1922, cả ba đều đã diễn thuyết nhiều lần tại trụ sở của Hội hoặc ở Hội trường Hội Bác Học - Salle des Sociétés savantes, rue Danton. Ví dụ, ngày 18/2/1923, Phan Văn Trường diễn thuyết so sánh sự cai trị Việt Nam của Pháp và của Trung Hoa. Nguyễn An Ninh diễn thuyết nhiều lần tại Hội trường hội Bác Học. Ngày 17/10/1924 Nguyễn Thế Truyền diễn thuyết về Đông Dương dưới sự cai trị của Albert Sarraut và Martial Merlin. Mỗi lần Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền, Nguyễn An Ninh diễn thuyết, Phan Châu Trinh đều đến nghe692.
Chỉ cần lướt qua tờ Le Paria cũng thấy: đây là tờ báo chống thực dân một cách trào phúng và thâm thúy, kiểu "gậy ông đập lưng ông"; phải đủ những điều kiện: có óc châm biếm, có uy-mua Pháp, thâm hiểu văn hoá Pháp mới viết được. Nguyễn Ái Quốc làm đại diện cho Đông Dương trên tờ báo này là đúng, vì bút hiệu Nguyễn Ái Quốc năm 1922, đã rất nổi tiếng. Nhưng những bài ký tên Nguyễn Ái Quốc có phải do Nguyễn Tất Thành viết không?
Trong một bài bênh vực Nguyễn Ái Quốc, Nguyễn Thế Truyền ngụ ý: tiếng nói của Nguyễn Ái Quốc là tiếng nói của toàn dân Việt Nam, vậy ông đã kín đáo thổ lộ sự thật về cái bút hiệu chung này. Báo Le Paria số 4, tháng 7/1920, có 2 bài ký tên Nguyễn Ái Quốc, tựa đề La haine des races- Sự căm thù chủng tộc Les cilivisateurs - Những kẻ giáo hoá. Bài L'Humanité coloniale - Nhân nghiã thực dân trong số 6 ra tháng 7/1920, có kèm ảnh những người bị xử bắn, và trong bài báo tác giả mỉa mai ghi: đó là hành động của những con người văn minh693.
Bài đầu tiên ký tên Nguyễn Thế Truyền xuất hiện trên Le Paria, số 9 ra ngày 1/12/1922, tựa đề Un bolchevick jaune- Một người Bôn-sơ-vích da vàng, nội dung bênh vực Nguyễn Ái Quốc bị báo La Dépêche Coloniale - Bản tin thuộc địa đả kích, trong bài này, Nguyễn Thế Truyền ngụ ý: Tiếng nói của Nguyễn Ái Quốc là tiếng nói của toàn dân Việt Nam, như đã nói ở trên.
Sau khi Nguyễn Tất Thành đi Nga, tên Nguyễn Thế Truyền xuất hiện nhiều hơn và tên Nguyễn Ái Quốc giảm dần, nhưng vẫn tồn tại đến 1927, chứng tỏ Nguyễn Thế Truyền tuy đã viết bằng tên thật nhưng vẫn còn tiếp tục dùng tên Nguyễn Ái Quốc trong 4 năm nữa694.
Số 21 ra ngày 1/12/1923, trong bài Le vase de Chine - Chiếc bình sứ Trung Hoa, Nguyễn Thế Truyền đả kích kịch liệt bác sĩ Cognacq, nguyên giám đốc học chính Đông Dương về tội hối lộ. Số 22, Nguyễn Thế Truyền nhắc đến lòng yêu nước của Phan Tuấn Phong và Phan Trọng Kiên, anh em ruột của Phan Văn Trường trong phong trào Đông Du, bị bắt năm 1913. Số 24, đả kích toàn quyền Albert Sarraut đầu độc dân tộc Việt Nam bằng rượu và thuốc phiện. Số 27, viết về Phạm Hồng Thái và tiếng bom Sa Diện. Số 28, đả kích Outrey, dân biểu Nam Kỳ, tuyên bố trong quốc hội Pháp không nên áp dụng luật ân xá tại Việt Nam, vì người Việt Nam không biết ân xá là gì. Nguyễn Thế Truyền chê Outrey dốt nát không biết gì vì chín trăm năm trước vua Lý Thánh Tông đã ân xá cho phạm nhân, trong một năm trời làm rét mướt695.
Từ ngày 4/11/1923, Nguyễn Thế Truyền thay thế Nguyễn Ái Quốc làm trị sự toà báo. Đầu 1925, Nguyễn Thế Truyền trở thành phó tổng thư ký của Hội và chủ bút tờ Le Paria. Trong năm 1925, hầu như số nào cũng có bài của Nguyễn Thế Truyền. Sau số kép 36-37 ra tháng 10/1925, toàn bộ viết bài bênh vực Phan Bội Châu, Nguyễn Thế Truyền ra khỏi Le Paria để sửa soạn ra tờ Việt Nam Hồn, tiếng Việt. Không có Nguyễn Thế Truyền, Le Paria chỉ ra được một số chót - số 38, tháng 4/1926- rồi đình bản696.
● Ai là tác giả những bái báo ký tên Nguyễn Ái Quốc?
Nhờ cuốn sách của Đặng Hữu Thụ, mà chúng ta biết rõ hoạt động của Nguyễn Thế Truyền và nhóm của ông tại Pháp trong đó có em trai là Nguyễn Thế Song, chú ruột là Nguyễn Thế Phu và các anh em họ và người làng, đều đi du học Pháp từ 1916 và làm cách mệnh.
Trong thư ngày 27/3/23, cụ thân sinh Nguyễn Thế Truyền khuyên con: "chớ bắt chước Nguyễn Ái Quốc làm báo nói lăng nhăng, chớ chơi với Nguyễn Ái Quốc"697.
Như thế, cái tên Nguyễn Ái Quốc, tuy là tên chung, tên ma, nhưng đã thành tên riêng của một người: Nguyễn Tất Thành, và sự bí mật về cái tên Nguyễn Ái Quốc gần như toàn diện, đến cả cụ thân sinh Nguyễn Thế Truyền cũng không biết con mình viết bài ký tên Nguyễn Ái Quốc! Sự bí mật này trở thành chiến lược của nhóm Ngũ Long, chúng tôi sẽ trở lại trong phần phân tích văn bản Nguyễn Ái Quốc.
Trần Dân Tiên/Hồ Chí Minh hiển nhiên nhận mình là Nguyễn Ái Quốc, tác giả các bài báo.
Nhưng nhiều dữ kiện chứng minh ngược lại:
1/ Khả năng tiếng Pháp: Một người đến Pháp năm 1919, mới bắt đầu học viết báo tiếng Pháp, một thời gian sau không thể viết được những bài xã luận ký tên Nguyễn Ái Quốc, kể cả khi người ấy ở Pháp nhiều năm. Viết được như vậy phải học trường Pháp từ nhỏ và có văn tài.
2/ Chính quyền Pháp cũng không tin Nguyễn Tất Thành là Nguyễn Ái Quốc: Trong thư gửi toàn quyền Đông Dương ngày 12/9/1923, sau khi Nguyễn Tất Thành đi Nga, tổng thanh tra Pierre Guesde còn viết: "Những bài ký tên Nguyễn Ái Quốc không phải do y viết hoặc đã được sửa chữa rất nhiều. Khả năng nói và viết tiếng Pháp của tay An Nam này không đủ để viết những bài y ký tên".
Nguyên văn: "Les articles publiés sous le nom de Nguyễn Ái Quốc ne sont pas de lui ou ont été tout au moins l'objet des plus sérieures retouches. Cet annamite parle et écrit insuffisament le français pour rédiger tout ce qui paraît sous son nom"698.
Một thư khác, Pierre Guesde gửi toàn quyền Đông Dương ngày 6/7, nhưng không đề năm, chắc vào khoảng 1920-1921, có đoạn như sau: "Tôi được thông báo là Phan Văn Trường sẽ từ Mayence về Paris những ngày sắp tới. Tôi đã dặn Cảnh Sát Cuộc phái người theo dõi trong thời gian y ở lại thủ đô. Ông Babut có đến thăm tôi và nói rằng tất cả những bài báo ký tên Nguyễn Ái Quốc đều do Phan Văn Trường gợi hứng. Babut xác định với tôi rằng Phan Văn Trường là linh hồn của tất cả những gì xẩy ra trong môi trường Villa des Gobelins"699.
Theo báo cáo này thì Ernest Babut không hẳn đã có lòng tốt với Phan Châu Trinh mà Babut còn "làm việc" với chính phủ Pháp nữa.
Nhiều chứng cớ cho thấy Babut và Roux, hai ân nhân của Phan Châu Trinh, còn hành động dưới quyền điều khiền của Pierre Guesde và Albert Sarraut.
Báo cáo 20/1/1921 của Josselme, trưởng Cơ Quan Kiểm Soát ở Marseille gửi Guesde về lời khai của François Albert, một luật sư gốc Việt - Miên đã ở trong nhóm Phan Văn Trường: "Ngày 17/1/1921, theo ý kiến của François Albert thì có khả năng nhân vật Nguyễn Ái Quốc không có thật mà đó chỉ là một bí danh của Phan Văn Trường, tiến sĩ luật khoa. François Albert nói: Tôi chưa bao giờ trông thấy Nguyễn Ái Quốc ở Paris. Tất cả các bài báo đăng cũng như các yêu sách của dân Đông Dương gửi đến hội nghị hoà bình đều do Phan Văn Trường thảo ra"700.
3/ Những ai biết tiếng Pháp và đọc những văn bản ký tên Nguyễn Ái Quốc, đều thấy một sự thực hiển nhiên: Nguyễn Tất Thành không thể viết những bài báo ký tên Nguyễn Ái Quốc.
Hoàng Xuân Hãn viết: "bí danh này có thể là tên tượng trưng của tất cả người Việt (Nguyễn là họ thông thường của nhiều người Việt, chứ không phải chỉ là họ của Tất Thành). Nguyễn yêu nước, ba chữ ấy ứng vào tiếng Pháp: Groupes des patriotes Annamites thấy ký ở dưới truyền đơn: Bản yêu cầu tám điểm. Có lẽ một mặt vì họ Nguyễn mà mật thám coi đó là tên của Nguyễn Tất Thành. Rồi sau Nguyễn Tất Thành cũng mang tên ấy một thời gian mà thôi"701.
Những điều này giáo sư Hoàng Xuân Hãn viết khi còn giả thuyết Nguyễn Tất Thành sang Pháp từ năm 1917.
http://vnthuquan.net/user/Ct.Ly/image/anh8.jpg
● Nhóm Ngũ Long
Hồ Hữu Tường là người đầu tiên "tiết lộ bí mật" về nhóm Ngũ Long. Hồ viết theo lời Phan Văn Trường kể lại khi họ gặp nhau ở Paris năm 1930, sau khi Phan ra tù lần thứ nhì, và sắp lên đường về nước. Những lời Hồ viết dưới đây có vài chi tiết sai, nhưng đại thể là đúng: "Khi ra rù, hai cụ được Nguyễn Thế Truyền, học xong ở Toulouse lên hiệp tác. Đầu tháng bẩy cụ Tây Hồ móc nối được với Nguyễn Tất Thành, lúc đó ở London, nên viết thơ gọi về Paris. (...), Đến 1918, nhóm nầy lại được Nguyễn An Ninh ở Sài Gòn sang nhập bọn. Người ngoài cho đó là năm con Rồng, bởi người Việt xưng mình là "con Rồng". Linh hồn của nhóm "Ngũ long" nầy là cụ Phan Châu Trinh.
Và khi chường ra công chúng, nhứt là khi viết báo chống thực dân, thì ý kiến thường do cụ Tây Hồ xướng ra, Nguyễn Thế Truyền, Phan Văn Trường và Nguyễn An Ninh thảo thành tiếng Pháp, và giao cho Tất Thành đem giao cho nhà báo với một bút hiệu chung.
Về cái bút hiệu nầy, có một giai thoại kể ra cũng buồn cười. Lúc ban đầu, các cụ chọn bút hiệu là Nguyễn Ố Pháp. Nghiã là thằng Nguyễn ghét người Pháp. Tên nầy được độc giả Pháp hoan nghinh lắm, vì giọng nói dí dỏm của người Việt Nam, lại thêm câu văn của Ninh và Truyền gọt giũa nên có duyên. Độc giả gởi thơ đến nhà báo hỏi Nguyễn Ố Pháp là ai và tên ấy có nghiã gì? Các cụ buộc lòng phải dịch cho ngay tình. Các bạn Pháp phản đối cái tên cực đoan dễ ghét, mà tiếng Pháp gọi là sô vanh (chauvin), và đề nghị đổi đi. Từ đó bút hiệu Nguyễn Ố Pháp bị đổi là Nguyễn Ái Quốc. Về sau bốn vị kia tách ra, tên Nguyễn Ái Quốc còn lại riêng cho Hồ Chí Minh"702.
Câu: "Nguyễn Thế Truyền, Phan Văn Trường và Nguyễn An Ninh thảo thành tiếng Pháp, và giao cho Tất Thành đem giao cho nhà báo với một bút hiệu chung", ăn khớp với sự khảo sát văn bản Nguyễn Ái Quốc mà chúng tôi sẽ đề cập đến ở chương sau.
Vẫn về việc này, Lê Thị Kinh viết lại lời Phan Châu Trinh: "Cụ Phan Châu Trinh trên giường bệnh tháng 3/1926 tại Sài Gòn đã kể lại vắn tắt với cụ Nguyễn Sinh Huy: "Ban đầu, Nguyễn Ái Quốc là tên chung của nhóm, khi cảnh sát đưa giấy cho Phan Châu Trinh ở số 6 Villa des Gobelins gọi Nguyễn Ái Quốc ra trình diện thì Tất Thành mới ra nhận"703.
Hồ Hữu Tường cũng kể lại việc này và pha trò theo cách của ông: "Bộ trưởng Thuộc Địa tống trát đòi "Nguyễn Ái Quốc đến cấp tốc tại Bộ Thuộc Địa gặp ông bộ trưởng", nhưng lại đem trát giao tận nhà Phan Châu Trinh. Cụ Tây Hồ gọi Tất Thành đến giao tờ trát, Tất Thành cầm trát đến gặp ông bộ trưởng Pháp và câu đầu nói xỏ rằng "Nguyễn Ái Quốc là tôi. May mà trát gởi đến nhà chú tôi là Phan Châu Mayence, ông Khánh Ký đã viết thư răn đe Tất Thành nên ăn ở tử tế với ông Trường- chứ ông Trường viết thư cho ông Trinh ngày 27/4/1921 còn dặn dò: "Tôi đã bảo cho Lục nếu nó cần ở Paris mấy tháng thì có thể đến căn hộ của tôi nhưng phải để gia đình ở Toulon. Nếu nó đem theo ai thì anh báo cho tôi. Roux đến Paris có việc gì hay chỉ đến thăm anh"651.
● Trình độ chính trị của Nguyễn Tất Thành
Trần Dân Tiên viết: "Lúc ấy, ông Nguyễn là một người yêu nước quyết tâm hy sinh tất cả vì tổ quốc; nhưng ông Nguyễn lúc đó rất ít hiểu về chính trị, không biết thế nào là công hội, thế nào là bãi công và thế nào là chính đảng (...) Ông Nguyễn không đủ tiếng Pháp để viết và phải khẩn khoản yêu cầu ông Phan Văn Trường viết thay. Ông Trường viết giỏi, nhưng không muốn ký tên. Mà chính ông Nguyễn đã phải ký tên những bài báo"652.
Đoạn này xác định thêm một lần nữa: Nguyễn Tất Thành không biết tiếng Pháp và cũng không hiểu gì về chính trị, nhưng những chi tiết này ở các bản tiểu sử chính thức về sau sẽ bị xoá hẳn. Trần Dân Tiên viết tiếp về việc học viết báo tiếng Pháp: "Nhược điểm về tri thức làm ông Nguyễn rất khó chịu. Nhất là ông Trường không viết tất cả những điều ông Nguyễn muốn nói. Vì vậy, ông Nguyễn bắt tay vào việc học làm báo. Thường lui tới toà báo "Dân Chúng", ông làm quen với những người Pháp khác trong đó có chủ bút tờ "Đời sống thợ thuyền". Cũng như ông Lông-ghê, người chủ bút này cũng rất đáng mến. Ông bảo ông Nguyễn viết tin tức cho tờ báo của ông. Biết rằng không thể nhờ ông Trường viết mãi, ông Nguyễn nói thật là mình cón kém tiếng Pháp. Người chủ bút nói: "Điều đó không ngại, có thế nào anh viết thế ấy. Tôi sẽ chữa bài của anh trước khi đưa in. Anh không cần viết dài, năm, sáu dòng cũng được". Ông Nguyễn bắt đầu viết rất khó khăn. Tin tức về Việt Nam, ông Nguyễn không thiếu. Ông thiếu nhất là văn Pháp (...) Khi thấy viết đã bớt sai lầm, ông chủ bút bảo ông Nguyễn: "Bây giờ anh viết dài hơn một tý, viết độ bảy tám dòng". Ông Nguyễn viết bảy, tám dòng. Dần dần, ông Nguyễn có thể viết cả một cột báo và có khi dài hơn. Lúc bấy giờ người chủ bút bạn thân của ông Nguyễn khẽ bảo:"Bây giờ anh viết ngắn lại. Viết từng này hoặc từng này dòng. Không viết dài hơn"653.
Việc học tiếng Pháp để viết báo trong vài năm chỉ có thể đưa đến kết quả: Nguyễn Tất Thành có thể viết được vài hàng tin tức. Còn viết được những bài xã luận ký tên Nguyễn Ái Quốc là một chuyện khác. Nhất là Tất Thành chỉ ở Pháp có 4 năm.
Tóm lại, phần thành thật trong nhật ký Trần Dân Tiên là nhìn nhận lúc ở Pháp, Tất Thành chưa biết gì về chính trị, tiếng Pháp kém và muốn học để viết báo. Nhưng cũng có chỗ không thành thật: vì ông đã nâng thời điểm Tất Thành đến Pháp từ 1919 lên 1914, để chứng tỏ những việc làm của Phan Văn Trường là Nguyễn Tất Thành làm. Theo thông tin tình báo, ông chơi rất thân với Nguyễn Thế Truyền, người bạn có lúc ở chung với ông, hoặc ngày nào cũng gặp, có lẽ Nguyễn Thế Truyền mới là người đắc lực dạy ông tiếng Pháp.
Ở Hội Nghị Tours, khai mạc ngày 27/12/1920, Nguyễn Tất Thành xuất hiện công khai với cái tên Nguyễn Ái Quốc. Hémery viết: "Nguyễn xoay sở để được mời đi dự Đại Hội đảng Xã Hội ở Tours, nhân danh đại biểu khu 13 của nhóm Xã Hội Đông Dương ma (fantomatique). Ngày 27/12 anh phát biểu ủng hộ kiến nghị Cachin-Frossard, ủng hộ việc đảng Xã Hội gia nhập Quốc Tế Cộng Sản"654.
Về Hội Nghị Tours, Trần Dân Tiên viết: "ông Nguyễn lắng nghe nhưng không hiểu rõ lắm, vì người ta thường nhắc đi nhắc lại những tiếng, những câu: chủ nghiã tư bản, giai cấp vô sản, bóc lột, chủ nghiã xã hội, cách mạng (...) Ông Nguyễn nhức đầu vì khó hiểu"655.
Tuy không hiểu rõ những bàn cãi chính trị trong Hội Nghị Tours, nhưng Nguyễn vẫn bỏ phiếu cho Đệ Tam Quốc Tế vì ông nghĩ: "Đệ Tam Quốc Tế nói sẽ giúp đỡ các dân tộc bị áp bức giành lại tự do và độc lập của họ"656.
Đoạn này Trần Dân Tiên cũng viết rất thực, nhưng trong cuốn Hồng Hà và các tiểu sử chính thức về sau, những đoạn thành thực như thế sẽ bị xoá hẳn, để thêm vào những đoạn dài mô tả "Bác" đã "nghiên cứu" kỹ càng lý thuyết Mác-Lê trước khi dự Hội Nghị Tours.
616 Nguyễn Tường Bách, Việt Nam những ngày lịch sử, Tủ sách nghiên cứu, Montréal, 1981, trang 70.
617 Đặng Thai Mai, Hồi ký, Tác phẩm mới, 1985, trang 355.
618 Nguyễn Thế Anh, L'itinéraire politique de Ho Chi Minh, in trong cuốn Ho Chi Minh, L'homme et son héritage, Đường Mới, Paris, 1990.
619 P. Brocheux dẫn Hémery, Ho Chi Minh, Presses Sciences Po, 2000, trg15.
620 T. Lan là một trong những bút hiệu của Hồ Chí Minh sau 1951, theo Bùi Tín, ông Hồ rút ngắn bí danh Trần Thái Lan của Nguyễn Thị Minh Khai khi hoạt động ở Hương Cảng và Quảng Đông.
621 Lữ Phương, Từ Nguyễn Tất Thành đến Hồ Chí Minh, Thư Nhà, Melbourne, Australia, 2002, trang 5.
622 Lữ Phương, sđd, trang 26-27). 623 Lữ Phương, sđd, trang 25.
624 Trần Dân Tiên, trang 17.
625 Chép theo sổ hành trình của tàu, Hồng Hà, trang 27-28-29. Lê Thị Kinh, sđd, tập 1, quyển 3, trang 187.
626 Trần Dân Tiên, trang 18-19-20.
627 Lê Thị Kinh, sđd, tập 1, quyển 3, trang 187-188.
628 Nhà báo Pháp, cánh tả, nổi tiếng làm phim thời sự về Việt Nam.
629 Vũ Ngự Chiêu &Nguyễn Thế Anh, Một ngôi trường khác cho Nguyễn Tất Thành, Tủ sách Văn Hoá, Paris, 1983, trang 117- 118.
630 Lê Thị Kinh, sđd, trang 188-190.
631 Vũ Ngự Chiêu & Nguyễn Thế Anh, trang 121.
632 Hémery, sđd, trang 36-37. Lữ Phương, sđd, trang 19-20.
633 Trích theo Lữ Phương, sđd, trang 16, LP trích lại Hémery, Jeunesse d'un colonisé, genèse d'un exil. Ho Chi Minh jusqu'en 1911, Approche Asie, No 11, 1992.
634 Daniel Hémery, Ho Chi Minh De L'Indochine au Viet Nam, Gallimard 1990, trang 32-33.
635 Trần Dân Tiên các trang 15-16-17 và 20.
636 Vũ Ngự Chiêu & Nguyễn Thế Anh, sđd, trang 121.
637 Thu Trang, Rapport ký tên Jean, in trong Phụ lục cuốn Những hoạt động của Phan Châu Trinh tại Pháp 1911-1925, Đông Nam Á, Paris, 1983.
638 Trần Dân Tiên, trang 30-31.
639 Trần Dân Tiên, trang 32.
640 Hémery, sđd, trang 42. 641 Nxb Thanh Niên, 1976. 642 Hồng Hà, trang 38.
643 6 villa des Gobelins. Villa ở đây nghiã là Ngõ cụt, không phải là Phố.
644 Hồng Hà, sđd, trang 38 và 19.
645 Phan Văn Trường, Une histoire de conspirateurs annamites à Paris ou la vérité sur L'Indochine - Chuyện những người An Nam âm mưu ở Paris hay Sự thật về Đông Dương, L'Insomniaque, 2003.
646 Lê Thị Kinh, sđd, tập 2, quyển 1, trang 64. 647 Hồng Hà, trang 187.
648 Lê Thị Kinh, sđd, tập 1, quyển 3, trang 14.
649 Lê Thị Kinh, sđd, tập 2, quyển 1, trang 188.
650 Lê Thị Kinh, tập 2, quyển 1, trang 211.
651 Lê Thị Kinh, sđd, t2, q1, trang 190.
652 Trần Dân Tiên, trang 34- 35.
653 Trần Dân Tiên, trang 35- 36.
654 Hémery, trang 46.
655 Trần Dân Tiên, trang 46-47.
656 Trần Dân Tiên, trang 49.