Chương 19 (tt)
Nguyễn An Ninh

     guyễn An Ninh có hai lối viết: lối tranh luận, đôi khi cũng sát phạt không kém Nguyễn Thế Truyền và lối hoà nhã gần Phan Văn Trường.
Bài Thư gửi ông Outrey - Lettre à Monsieur Outrey ký Nguyễn Ái Quốc đăng trên Le populaire ngày 14/10/1919, là lối văn tranh luận, với những chi tiết xác định người viết là Nguyễn An Ninh và sự đụng độ kịch liệt giữa Outrey và Nguyễn An Ninh.
Việc phát xuất từ bài Đông Dương và Triều Tiên, một sự so sánh lý thú - L'Indochine et la Corée, une intéressante comparaison, in trên báo Le populaire ngày 4/9/1919. Trong bài này Nguyễn An Ninh so sánh sự bảo hộ Triều Tiên của Nhật Bản với sự bảo hộ Đông Dương của Pháp. Ông buộc tội Pháp đã đầu độc người da vàng bằng những lời hứa hão và dùng bọn bồi bút để ca tụng chính quyền thuộc địa. Ernest Outrey đã từng làm thống đốc Nam Kỳ và từ năm 1914, làm dân biểu, đại diện người Pháp ở Sài Gòn tại Hạ Viện.
- Tháng 6/1919, bản Thỉnh Nguyện đưa đến Versailles và gửi cho các cơ quan có thẩm quyền và báo chí.
- Ngày 23/6/1919, Phủ Tổng Thống yêu cầu bộ Thuộc Địa báo cáo về Nguyễn Ái Quốc và nhóm Yêu Nước.
- Ngày 18/6/1919 báo L'Humanité - lúc đó là báo của đảng Xã Hội, đăng bản Thỉnh nguyện dưới tựa đề: Les droits des peuples- Quyền của các dân tộc.
- Ngày 2/8/1919 L'Humanité đăng bài La question des indigènes en Indochine của Nguyễn Ái Quốc do Phan Văn Trường viết.
- Ngày 4/9/1919 Le populaire đăng bài L'Indochine et la Corée, une intéressante comparaison ký Nguyễn Ái Quốc do Nguyễn An Ninh viết. Sự chống Pháp trên báo chí Pháp được phát động qua ngòi bút Nguyễn Ái Quốc. Tình hình sôi động.
- Ngày 20/9/1919, P. Guesde lệnh cho Cảnh sát Cuộc gọi Nguyễn Ái Quốc đến hỏi cung và chụp ảnh, lần đầu.
- Ngày 18/9/1919, vấn đề Nguyễn Ái Quốc được đem ra tranh luận tại Quốc hội giữa Outrey và Longuet - Moutet. Outrey chất vấn Longuet, chủ nhiệm báo Le Populaire: Đã cho đăng những bài báo của Nguyễn Ái Quốc, một kẻ thù của nước Pháp, tên này là một kẻ phiến động đã bị truy tố ở Nam Kỳ. Được tin, Nguyễn An Ninh đang nghỉ ở Biarritz viết lá thư ngỏ cho Outrey, gửi đăng trên báo Le Populaire, phản pháo mãnh liệt, đồng thời xác định mình là Nguyễn Ái Quốc, Nguyễn An Ninh viết:
"Ông đã nói đi nói lại (ở Hạ Viện) rằng tôi bị truy nã ở Đông Dương vì âm mưu chống Pháp. Vậy hãy cho biết, lúc nào, toà án nào, âm mưu gì?"
Ernest Outrey và Nguyễn An Ninh biết rõ hành tung của nhau. Xin nhắc lại: Trong suốt thời gian từ 1911 đến 1919, Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền và Nguyễn Tất Thành không ai có mặt tại Nam Kỳ.
Outrey biết Nguyễn An Ninh thuộc gia đình chống Pháp hàng đầu ở Nam Kỳ: cha, mẹ, chú, cô đều là những nhà cách mạng. Khách sạn Chiêu Nam Lầu của cha Ninh là nguồn tài trợ cho phong trào Đông Du, là nơi tá túc hội viên các hội kín Đông Kinh Nghiã Thục, Cường Để750. Bản thân Nguyễn An Ninh cũng rất quậy, để tóc dài, hay đánh lộn với Tây và viết báo chống Pháp từ thời niên thiếu. Outrey, khi đọc văn, đoán chắc Nguyễn Ái Quốc là Nguyễn An Ninh và dựa trên các thông tin đã biết, Outrey tố cáo Nguyễn Ái Quốc là người đã bị truy nã về tội chống Pháp ở Nam kỳ.
Thành tích chống Pháp của Nguyễn An Ninh đã trở thành huyền thoại: "Thi đậu bằng Brevet Elémentaire751nhà ái quốc đi làm báo tiếng Pháp, do người Pháp điều khiển. Trong thời gian làm báo, dù chỉ là một cộng sự viên tầm thường, lượm tin chó cán, nhưng Ninh đã nổi tiếng rồi, vì sự bất khuất, hay đập lộn với người Pháp, hay chưởi người Pháp. Chính trong thời gian nầy, trong nước xẩy ra nhiều chuyện bạo động, nào Phan Xích Long khởi nghiã, Trần Cao Vân rước vua Duy Tân rời kinh thành Huế, Lương Ngọc Quyến bạo động ở Thái Nguyên. Dù những phong trào ấy bị thất bại, song gieo vào lòng người dân thời đó một mầm mống sâu đậm trong cõi lòng, trong số đó có nhà ái quốc thanh niên Nguyễn An Ninh"752.
Sở dĩ Nguyễn An Ninh không bị bắt vì tuổi vị thành niên, vì vậy, Ninh mới viết Lá thư gửi ông Outrey, thách y phải tìm ra chứng cớ rằng tôi - Nguyễn Ái Quốc- bị bắt ở Nam Kỳ lúc nào, năm nào, bị bắt ở đâu, ra toà nào? Ninh đã "đáp lễ" Outrey tới nơi tới chốn.
Vì câu thách thức này mà ta xác định được tác giả Lá thư gửi ông Outrey là Nguyễn An Ninh. Khi xác định được Nguyễn An Ninh là tác giả Lá thư gửi ông Outrey thì tự nhiên ông là người viết bài Đông dương và Triều tiên, vì bài này mà Outrey nhận diện được Quốc là Ninh và gây hấn.
Người viết nào cũng để lại căn cước của mình qua chữ nghiã. Cho nên dù ký tên gì đi nữa, người đọc tinh ý luôn luôn tìm ra bản chất và lai lịch của người viết.
Sự xác định tác giả một số bài viết ký tên Nguyễn Ái Quốc mà chúng tôi ghi danh sách trong phần cuối chương này, dựa trên cơ sở của những chi tiết đó.
● La France et L'Indochine
Ngoài tài bút chiến, Nguyễn An Ninh còn là ngòi bút văn chương và tư tưởng. Trong La France et L'Indochine - Nước Pháp và Đông Dương, Nguyễn An Ninh viết:
"Trong những năm gần đây, mặc dù thực dân hết sức tìm cách giam hãm người An Nam, nhưng dưới hấp lực của phong trào thanh niên Tây du, một vài người đã có thể đến Pháp, quan sát đời sống hàng ngày và tìm hiểu bí quyết về sức mạnh vật chất của Âu Châu. Họ mang về nước tư tưởng dân chủ, tinh thần phê phán của Châu Âu; hơi thở Tây phương đã làm sống lại niềm tin và nghị lực của họ. Họ đã nhận tận tay người Pháp bản án chế độ thực dân Pháp tại Đông Dương. Thực dân không thể ngăn cấm người An Nam biết tiếng Pháp đọc Montesquieu, Rousseau, Voltaire.
Và, cùng một lúc, tinh thần phê phán Tây phương, giúp thanh niên An Nam ấp ủ tâm hồn dân tộc trong lòng, giải thoát triết học Khổng Tử và Mạnh Tử khỏi lớp bụi dầy của đạo lý Khổng Mạnh suy đồi. Đã có một số xu hướng nổi lên, tìm cách cổ động quần chúng bỏ ý định phục thù bằng bạo lực và dấn thân vào con đường tranh đấu mới: Đòi hỏi những tự do căn bản để bảo tồn phẩm giá con người, đòi hỏi những cải cách, hoà hợp tinh thần dân chủ của dân tộc An Nam với tư tưởng Tây Phương. Họ không còn chấp nhận, như quần chúng đã phải chấp nhận, như kẻ bại trận trên chiến trường đã phải chấp nhận, cái luật chiến tranh, cái đắc ý thô bạo của kẻ thắng và sự nhục nhã của người thua. Họ cũng không còn chiến đấu bí mật với lòng yêu nước thuần tuý nữa mà họ tranh đấu công khai, nhân danh nguyên tắc nhân quyền 1789. Và bọn thực dân không còn dám dựa trên cớ "chủ quyền nước Pháp bị đe doạ" để bắt họ đi đày hoặc xử tử.
Như thế, chính sách người bóc lột người ở Đông Dương đã được báo trước sẽ bị phá sản.
Hoặc là, điên cuồng vì thất bại, bọn thực dân vẫn cố chấp áp dụng biện pháp đán áp, tiếp tục siết chặt những nạn nhân đang vùng vẫy, mặc kệ dấu hiệu báo trước những biến cố sắp tới; như thế, thảm họa chung sẽ xẩy ra: nước Pháp mất hết quyền lợi và uy tín -"sứ mệnh giáo hoá" của Châu Âu sẽ lộ bộ mặt thật của nó- và nước An Nam, sau những kinh hoàng, thống khổ, sẽ được tự do hơn để hoàn tất sứ mệnh của mình.
Hoặc là, nước cộng hoà Pháp đến Đông Dương để thay thế bè lũ thực dân; như thế, không những, thanh danh và lợi ích của Pháp sẽ được bảo toàn, mà Pháp còn được hưởng sự tri ân của một dân tộc sẽ ủng hộ họ ở Châu Á.
Cách đây khoảng 15 năm, để trả lời tiếng kêu của những người bị đàn áp, bọn thực dân đã rêu rao trên báo như sau: "Nước Pháp không đến đây với Kiếm và Luật. Chỉ có Kiếm"753. Dường như, sau sáu mươi năm bị đô hộ và chịu ảnh hưởng Pháp, đất Nam Kỳ ngày nay đã được công bố là đất Pháp, vậy người An Nam có quyền đòi hỏi nước Pháp phải mang sang Đông Dương, không những Luật, mà cả thanh bảo Kiếm để bảo vệ Luật pháp. Sự hoà hợp giữa lý tưởng cộng hoà Pháp và tư tưởng dân chủ của một xã hội có nền móng tư tưởng Khổng Mạnh, không phải là sự tiến hoá theo quy luật tự nhiên, như thực dân tuyên truyền. Phong trào giải phóng các dân tộc ở Á Châu không phải là sự "tiến hoá" từ xã hội dã man lên xã hội Âu Châu tân tiến.
Phải là thực dân trong nghĩa ngu xuẩn nhất mới có thể tin được "nghiã vụ giáo hoá" của những người Âu Châu sang xâm chiếm Đông Dương. Ở Ấn Độ, sự tuyên ngôn về "nghiã vụ giáo hoá" (của người) Tây phương gợi trong lòng một Tagore ý thức giáo hoá (đến từ) Đông phương. Ở Trung Hoa, giới thanh niên đã đi học ở Âu Châu, đặt câu hỏi trên báo chí như một thách đố với Châu Âu: "Bạn có thể nói cho chúng tôi biết, nước bạn đã văn minh chưa? (...)
Về chính sách thực dân mà nước Pháp áp dụng ở Đông Dương, chúng tôi nhận thấy:
1- Rằng, ở Đông Dương, nước Pháp chẳng những không áp dụng những nguyên tắc lớn mà họ đã tuyên thệ, mà còn tiêu diệt tư tưởng dân chủ của xã hội An Nam.
2- Rằng, nước Pháp, thừa nhận tự do và quyền công dân Pháp cho những người, hôm qua, vẫn còn là nô lệ, nhưng lại áp đặt chế độ nô lệ ở Đông Dương cho một dân tộc tự do, đã có một nền văn minh, từ khi cư dân sống trên đất Pháp vẫn còn ăn lông ở lỗ (vivait dans des cités lacustres)"754.
Bài viết La France et L'Indochine mà chúng tôi vừa trích dịch một đoạn trên đây, có thể tóm gọn tư tưởng đấu tranh của Nguyễn An Ninh.
Trong cuốn Nguyễn An Ninh tác phẩm755 có in bản dịch Nước Pháp ở Đông Dương - La France en Indochine và nói rằng bản này đã in trong in tạp chí Europe, nhưng khi so sánh chúng tôi thấy không hoàn toàn giống.
Theo Đặng Hữu Thụ, "La France en Indochine" tháng 4/1925, in 2000 bản tại nhà A et F Debeaufauve Tournefort Paris. Ninh trao cho Nguyễn Thế Truyền 150 bản để Truyền nhờ các thủy thủ Việt Nam đem về nước. Ngoài ra, sách cũng được gửi tặng một số dân biểu, nghị sĩ Pháp, Hội Nhân Quyền và báo chí viết về thuộc địa. Khi đáp tàu về nước ngày 28/5/1925 cùng Phan Châu Trinh, Nguyễn An Ninh mang theo một số cuốn. Nhưng Bộ thuộc địa biết, đánh điện về Phủ toàn quyền, và sách đã bị tịch thu khi tàu cập bến756.
Mật báo của Deveze 12/1/1921, nói đến một cuốn Đông Dương, ký Nguyễn Ái Quốc, như sau:
"Hội Ái Hữu xuất bản ở 118 Avenue Parmentier đã gởi cho ông Nguyễn Ái Quốc: "Chúng tôi đã đọc bản thảo "Indochine" hay "Máu của mỗi người" nhưng Hội không thể nhận xuất bản được vì đã cam kết với nhiều nơi rồi. Nhưng chúng tôi sẵn sàng mời ông đến trao đổi về bản thảo đó" Dezeve ghi thêm: "Mặc dù Nguyễn Ái Quốc khẩn thiết nhưng báo L'Humanité cho rằng không thể đưa vào khuôn khổ tờ báo"757.
Một cuốn sách, mang tên Đông dương (1923-1924) được dịch và đưa vào Hồ Chí Minh toàn tập, tập 1, phải chăng đây chính là tác phẩm Indochine hay Máu của mỗi người mà Dezeve nói đến? Trần Dân Tiên viết: "Ông Nguyễn chỉ viết cuốn sách duy nhất là Bản Án Chế Độ Thực Dân", vậy ông Hồ không biết đến cuốn Đông Dương ký tên Nguyễn Ái Quốc.
Đông dương (1923-1924), dịch in trong Hồ Chí Minh toàn tập có cùng bố cục như Bản Án Chế Độ Thực Dân Pháp, nhưng lời văn điềm đạm hơn, gần với lối viết của Nguyễn An Ninh và Phan Văn Trường. Điểm chung của hai tác phẩm là cùng dùng những mẩu chuyện, những nhân chứng đã có trong các bài ký tên Nguyễn Ái Quốc. Đông Dương nói đến tình trạng ở nước ta, còn Bản Án Chế Độ Thực Dân Pháp viết chung cho nhiều dân tộc.
● Le Procès de la Colonisation Française
Bản Án Chế Độ Thực Dân Pháp
Cuốn Le Procès de la colonisation française đề tên tác giả Nguyễn Ái Quốc và Nguyễn Thế Truyền viết tựa. Nhưng thực ra ai viết? Sách in năm 1925, sau khi Nguyễn Tất Thành đi Nga hai năm. 1946, in lại lần đầu ở Hà Nội.
1/ Ngô Văn viết: "Sau khi Phan Châu Trinh khởi hành về Sàigòn, vào tháng 5 năm 1925 một luận văn châm biếm nẩy lửa do Thư điếm Lao động (Librairie du Travail) phát hành và lập tức bị cấm ở Đông Dương. Đó là tập Bản án chế độ thực dân Pháp (Procès de la colonisation française) ký tên Nguyễn Ái Quốc, nhưng có thể là do Phan Văn Trường và Nguyễn Thế Truyền viết"758.
2/ Đặng Hữu Thụ kể lại giai thoại sau đây: Ông Bửi Nghi, một người bạn kể cho ông rằng Nguyễn Thế Truyền có đưa bản thảo cuốn Bản án chế độ thực dân cho ông Bửu Nghi đọc, nhờ chữa lỗi chính tả, và nói là của Nguyễn Ái Quốc viết759. Điều này cũng chẳng nói lên được gì, vì Nguyễn Thế Truyền và nhóm Ngũ Long đã đồng ý với nhau về việc lấy Nguyễn Ái Quốc làm bút hiệu chung. Khi Nguyễn Tất Thành đã đi Nga, Nguyễn Thế Truyền vẫn còn ký tên Nguyễn Ái Quốc trên báo và trong bản quảng cáo sẽ ra báo Việt Nam Hồn. Vậy đó là chiến lược của cả nhóm.
3/ Trần Dân Tiên chỉ viết một câu ngắn gọn về văn bản này: "Ông Nguyễn chỉ viết một quyển sách duy nhất là quyển "Bản án chế độ thực dân Pháp"; quyển này gồm những tài liệu chống thực dân Pháp, trích trong những sách của người Pháp viết để ở thư viện quốc gia. Đầy hăng hái, ông Nguyễn viết cả vở kịch "Rồng tre"760.
Sự quá vắn tắt của Trần Dân Tiên rất khả nghi, tại sao ông không nói rõ là ông Nguyễn đã viết cuốn Le Procès trong hoàn cảnh nào? Nhất là cuốn sách ấy lại in sau khi ông đi Nga hai năm. Lý do dễ hiểu: có lẽ ông Hồ chưa đọc Le Procès khi viết những dòng này năm 1948, cho nên mới có câu: "quyển này gồm những tài liệu chống thực dân Pháp, trích trong những sách của người Pháp viết để ở thư viện quốc gia". Bởi vì những nhân chứng kể tội ác thực dân, mô tả rõ ràng, trần trụi việc hãm hiếp, tra tấn, giết người, ở những làng mạc có tên rõ như thế, lại được in lại thành sách để trong thư viện Pháp, cho ông Hồ chép lại, thì quả là lạ. Báo chí đối lập của Pháp có thể đưa tin này khác về tội ác chiến tranh, nhưng chắc chắn những vụ giết người kinh hoàng như vậy đã bị quân đội và chính quyền thực dân giấu nhẹm, chỉ có các nạn nhân và những người lính Việt Nam đã chứng kiến tại chỗ mới có thể biết được.
4/ Chúng tôi tạm đưa ra giả thuyết: Nguyễn Tất Thành không có khả năng tiếng Pháp và không có đủ tài liệu sống để viết tác phẩm này. Có thể ngoài tài liệu của nhóm Yêu Nước, Nguyễn Thế Truyền còn tập hợp thêm những bài báo, những chứng nhân khác ở các thuộc địa, xuất hiện trên báo Le Paria, sửa đổi đôi chút rồi viết tựa. Tài liệu phong phú và cực kỳ chi tiết về sự tàn ác của chế độ thực dân trên các nước nhược tiểu, Bản Án Chế Độ Thực Dân Pháp có thể được coi là một sáng tác tập thể mà Nguyễn Thế Truyền làm "chủ biên" và viết lời giới thiệu.
Phần nhân chứng về Việt Nam do lính thợ cung cấp, họ kể lại những tội ác của quân đội viễn chinh mà họ đã mục kích, những lời chứng này có thể đã được Phan Văn Trường thu lượm trong thời kỳ làm việc tại Công Binh Xưởng Toulouse.
Bản Án Chế Độ Thực Dân Pháp, được viết hay soạn từ những thông tin, những đoạn, những ý tưởng đã có trong các bài ký tên Nguyễn Ái Quốc và những thông tin khác đến từ các thuộc địa châu Phi. Tác phẩm không chỉ đưa ra bộ mặt lầm than, thống khổ của một dân tộc Việt Nam mà còn của tất cả những người dân da màu khác đang bị đô hộ. Vì vậy nó có tính chất nhân loại. Khó có thể xác định ai là tác giả, vì nội dung cho thấy bàn tay của nhiều người: Nguyễn Thế Truyền, trước tiên, vì ông đã có công soạn thảo, chỉnh đốn, viết tựa. Phan Văn Trường và Nguyễn An Ninh, viết về luật pháp. Phan Văn Trường viết về công binh. Nguyễn An Ninh, Nguyễn Thế Truyền, Phan Văn Trường đều có thể khắc họa những chân dung toàn quyền và viết về các chính sách dã man của thực dân Pháp trên đất nước ta. Nhưng còn có những đóng góp khác của các nhà văn châu Phi, và thư từ độc giả từ các nơi gửi về... do đó Nguyễn Thế Truyền đã giữ tên tác giả chung là Nguyễn Ái Quốc.
● Vở kịch Rồng tre - Le dragon de bambou
Không biết Nguyễn Thế Truyền hay Nguyễn An Ninh viết, nhưng chắc chắn không phải Nguyễn Tất Thành, vì chữ Rồng ở đây có ý tự trào, ngạo nghễ ám chỉ đám Ngũ Long, tuy là đồ chơi mà... là Rồng, tức là chơi lối... Rồng - Đế vương. Lại vừa có ý nhạo vua Khải Định là Rồng mà... Rồng tre - đồ chơi. Ý nghĩa thâm thúy như thế, nhưng chắc ông Hồ không hiểu rõ, nên mới nhận là mình viết. Bởi nếu ông viết thì không thể viết như thế, khác nào lậy ông tôi ở bụi này: đã tự coi mình là Nguyễn Ái Quốc duy nhất, thì làm sao lại chấp nhận có các con Rồng khác?
Le dragon de bambou cái tựa của vở kịch, chúng tôi xin nhấn mạnh, nguyên tên tiếng Pháp là Le dragon de bambou - Rồng tre chứ không phải Le dragon en bambou -Rồng bằng tre, như có người đã cố ý sửa lại, bởi vì người sửa không hiểu được sắc thái (nuance) khác nhau giữa le dragon de bambou le dragon en bambou.
Kịch bản đã mất, nhưng cái tựa Le dragon de bambou- Rồng tre đã chứng minh sự tinh tế về Pháp ngữ của tác giả. Léo Poldès, người được Nguyễn Ái Quốc/Nguyễn Tất Thành đưa đọc để giúp việc trình diễn, viết: "Như cái tựa của vở kịch, Rồng tre là một vị nguyên thủ quốc gia Á châu bất lực, bất tài, ngu dốt, bị tác giả mắng nhiếc thậm tệ trong ba màn" ("Le dragon de bambou, titre de la pièce, était un chef d'Etat asiatique impuissant, incapable, ignorant, et dont l'auteur fustigeait sans pitié, pendant trois actes")761.
Ngòi bút Nguyễn Ái Quốc xuất hiện đều đặn trên các báo từ tháng 8/1919 đến đầu 1920: thời gian này chủ yếu là Phan Văn Trường và Nguyễn An Ninh viết.
Trong năm 1920, có ít bài, vì Phan Văn Trường bận việc toà án, đi về giữa Paris và Mayence, Nguyễn An Ninh về Sài Gòn hè 1920 và Nguyễn Thế Truyền về Bắc một năm từ 8/1920 đến 8/1921.
Thời điểm tung hoành mạnh mẽ nhất là khoảng 1921- 1922, khi Nguyễn Thế Truyền chính thức bước vào "nghề báo" và Nguyễn An Ninh còn ở Paris: bút hiệu Nguyễn Ái Quốc xuất hiện trên nhiều tờ báo một lúc, vậy hai người viết chính trong thời kỳ này là Nguyễn Thế Truyền và Nguyễn An Ninh. Phan Văn Trường bận việc ở Mayence, ít tham dự.
Tháng 10/1922, Nguyễn An Ninh về Sài Gòn. Cuối năm 1923, Phan Văn Trường về nước. Còn lại Nguyễn Thế Truyền, một mình, ký cả Nguyễn Ái Quốc và tên thật Nguyễn Thế Truyền.
Những bài ký tên Nguyễn Ái Quốc sau khi Nguyễn Tất Thành đi Nga, từ 1923 đến 1927, trên Le Paria và trên Inprekorr, báo Nga ấn bản Pháp ngữ, là của Nguyễn Thế Truyền.
● Xác định một số văn bản
Sự xác định một số văn bản mà chúng tôi nêu tên sau đây, dựa vào văn phong và tư tưởng khác nhau của mỗi tác giả; nhưng có khi, chỉ dựa vào một vài chi tiết rất nhỏ.
Phan Văn Trường: Tâm địa thực dân, Vấn đề dân bản xứ (L'Humanité 2/8/1919), Những kẻ bại trận ở Đông dương (La vie ouvrière số 101, ngày 8/4/1921), Quyền của những người lính (La vie ouvrière số 105, ngày 7/5/1921), Phong trào cộng sản quốc tế Đông dương (La revue communiste, số 15, tháng 5/1921), Vụ âm mưu ở Đông Dương (17/8/1921)...
Nguyễn An Ninh: Đông Dương và Triều Tiên (Le populaire, 4/9/1919), Thư gửi ông Outrey (Le populaire, 14/10/1919), Phong trào cách mạng ở Ấn Độ (La revue communiste, số 18-19 tháng 8-9/1921). Nền văn minh thượng đẳng (Le Libertaire, 23/9/1921), Tội ác của chủ nghiã thực dân (La vie ouvrière, số 126, ngày 30/9/1921), Sự quái đản của công cuộc khai hoá (Le Libertaire, ngày 30/9 và 7/10/1921). Hãy yêu Pháp, nước bảo hộ bạn (Le Libertaire, ngày 14/10/1921)...
Nguyễn Thế Truyền: Thú vật học (Le Paria số 2, ngày 1/5/1922), Mấy ý nghĩ về vấn đề thuộc địa (L'humanité ngày 25/5/1922), Paris (L'humanité, 30 -31/5/1922), Lời than của bà Trưng Trắc (L'humanité, 24/6/1922), Những kẻ khai hoá (Le Paria số 4, ngày 1/7/1922), Hận thù chủng tộc (Le paria số 4, ngày 1/7/1922), Thư ngỏ gửi ông Albert Sarraut (Le journal du peuple, 25/7/1922), Khai hoá giết người (Le Paria số 5, 1/8/1922), Phụ nữ An Nam và sự đô hộ của Pháp (Le Paria số 5 ngày 1/8/1922), Nhân đạo thực dân (Le paria, số 6-7 (tháng 9 và 10/1922), Amdouni và Ben Belkhir chịu nhục hình (Le Paria, số 8, 11/1922), Về vụ Siki (Le Paria, số 9, 12/1922), Người bản xứ theo mốt (Le Paria số 10, 15/1/1922)...
733 Đăng từng kỳ trên La Cloche Fêlée từ 30/11/1925 đến 15/3/1926. 1928, nxb Gia Định, Sài Gòn, xuất bản và 2003 Ngô Văn tái bản, L'Insomniaque, Paris.
734 Lê Thị Kinh, sđd, tập 1, quyển 3, trang31.
735 Lê Thị Kinh, sđd, tập 1, quyển 3, trang 46.
736 Lê Thị Kinh, sđd, tập 1, quyển 3, trang 81-89.
737 Cuốn hồi ký này, viết xong tại Paris, tháng 10/1923. Tháng 12/1923, Phan Văn Trường xuống tàu về nước, tới Sài Gòn cuối tháng giêng 1924. Sau đó ông ra Bắc khoảng một năm, thăm gia đình, đến tháng 2/1925, ông mới trở lại Sài Gòn và lo việc lập văn phòng luật sư và làm báo. Vì vậy, hồi ký chỉ bắt đầu đăng trên báo Chuông Rè từ ngày 30/11/1925.
738 Sau khi Phan Văn Trường mất ngày 21/4/1933, bà Phạm Vân Anh có viết loạt bài tựa đề Cái đời gian truân lưu lạc của Phan Văn Trường, ký VA (Phụ Nữ Tân Văn từ số 211 (10/8/1933) đến số 218 (28/9/1933), đăng lại trong cuốn Phụ Nữ Tân Văn Phấn son tô điểm sơn hà của Thiện Mộc Lan, Văn Hoá Sài Gòn, 2010). Loạt bài này phỏng theo hồi ký của Phan Văn Trường nhưng đã lược bỏ tất cả những chi tiết liên quan đến chính trị trong bản tiếng Pháp, có lẽ vì thời ấy, báo tiếng Việt không tự do bằng báo tiếng Pháp.
739 Hồi ký Phan Văn Trường, trang 72.
740 Hồi ký PVT, trang 73-74-75.
741 Hoàng Xuân Hãn, Tựa cuốn Những hoạt động của Phan Châu Trinh tại Pháp của Thu Trang, Đông Nam Á, Paris, 1983, trang 8.
742Lê Thị Kinh viết: "Khâm sứ Trung Kỳ Lévecque đã theo dõi phong trào sớm, đích thân chỉ đạo cuộc đàn áp, trước tiên nhằm vào hai người được đánh giá là chủ chốt: Phan Châu Trinh và Trần Quý Cáp. Rất quỷ quyệt, y chủ động mọi việc nhưng lại đẩy Phủ Phụ Chính của Triều đình Huế ra gánh trách nhiệm về các quyết định bắt và xử án các lãnh tụ Duy tân. Từ Huế vào Hội An, y điện thẳng ra cho Thống sứ Bắc kỳ Morel, nhờ bắt Phan Châu Trinh nhưng điện lại viết "Phủ Phụ chính nhờ bắt...".
Trong quá trình xét xử tại Huế, y cố gò Phủ Phụ Chính vào quyết định "trảm quyết" nhưng nhờ lương tri và dũng khí của các thượng thư, nổi bật nhất là hai cụ Cao Xuân Dục và Lê Trinh, đã dám lên tiếng cãi lại Lévêque với sự đồng tình của toàn Phủ Phụ Chính. Nhờ vậy mà Phan Châu Trinh đã thoát án chém tức thì, lãnh án "trảm nhưng giam lại", đầy Lao Bảo. Lévecque và toàn quyền đã đổi thành "đầy Côn Đảo". Thế nhưng sau đó nhà cầm quyền thực dân đã đổi trắng thay đen, lu loa rằng: "Do thù về việc đả kích quan lại nên Nam triều đã xử tử hình, may nhờ quan Pháp kịp thời can thiệp nên Phan Châu Trinh thoát chết". Lập luận này đã được ngay cả những đại biểu của cánh tả trong Hạ Viện Pháp tiếp thu trong phát biểu bảo vệ Phan Châu Trinh.
Ở Việt Nam thì lại loan truyền lập luận: "nhờ có Liên Minh Nhân Quyền can thiệp nên án tử hình được đổi thành khổ sai chung thân". Thực ra với tốc độ bắt và xử án tại Huế (ngày 31/3 bắt, ngày 10/4 đã xử án tại Huế) thì Liên Minh
sẽ không kịp ngăn chặn việc thi hành án trảm quyết ông Trinh tại Huế. (...)
Phải chăng vì sợ Phủ Phụ Chính sẽ nương tay với các bậc đại khoa nên sau đó, khi bắt Trần Quý Cáp (17/4/1908). Lévecque đã cho giữ ông tại Nha Trang, không cho giải ông về Huế giao cho triều đình xử theo thông lệ đối với các bậc đại khoa như đã làm với ông Trinh, và y đã cùng công sứ Khánh Hoà gây sức ép với các quan tỉnh để làm án "trảm quyết không xét xử", giết Trần Quý Cáp một tháng sau khi bắt (17/5/1908). (Lê Thị Kinh, sđd, tập1, quyển 2, trang 8-9).
743 Ngô Văn, sđd, trang 63.
744 Hồ Hữu Tường gặp Phan Văn Trường tại Paris khoảng tháng 2/1930, sau khi Phan ra tù lần thứ nhì, trước khi ông về xứ và ba năm sau ông mất.
745 Hồ Hữu Tường nhớ lầm, có lẽ là luận văn cử nhân, luận án tiến sĩ của Phan Văn Trường về Luật Gia Long.
746 Hồ Hữu Tường, 41 năm làm báo, trang 20.
747 Thu Trang, sđd, trang 9.
748 Đăng trên La revue communiste, số 15, tháng 5/1921.
749 Tài liệu Vidéo của INA (Institut National Audiovisuel - Viện Quốc Gia lưu trữ Âm thanh và Hình ảnh của Pháp) được đưa lên Youtube, và ông Nguyễn Ngọc Quỳ ở Paris ghi lại trên mạng diendantheky ngày 16/4/2011.
750 Vương Hồng Sển, Sàigòn năm xưa, trang 250.
751 Tương đương với Trung học phổ thông.
752 Phương Lan Bùi Thế Mỹ, Nhà cách mạng Nguyễn An Ninh, trang 10.
753 Nguyễn An Ninh dùng chữ Le Glaive, chỉ đoản kiếm sắc cả hai bên và là biểu tượng của Sức Mạnh.
754 Trích dịch La France et L'Indochine, Europe, số 31, ra ngày 15/7/1925.
755 Nxb Văn Học, 2009.
756 Đặng Hữu Thụ, sđd, trang 64.
757 Lê Thị kinh, sđd, tập 2, quyển 1, trang 161.
758 Ngô Văn, Việt Nam 1920-1945 Cách mạng và phản cách mạng thời đô hộ thực dân, Chuông rè, L'Insomniaque, Paris, 2000, trang 42.
759 Đặng Hữu Thụ, sđd, trang 123.
760 Trần Dân Tiên, sđd, trang 37.
761 Trích bài của Léo Poldès, trên báo Ici Paris Hebdo ngày 11/6/1946, in lại trong Hồ Chí Minh Le procès de la colonisation française, L'Harmattan, 2007, trang 194.