Chương 21
Phan Khôi (1887-1959)

    
 ● Sự chôn vùi Phan Khôi
Sau Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh, Trần Trọng Kim, từ thập niên 1930 Phan Khôi tiếp tục xây dựng nền móng mới cho Việt học, bằng phương pháp độc đáo: phân tích, phê bình và phản biện, cổ võ phải viết lịch sử cho đúng, kể cả các chi tiết nhỏ. Phải viết tiếng Việt cho đúng từng câu, từng chữ, từng chữ cái, từng chấm, phẩy. Phải dùng từ Việt và từ Hán Việt cho thích hợp. Phải hiểu Khổng học cho đúng. Sự tìm hiểu nguồn gốc ngôn ngữ và triết học Tây phương đi từ Thánh Kinh. Nữ quyền bắt đầu với Võ Tắc Thiên. Phan Khôi luôn luôn tìm đến nguồn cội để giải thích vấn đề. Là một nhà báo, nhưng không phải nhà báo bình thường. Là một học giả, nhưng không phải học giả cổ điển chỉ biết nghiên cứu. Phan Khôi là khuôn mặt học giả phản biện duy nhất của Việt Nam trong thế kỷ XX. Nhưng sự nghiệp văn học của Phan Khôi bị chôn vùi trong gần nửa thế kỷ783.
♦ Tạ Trọng Hiệp: Phan Khôi, người xa lạ
Tạ Trọng Hiệp là người đầu tiên ở hải ngoại, đặt vấn đề nghiên cứu lại Phan Khôi trong buổi trả lời phỏng vấn RFI năm 1996784:
"Tôi gọi Phan Khôi là Người xa lạ, vì từ những năm 56, 57 trở đi, qua hiện tượng đấu tranh của nhóm NVGP, thì sau đó có một cuộc đàn áp ghê gớm của nhà cầm quyền Hà Nội. Và từ đó đến nay, đã có rất nhiều thay đổi về tình hình trong nước (...) đã gần như không còn chỉ thị cấm kỵ gì nữa. Nhưng hình như với riêng một số người -chứ không phải toàn bộ- cứng đầu nhất trong NVGP, trong đó có Phan Khôi, thì những cấm kỵ ấy vẫn còn, còn dưới nhiều hình thức lắm. Thứ nhất là không nói đến Phan Khôi. Không nói đến Phan Khôi, làm như là không có hiện tượng Phan Khôi. Phan Khôi không xuất hiện ở trên trái đất này.
Nhưng tìm nhiều thì thấy có một vài trường hợp không thể tránh khỏi, nên miễn cưỡng, họ phải làm ra một tiểu sử về Phan Khôi. Trong một cuốn sách ra cũng lâu lắm rồi, từ năm 1972, tập 2 bộ Lược Truyện Các Tác Gia Việt Nam, ở mục số 50, có một trang rưỡi dành cho Phan Khôi. Nội dung bài viết và phong cách câu văn làm ta sống lại những năm chung quanh vụ đàn áp NVGP, mà đỉnh cao là về sau, xuất hiện dưới hình thức một cuốn gọi là "Bọn Nhân Văn Giai Phẩm trước toà án dư luận", in năm 1959 (...) Người nào có cuốn ấy thì thấy trong đó có ba, bốn bài gì đó, tập trung nện cụ Phan Khôi bằng đủ mọi cách, bằng những bịa đặt rất là bẩn thỉu, để chứng minh rằng ngay từ khi còn thiếu niên, Phan Khôi đã là người không ra gì. Và người viết không phải là người lơ tơ mơ đâu, đây là những người nổi tiếng có cá tính bướng bỉnh và có tinh thần phê phán rất ghê gớm như Nguyễn Công Hoan. Nếu tôi là con cháu Nguyễn Công Hoan, thì có lẽ lúc này tôi sẽ tìm những nơi nào có cuốn sách đó, đốt đi, để xóa một giai đoạn không tốt cho Nguyễn Công Hoan785.
Còn riêng cá nhân tôi, Tạ Trọng Hiệp, thì tôi lại chủ trương ngược lại: Nhân dịp ta ra 1 hay 2 đặc san về Phan Khôi, thì cũng nên in lại vài bài, kiểu bài của Nguyễn Công Hoan hay là của một vài người khác đã viết về Phan Khôi, để ta nhớ lại, nhất là để giáo dục thanh niên ngày hôm nay, là đã có những thời gian mà trình độ văn hóa và đạo đức trong nước nó sa đọa đến một cái mức thấp mà không ai có thể ngờ được. Đây có tính cách giáo dục, mở đường cho tương lai. Ngày hôm nay thì những cấm kỵ, phần lớn đã được bỏ rồi. Nhưng mà người ta vừa bỏ cấm kỵ, vừa muốn cho chúng mình nghĩ rằng trong quá khứ có một vài sự hiểu lầm chứ chẳng bao giờ sa đọa đến nỗi bẩn thỉu như thế. Đấy là chuyện nó cắt nghĩa tại sao tôi muốn gọi cụ Phan Khôi là người xa lạ. (...) Tôi tiếp tục cái ý Phan Khôi, người xa lạ là người ta hình như cố tình xóa dấu vết về Phan Khôi".
Tạ Trọng Hiệp đưa ra bằng chứng về luận điểm này:
1/ Sự cố tình xoá tên Phan Khôi
"Một bằng chứng rất gần đây là Phan Khôi trong những năm 30 có một số bài tranh biện với cụ Trần Trọng Kim (...) Những bài của cụ Kim đáp lại Phan Khôi được nhà xuất bản Tân Việt, khi in cuốn Nho Giáo lần thứ 3, cho vào phần Phụ Lục.(...) Bây giờ, muốn xóa dấu vết Phan Khôi cho tốt, là ta bỏ phắt cái Phụ Lục đi. Và quả nhiên, năm 1991, khi tái bản Nho Giáo ở Sài Gòn, người ta bỏ hẳn phần Phụ Lục ấy. Ta có thể đọc hết cuốn Nho Giáo mà vẫn không biết là Phan Khôi đã giới thiệu, đã có công rất lớn để giúp cho cuốn Nho Giáo của Trần Trọng Kim được giới có học, tạm gọi là trí thức hồi đó, tìm đọc. Và nhờ những biện luận của Phan Khôi mà có một số điểm sai lầm trong Nho Giáo được sửa lại. Như vậy là riêng về một tác phẩm mà Phan Khôi có công, và cái công đó đã hoàn toàn bị xoá bỏ, khi người ta tước cái phần phụ lục ấy đi".
2/ Về nhà văn Sở Cuồng Lê Dư, em rể Phan Khôi
"Ông Vũ Ngọc Phan, tác giả bất hủ của bộ Nhà Văn Hiện Đại mà tôi cũng như mọi người mang ơn rất nhiều trong thời còn trẻ (...) Những năm cuối đời, có đủ thì giờ, ông viết hồi ký rất tường tận. Đặc biệt ông dành riêng gần 100 trang để tả lại cái buổi ban đầu lưu luyến ấy, ông được gặp người yêu của ông và sau ông cưới làm vợ. Đó là cô Hằng Phương, người có quan hệ gia đình với Phan Khôi.
Tại sao tôi nhớ đến Vũ Ngọc Phan khi nói về Phan Khôi? Tôi muốn đưa ra một minh họa, đố ai chối cãi, rằng người ta cố ý, hay là quá sợ, người ta không dám nói đến Phan Khôi: Ông Vũ Ngọc Phan, nhà anh hùng văn hóa này, ông anh hùng đến nỗi kể về cô gái đẹp như tiên, ông tả Hằng Phương tóc dài mượt. Cái gì cũng đẹp cả. Thế thì bố cô Hằng Phương là ai? Đọc hết cả tập hồi ký của Vũ Ngọc Phan nhan đề Những Năm Tháng Ấy (...) cả thẩy 423 trang (...) vẫn không biết ông ấy tên là gì! Ông bố của Hằng Phương là nhà văn Sở Cuồng, tên thật là Lê Dư!
Lê Dư, hồi trẻ, có một giai đoạn bồng bột, nghe theo tiếng gọi của nhiệt huyết yêu nước, xuất ngoại Đông Du.(...) Vì đói quá, ông chuồn về Việt Nam. Và lại gặp lúc mật thám Pháp đang tìm cách dụ những người trí thức chống đối, về làm việc với nó, vì nó đang muốn mở ra một lối thoát cho trí thức nho học duy tân: Các anh đi con đường chống chúng tôi thì chết; nhưng nếu các anh đừng chống chúng tôi, mà lại có một hoạt động văn hóa, có lợi cho cả các anh lẫn chúng tôi, thì các anh sống được. Tức là bằng sự mở tờ Nam Phong. Một người có tư tưởng ôn hòa như Phạm Quỳnh đứng chủ trương. Cụ Lê Dư về được bổ nhiệm làm chủ bút, giữ phần Hán văn của Nam Phong786. Thì chỉ vì những năm đó mà về sau Lê Dư bị mang một nhãn hiệu -sau khi Cộng Sản lên cầm quyền- gần như là một người phản cách mạng. Cho nên Lê Dư cũng bị một số phận -tuy không nặng bằng Phan Khôi, nhưng cũng gần như thế.(...)- là trong bộ sách quý báu mà tôi hay dùng, Lược Truyện Các Tác Gia Việt Nam, tập II, ở mục số 19, có một tiểu sử Lê Dư, mà người cán bộ viết sách đó, lúc đó đang sống ở Hà Nội, có con gái cụ Lê Dư là bà Hằng Phương, con rể cụ Lê Dư là ông Vũ Ngọc Phan, con gái út cụ Lê Dư là vợ tướng Nguyễn Sơn, còn đang sống lúc bấy giờ ở giữa Hà Nội, mà họ dám viết tiểu sử Lê Dư bằng hai câu đầu như thế này: Không biết năm sinh và năm mất ở đâu. Lúc đó, cụ Lê Dư đang sống phây phây ở giữa Hà Nội (...) Vợ ông Lê Dư là em ruột Phan Khôi (...) tôi rất bất mãn khi ghi chép tiểu sử người ta, mà cứ giấu cái này, giấu cái kia. Nhất là cuốn hồi ký của Vũ Ngọc Phan, là người tôi mến trọng ngày xưa bao nhiêu, thì sau khi đọc cuốn hồi ký, tôi mất đi nhiều thiện cảm với ông ấy, chỉ vì cái chuyện hèn nhát của ông ấy: Tên bố vợ không dám nói, chỉ nói ông cụ làm ở Bác Cổ (...) Suốt mấy chục trang nói về ông bố của người mà mình sắp đến xin cưới con gái, không dám nói đến tên ông cụ là Lê Dư!
3/ Về cụ Phan Trân, cha Phan Khôi
"Điểm thứ ba, khi nói về tên ông ngoại của vợ mình là cụ Phan Trân. Trong suốt cả cuốn hồi ký, mỗi lần nhắc đến cụ thì cứ gọi cụ là cụ Phan Trần.(...) Ai có cuốn sách Những Năm Tháng Ấy của Vũ Ngọc Phan: Tên cụ là Phan TRÂN chứ không phải Phan TRẦN. Và qua sự chắp nối với một vài điều đọc ở chỗ khác, thì dần dần tôi thử phác họa Phan Khôi là con cái nhà ai, sinh năm nào? Ở đâu? Đấy, cái này đã bắt tôi bỏ ra nhiều thời gian tìm kiếm, nó là khía cạnh khiến tôi đi đến một quyết định là nếu viết bài, thì tôi đề tựa: Phan Khôi Người xa lạ? Với một dấu hỏi rất lớn vì quả thật là gốc gác, lý lịch và dấu vết về đời cụ Phan Khôi ngày nay gần như bị xoá hết cả rồi"787.
Tạ Trọng Hiệp qua đời ba tháng sau khi nói những lời "thịnh nộ" này. Đó là năm 1996.
Năm 2010, Lê Hoài Nguyên788 cho biết tình trạng chung như sau: "Tại miền Bắc cuốn "Bọn Nhân Văn Giai Phẩm trước toà án dư luận" là tài liệu duy nhất tập hợp các bài tổng kết phê phán chính thống về NVGP. Một số người nghiên cứu do không có tư liệu, thường dựa viết theo cuốn này khi phải nói về giai đoạn 1954-1960 (...) Hầu như toàn bộ các thế hệ sau không biết mặt mũi các ấn phẩm NVGP là thế nào, người ta chỉ lặp lại các luận điệu chính thống mỗi khi nói về nó. (...) Ở một số cuốn hồi kí khi đến giai đoạn này người ta chỉ lướt qua một vài dòng, kể cả hồi kí của Đào Duy Anh, Vũ Đình Hoè, Gia đình Phan Khôi, Vũ Ngọc Phan, Tố Hữu... Nghĩa là việc nói lại một cách rành mạch về NVGP vẫn còn là một việc cấm kỵ hoặc ít ra là khó nói!"
Và ông kết luận: "Trong một xã hội đã kéo dài hơn nửa thế kỷ về sự mê muội dân trí, về sự độc tài về chính trị, sự lừa dối, sự đầu độc để có sự đồng thuận về vụ NVGP và các nhân vật của nó thật khó như đáy bể mò kim¼ Nhưng trong đêm tối không phải không có những người đã nhìn thấy ánh sáng của chân lý. Sẽ có nhiều người phản đối tôi. Nhưng chẳng lẽ cứ im lặng mãi. Mỗi người chỉ là một góc của thế giới, và người ta bị thôi miên nữa, người ta cả tin. Tôi nghĩ đau khổ nhất của con người là đánh mất lý trí, là không hiểu, không thấy được thế giới thật đang ở bên mình. Họ đã sống và tàn sát đồng loại và tự biện minh bằng một cái mục đích hão huyền vô nhân tính. Vào những năm đầu đổi mới, tôi đã viết trong bài thơ Thế giới đang tồn tại: "Bi kịch thay cho những dân tộc chỉ tin vào những thần tượng, những tín điều""789.
Đây là bài viết công khai đầu tiên của một người trong ngành công an, đã từng có trách nhiệm trong hơn 20 năm về hồ sơ NVGP. Một bài viết can đảm. Không những có những thông tin đúng đắn, những nhận định ngay thẳng, mà còn đòi hỏi sự sòng phẳng với quá khứ về mặt văn học và lịch sử.
Hoạ sĩ Trần Duy, trong bài Tưởng niệm về Phan Khôi, viết nhân dịp kỷ niệm 120 năm sinh Phan Khôi 6/10/1887- 6/10/2007790 viết: "Ông Phan Khôi không còn nữa, nỗi oan khuất của đời ông vẫn chưa có người giải!(...) nỗi oan của Phan Khôi, cái mà ông quý nhất, gìn giữ nhất là phẩm giá, thì đã bị bôi nhọ, bị chà đạp. Ai là người minh giải?"791.
♦ Đánh Phan Khôi, các văn bản ô nhục
1/ Rồng Nam phun bạc
Trong cuốn Lược truyện các tác gia Việt nam, quyển II, in năm 1972, của Trần Văn Giáp, Nguyễn Tường Phượng, Nguyễn Văn Phú, Tạ Phong Châu, mục từ số 50, có đoạn như sau: "Phan Khôi đã được Mác-ty (Marty) gọi ra làm việc cạnh nó và viết báo Nam Phong. Trong phòng kín, Phan đã bí mật tố giác một số nhân sĩ yêu nước và bí mật hiến mưu dập tắt phong trào cách mạng"... Trong tạp chí Nam Phong, Phan đã viết những bài văn và bài thơ lừa dối, kêu gọi "dân An Nam" dốc túi ra lấy tiền để đánh đổ "Đức tặc" giúp đỡ nước "bảo hộ" Pha-lang-xa đã không quản trùng dương muôn dặm đem "văn minh" sang gieo rắc ở cái đất An-nam "hèn yếu hủ lậu này"... Phan đã tuyên truyền rầm rộ cho giặc dưới cái nhãn hiệu phỉnh nịnh là "Rồng Nam phun bạc".
Những việc làm của Phan Khôi "đã đẹp lòng bọn mật thám Mác-ty nhưng chỉ đem lại cho sĩ phu hồi đó sự căm giận khinh bỉ. Phan Khôi là một nhà Nho không những không có sĩ khí văn phong gì, mà đã tụt xuống bại vong quốc nô vô sỉ" (Xem bài Một nhà nho "tiết tháo": Phan Khôi của Phùng Bảo Thạch, đăng trong tập "Bọn Nhân Văn - Giai Phẩm trước toà án dư luận" Nhà xuất bản Sự Thật, 1969, trang 76, 78). (...) Nhóm phá hoại Nhân Văn - Giai Phẩm đã bị vạch mặt và bị dư luận phê phán nghiêm khắc. Cuộc đời nhơ nhớp, phản bội cách mạng của Phan Khôi lần này được phơi bày ra ánh sáng. Hai năm sau, 1960, Phan Khôi chết ở Hà Nội"792.
Đó là Phan Khôi, trong Lược truyện các tác gia Việt Nam, 1972, hoàn toàn trích dẫn bài viết của Phùng Bảo Thạch. Ngày nay, Từ điển Bách khoa, mục từ Pháp Việt đề huề, cũng vẫn chép lại câu của Phùng Bảo Thạch: Báo Nam Phong của Phạm Quỳnh đưa ra khẩu hiệu "Rồng Nam phun bạc đánh đổ Đức tặc".
Trong số những bài đánh Phan Khôi, bài của Phùng Bảo Thạch tồi tệ nhất, nhưng lại có ảnh hưởng sâu rộng và dài lâu nhất, tại sao? Vì bài này được in trong cuốn "Bọn Nhân Văn Giai Phẩm trước toà án dư luận" và đến 2010, theo Lê Hoài Nguyên, người ta vẫn còn dựa vào cuốn này khi phải viết về giai đoạn 1954-1960. Phùng Bảo Thạch là một trong ba người sáng lập báo Đông Tây (1929-1932)793 mà Phan Khôi cộng tác năm 1930-1931, tức là "bạn đồng hành" của Phan Khôi thời trẻ, cho nên là người "có thầm quyền hơn cả" khi viết về Phan Khôi.
Chúng tôi tìm đọc Nam Phong, thấy bìa sau phần chữ Hán có hình một con rồng phun lên hai chữ Nam Phong; còn trong những bài tiếng Việt mà Phan Khôi viết trên Nam Phong, thì tuyệt nhiên không thấy khẩu hiệu "Rồng Nam phun bạc" và cũng không thấy bài văn, bài thơ nào kêu gọi "dân An Nam" dốc túi ra lấy tiền để đánh đổ "Đức tặc". Tìm đọc những bài Phan Khôi viết trên báo khác, thì thấy một bài hài đàm có tên Rồng Nam, viết năm 1929 trên báo Thần Chung, trong đó Phan Khôi nói phiếm đại ý: cái tên nào có chữ Nam, hay bị xui. Không biết tay Lang-Sa nào xỏ lá, Siam thì nó gọi là Siamois; Cambodge là Cambodgien, chỉ có Annam thành Annamite. Vần ite sau chót chỉ dân bán khai. Vậy mà cũng không hẳn xui đâu, vì Phan nhớ lại hồi thế chiến "chánh phủ mở cuộc quốc trái ở nơi mấy cái cáo thị dán cùng đường, thì có con rồng, dưới lại đề chữ: "Rồng Nam phun bạc đánh đổ Đức tặc". Đức bị đánh đổ không chưa biết, chớ rồng Nam lúc đó phun bạc thiệt nhiều!"794
Thì ra người ta đã lấy "cái cáo thị dán cùng đường, có con rồng, dưới lại đề chữ: "Rồng Nam phun bạc đánh đổ Đức tặc", đổ cho Phan Khôi và nhóm Nam Phong, để có cớ lôi Phan Khôi xuống bùn. Trong cuốn Lược truyện các tác gia Việt Nam, có ba học giả bị kết án nặng nhất, nhưng Nguyễn Văn Vĩnh -mục từ 24- chỉ bị coi là thân Pháp. Phạm Quỳnh -mục từ 48- dù bị thủ tiêu, cũng chỉ bị coi là "tay sai đắc lực của đế quốc Pháp trong lãnh vực văn hoá và một tên Việt gian lợi hại chống cách mạng". Phan Khôi bị bôi nhọ một cách bỉ ổi hơn cả.
Như vậy, sự bôi nhọ Phan Khôi được chuẩn bị một cách hệ thống, chắc chắn phải do lệnh từ trên cao nhất của lãnh đạo. Hồ Chí Minh lúc ấy là chủ tịch kiêm tổng bí thư. Trường Chinh đã từ chức từ tháng 10/1956 và Tố Hữu không đủ thẩm quyền để đánh Phan Khôi. Chiến dịch này dùng những học giả, nhà văn, nhà báo lão thành như Hồng Quảng, Nguyễn Đổng Chi, Nguyễn Công Hoan, Phùng Bảo Thạch, Trần Văn Giáp...
Hồng Quảng là tên giả của một trong những học giả hàng đầu, là người chủ chốt. Bài Tính chất Phan Khôi hay ngựa quen đường cũ ký tên Hồng Quảng đăng trên Văn Nghệ số 11 tháng 4/1958, là bài chỉ đạo: Trầm tĩnh, lịch sự tối thiểu, không mày tao, chi tớ, có lúc còn gọi Phan Khôi là tiên sinh, dù trong nghiã mỉa mai, nhưng dần dần tiệm tiến "chứng minh" Phan Khôi là kẻ "phản quốc". Lập luận chính: "Phan Khôi chỉ học mót của Hồ Thích chứ không có tư tưởng gì cả". Hồng Quảng là "thủ trưởng" vụ đánh Phan Khôi, nhưng viết bài mà không dám ký tên thật luôn luôn là một hành động phức tạp: ở những kẻ có "tên tuổi", đây là hành động "kẻ cả", tỏ mình là "bề trên", không nhúng tay vào những việc bẩn. Nhưng đồng thời cũng chứng tỏ tác giả không tin vào điều mình viết, thậm chí còn xấu hổ nữa, nên không dám ký tên thật. Là ai chăng nữa, thì việc ký tên giả luôn luôn chứng tỏ người viết là kẻ tráo trở hai mặt, ném đá giấu tay. Tên giả thường chỉ xuất hiện trong một "vụ việc" nào đó, rồi hết. Khác với việc nhà văn dùng nhiều bút hiệu để phân biệt lối viết và cách trình bày tư tưởng khác nhau của mình trên mặt báo.
Sự chỉ đạo của Hồng Quảng được Nguyễn Đổng Chi gián tiếp nói ra: "Khi viết bài này, bạn Hồng Quảng ở tạp chí Văn nghệ (số 11) đã vạch cho ta thấy Phan Khôi "không phải độc lập sáng tạo" mà chỉ học mót lại những cái Hồ Thích đã nói từ lâu. Đúng thế. Phan Khôi là một tên học trò vụng về của Hồ Thích, mà Hồ Thích thì là một tên lính xung phong của thực nghiệm chủ nghĩa hay thực dụng chủ nghĩa của giai cấp tư sản phản động của đế quốc Mỹ do bọn Đi-uy (Dewey), Ram (James) và Mát (Mach) v.v¼ sáng tạo"795
Một chi tiết nhỏ trong lời của Nguyễn Đổng Chi: Hồng Quảng đã "vạch cho ta" chứng nhận tính cách chỉ đạo của Hồng Quảng và bài của Nguyễn Đổng Chi chỉ lập lại hai ý chính của Hồng Quảng: "Phan Khôi học mót của Hồ Thích" "Phan Khôi có bộ óc dương nô" -nô lệ Tây Phương- của Hồng Quảng, để buộc Phan vào tội "vong bản, phản dân tộc". Ngày nay, nếu có phương tiện, cũng nên xác định xem Hồng Quảng, kẻ chỉ đạo việc đánh Phan Khôi trong giới học giả là ai, để hoàn lại cho người viết, cái trách nhiệm văn bản của mình. Bởi người cầm bút luôn luôn phải chịu trách nhiệm về những điều mình viết.
2/ Phan Khôi có "học mót" của Hồ Thích không?
Theo các "học giả" nói trên, thì những chủ đề Phan Khôi đưa ra trên báo, từ thời Phụ Nữ Tân Văn (1929) đến Sông Hương (1936) đều là "học mót" của Hồ Thích cả. Vậy chúng ta thử xem Phan Khôi viết gì về người thày quý hoá này?
1/ Trong bài "Lý với thế: Hồ Thích với Quốc dân đảng", năm 1929, Phan Khôi viết: "Trong thời cuộc nước Tàu độ mười lăm năm trở lại đây, phải kể Hồ Thích là một người quan hệ lắm, quan hệ cả về mặt văn hóa và về mặt chánh trị. Thế mà mới ba năm gần đây, Hồ trở nên một người không hợp với thời cuộc, trái với dư luận, ấy là tại va gặp cái thế của Quốc Dân Đảng.
Độ Dân Quốc gây dựng được năm bảy năm chi đó, Hồ Thích bắt đầu xướng ra cái thuyết dùng bạch thoại thế cho văn ngôn, làm cho văn thể nước Tàu biến đổi ngay và từ đó tư tưởng người Tàu cũng phát đạt mau. Hồ là một tay Hán học uyên thâm mà lại đậu Tấn sĩ văn khoa nước Mỹ, bấy giờ va chỉ viết báo mà cổ động sự cải cách văn thể chớ đích thân va thì còn ở bên nước Mỹ chưa về. Lúc đó bọn thanh niên nước Tàu trông va về lắm, trông va về để làm người lãnh tụ dìu dắt bọn thanh niên lên trong đường cải cách.
Khi va về, trường Đại học Bắc Kinh liền rước làm thầy giáo (professeur) dạy khoa triết học. Ở đó vài năm, va làm được một cuốn "Trung Quốc triết học sử đại cương" là sách rất có giá trị trong học giới Tàu ngày nay"796.
Phan Khôi gọi Hồ Thích bằng va. Trích đoạn này có 7 chữ va. Va là có ý coi thường. Không ai gọi thầy mình là va cả. Phan Khôi gọi Trần Quý Cáp là thầy tôi; Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của là đại sư; gọi Lương Khải Siêu, Ngô Đức Kế, Huỳnh Thúc Kháng, Trần Trọng Kim, Phạm Quỳnh (kém Phan 5 tuổi), là tiên sanh.
Bài viết có giọng của một người đàn anh (Phan hơn Hồ 4 tuổi) khen người đàn em, tuy trẻ tuổi mà đã nổi đình đám lắm, nhưng cũng chê Hồ không ít. Phan viết về một bữa tiệc ở Thượng Hải: "Hồ, chừng như cho mình là nhà triết học ngôn luận phải khác chúng mới được, bèn đứng lên nói một cách sỗ sàng. Đại lược va nói rằng thành phố phải độc lập về đường chánh trị (...) Va nói như vậy có gì lạ đâu, chẳng qua theo cái phép đô thị tự trị thì phải như vậy. Mới rồi các ông hội đồng quản hạt ta nói về việc tự trị của thành phố Vũng Tàu cũng nói như vậy mà có ai cãi? Cho nên khi Hồ nói xong thì có ý tự đắc".
Không ai "nhận định" về "người thầy tư tưởng" của mình bằng một bài viết như thế.
2/ Tóm lại, việc Phan Khôi viết văn tự nhiên và rành mạch, không phải do ông học mót của Hồ Thích việc dùng bạch thoại. Trong bài trả lời phỏng vấn Phan Thị Nga797, Phan Khôi cho biết: nhờ nghiên cứu cái logique trong tiếng Pháp, nên từ khi viết cho Đông Pháp thời báo, tức là từ 1925 trở đi, ông viết theo lối này.
Ngoài ra, từ 1922 trở đi, Phan giao du và chịu ảnh hưởng của nhóm trẻ Nguyễn An Ninh kém Phan 13 tuổi, Dejean de la Bâtie dạy Phan tiếng Pháp, Bùi Thế Mỹ cùng quê... là những người bạn làm báo, học trường Tây. Nhưng nguyên nhân sâu xa, có thể là Phan đã học lối viết hài đàm của Nguyễn Văn Vĩnh trên Đăng Cổ Tùng Báo, và ông đã áp dụng lối văn trong sáng này trong bản dịch Kinh Thánh từ năm 1920-1925 - chúng tôi sẽ phân tích văn bản Kinh Thánh ở phần dưới.
3/ Tại sao người ta lại chọn Hồ Thích để gán cho Phan Khôi? Vì lý do chính trị: Hồ Thích (1891-1962) được đào tạo ở Mỹ. 1910, đi du học rồi đậu tiến sĩ Ph.D. 1918, về nước. 1938, làm đại sứ cho Tưởng Giới Thạch tại Mỹ.
Gán cho Phan Khôi "học mót" Hồ Thích, để đi đến kết luận: Phan Khôi phản quốc, trước làm bồi Tây, sau bồi Mỹ.
Việc triệt hạ Phan Khôi ở các học giả, nếu dùng chữ của Phan Khôi, thì đó là cách hạ độc thủ của "các bạn đồng chí, những người quân tử".
Năm 1928, khi nói đến việc Hồ Thích bị bọn đồng chí trong Quốc Dân Đảng hạ thủ, Phan Khôi viết: "Thà chịu cái độc thủ của kẻ cường quyền, của bọn tiểu nhân; không thà chịu cái chó má của bạn đồng chí, của người quân tử!"
Ba mươi năm sau, 1958, Phan Khôi bị rơi vào đúng trường hợp của Hồ Thích.
3/ Đặt tên con là Phan Lang Sa
Chiến dịch đánh Phan Khôi được tổ chức khá quy mô, sử dụng những người có tiếng hiền lành như Nguyễn Đổng Chi, Tế Hanh, vừa dễ sai bảo, vừa được quần chúng tin cậy. Tế Hanh là người được chọn đi cùng với Phan Khôi sang Trung Quốc nhân dịp kỷ niệm 100 năm Lỗ Tấn, 1956.
Tế Hanh đã làm những câu thơ như sau:
Chống Pháp lại đi ôm đít Pháp
Chửi vua rút cuộc liếm giầy vua
Há mồm lại nói nền dân chủ
Đạo đức ba que quả trái mùa798
Trong bài "tường trình" về chuyến đi Trung quốc, Tế Hanh kể rặt tội Phan Khôi trong suốt chuyến đi: lúc nào cũng tìm cách nói xấu đảng. Nhưng còn một việc tệ hơn nữa: Phan Khôi đặt tên con trai út là Phan Lang Sa, vì mong Pháp trở lại. Trong bài tự trào, gửi cho gia đình từ Việt Bắc, năm 1949, Phan viết:
Hai nhà cộng lại có mười con
Năm gái năm trai nhắm cũng giòn.
Gả cưới tạm yên nguyền một nửa
Sữa măng riêng mũi máu ba hòn
Tư trào thôi hẳn đành chia rẽ
Nhân cách còn mong được vẹn tròn
Bé nhất Lang Sa mới ba tuổi
Tên mầy ghi cái nhục sông non799
Bài này nói lên gia cảnh và ý chí của Phan Khôi: Hai vợ, mười con. Một nửa đã lập gia đình. Ba con vợ hai còn nhỏ. Vì theo tư trào -chỉ cách mạng- mà phải chia lìa. Mong giữ vẹn toàn nhân cách. Con bé nhất ba tuổi, đặt tên là Lang Sa - Pháp để ghi "cái nhục sông núi" (mất nước). Tinh thần bài thơ đi đôi với lời Phan thường chỉ trích những hạng người "vong bổn", mới đi Tây vài năm mà đã khoe là quên hết tiếng Việt; hoặc không biết tiếng Tây mà cũng đặt tên con là Trần thị Tờ roi, Trần văn Xết800.
Nhưng Tế Hanh đã "thuật" lại rằng nhân dịp ghé Nam Ninh thăm người con học ở đây tên là Phan Lang Sa, Phan Khôi "nói" với ông như sau:
"Thằng này sinh ngày 9 tháng 3 năm 1945. Ngày Nhật đảo chính Pháp. Tôi đặt tên nó để cho những người nào vui mừng việc Nhật lật Pháp biết là Pháp sẽ trở lại cho coi".
Và Tế Hanh kết tội: "Phan Khôi đã đáp lại lòng thù ghét của nhân dân ta đối với thực dân Pháp như thế. (...) Chỉ có một tâm hồn vong bản loại Phan Khôi mới mong Pháp trở lại mà thôi"801.
Như vậy đủ biết sự xuyên tạc và vu khống, từ những ngòi bút có tiếng hiền lành, chân thực có tác động nguy hiểm như thế nào. Bao nhiêu kẻ khác đã chép lại giai thoại bịa ấy mà buộc Phan vào tội "phản quốc". Đến con ông cũng phải đổi tên mình thành Phan An Sa.
Nguyễn Công Hoan làm thơ:
Nhắn bảo Phan Khôi khốn kiếp ơi
Thọ mi mi chúc chớ hòng ai
Văn chương! Đù mẹ thằng cha bạc
Tiết tháo! Tiên sư cái mẽ ngoài
Lô-gích, trước cam làm kiếp chó
Nhân văn, nay lại hít gì voi
Sống dai thêm tuổi cho thêm nhục
Thêm nhục cơm trời chẳng biết gai802.
Những lời "thơ" lỗ mãng luôn luôn là thứ gậy ông đập lưng ông. Nhưng đặc biệt thâm hiểm là bài Hành động và tư tưởng phản động của Phan Khôi, đăng trên Văn Nghệ số 12, tháng 5/1958, bản điện tử trên Talawas, mà Tạ Trọng Hiệp đã nói đến ở trên: Nguyễn Công Hoan là người biết nhiều về Phan Khôi hơn cả. Bài viết của ông có những chi tiết về ngày tháng khá rõ, có thể dùng được trong tiểu sử Phan Khôi. Dựa vào những sự kiện mình biết, Nguyễn Công Hoan thêm thắt, xuyên tạc, để "chứng minh" Phan Khôi là người bán nước, đã làm "chỉ điểm" cho Pháp trong suốt cuộc đời. Bài này với bài Phùng Bảo Thạch là hai "kiệt tác" về sự ô nhục của trí thức.
II ● Tìm lại cuộc đời đích thực của Phan Khôi
Hiện nay, một phần tác phẩm Phan Khôi đã được in lại, nhưng cuộc đời thực của ông vẫn chưa được soi tỏ. Hệ thống xuyên tạc và bôi nhọ Phan Khôi trong hơn nửa thế kỷ trong từ điển và học đường đã "giáo dục" quần chúng không nhắc đến tên ông hoặc coi ông như một người phản quốc.
Chúng tôi cố gắng tìm lại cuộc đời đích thực của Phan Khôi, ưu tiên qua những điều do chính ông viết ra, lượm lặt trong các bài ký, truyện ngắn như: Lịch sử tóc ngắn, Chuyện bà cố tôi, Bạch Thái công ty thơ ký viên, Đi học đi thi, Ông Bình Vôi, Ông Năm Chuột và bài ông trả lời phỏng vấn Lối tự học của những bậc đàn anh nước ta do bà Phan Thị Nga viết lại năm 1936803. Những tài liệu gia đình như Phan Khôi niên biểu của Phan Cừ, Phan An804, Nhớ cha tôi805 của Phan Thị Mỹ Khanh, về niên biểu, cũng chỉ phỏng chừng, nhiều sự kiện trước sau lẫn lộn, có chỗ viết sai. Những bài đánh Phan Khôi của Nguyễn Công Hoan, Đào Vũ... dù nhơ bẩn, nhưng có một số chi tiết dùng được, bởi những người này đã có dịp gần Phan Khôi trong 9 năm kháng chiến nghe ông kể chuyện rồi xuyên tạc đi, để buộc tội ông phản quốc.
♦ Tiểu sử Phan Khôi
Sinh ngày 6/10/1887 tức ngày 20/8 năm Đinh Hợi tại làng Bảo An, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Mất ngày 16/1/1959 tại Hà Nội. Ông nội: Phan Nhu. Cha: Phan Trân. Mẹ: Hoàng Thị Lệ, con gái tổng đốc Hoàng Diệu. Phan Khôi chỉ có một người em gái - gia đình gọi là cô Ba, bà là vợ nhà văn Sở Cuồng Lê Dư và là mẹ của Hằng Phương, vợ Vũ Ngọc Phan, Hằng Phân, vợ Hoàng Văn Chí và Hằng Huân, vợ tướng Nguyễn Sơn. Phan Khôi có người chú ruột là Phan Định, cha của Phan Thanh và Phan Bôi tức Hoàng Hữu Nam.
Bút hiệu: Chương Dân, Khải Minh Tử, Tân Việt chung với Diệp Văn Kỳ, Nguyễn Văn Bá; Thông Reo chung với Nguyễn An Ninh; Tú Sơn, phiên âm chữ Tout Seul - Một Mình, để nhại Tú Mỡ... Riêng trên báo Sông Hương 1936- 1937, có hơn 10 tên khác nhau: Phan Khôi, Sông Hương, Ngự Sử, Phan Nhưng, Tú Vườn, Bê Ca, K, PK, TV,... chắc chắn là Phan Khôi; còn TT, TM, PTT... có thể cũng là Phan Khôi. Vì vậy, việc xác định văn bản Phan Khôi không dễ dàng. 1906, đỗ tú tài Hán học806. 1906-1907: Bỏ khoa cử, học quốc ngữ và chữ Pháp với Lê Thành Tài. Hoạt động trong phong trào Duy Tân. Theo Phan Châu Trinh cắt tóc ngắn, làm bài Vè cúp tóc.
16/2/1908 ra Hà Nội học tiếng Pháp ở Đông Kinh Nghiã Thục, nhưng tới nơi, trường đã bị đóng cửa. Về Nam Định, học với Nguyễn Bá Học được 3 tháng thì bị bắt giải về Quảng Nam. Bị tù 3 năm. Trong tù, làm bài Dân quạ đình công, tự học tiếng Pháp, với thầy Ưng Điển807. 1911, ra tù, vẫn tiếp tục hoạt động bí mật với nhóm Duy Tân và Đông Du Nam Ngãi. 1912, vào học trường Dòng Pellerin ở Huế được vài tháng, bà nội mất, trở về làng chịu tang, rồi ở lại quê.
Năm 1913 kết hôn với Lương Thị Tuệ, quê huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam, con nhà cách mạng Lương Thúc Kỳ808.Năm 1908, Lương Thúc Kỳ bị bắt, bị tù Côn Đảo tới 1917. Bà Lương Thị Tuệ có 8 con: Phan Thao, Phan Cừ, Phan Thị Hựu Khanh, Phan Thị Bang Khanh809, một con trai chết năm 1935, lúc 10 tuổi, Phan Thị Mỹ Khanh, Phan Thị Tiểu Khanh, Phan Trản. Bà Nguyễn Thị Huệ, vợ thứ nhì, gặp tại Hà Nội, chung sống từ 1935, có ba con: Phan Nam Sinh, Phan Thị Thái, Phan Lang Sa, sau tự đổi tên thành Phan An Sa.
1913-1916, Phan Khôi mở lớp dậy học tại quê nhà.
1916, triều đình và chính quyền thuộc địa bỏ thi lối cũ810. Phan Khôi nghỉ dậy, trở lại trường học tiếng Pháp với thầy Lê Hiển811 cùng với học trò. Được Thái Phiên rủ tham gia kháng chiến vua Duy Tân, nhưng Phan không nhận. Lý do: Một mặt, không tin tưởng vào cách mạng bạo động812, chọn con đường hoạt động văn hoá. Một mặt, cha hết sức ngăn cản bởi ông là con trai duy nhất. Nguyễn Công Hoan đã vin vào cớ ông không theo Thái Phiên để đổ tội ông làm mật thám cho Pháp ngay từ 1916.
Từ 2/1918 - 5/1919, được Nguyễn Bá Trác giới thiệu vào Nam Phong, ông viết bài báo quốc ngữ đầu tiên đăng trên Nam Phong số 8, ra tháng 2/1918, khai trương mục Nam Âm thi thoại, diễn đàn phê bình thơ sớm nhất ở Việt Nam. Đi Huế với Phạm Quỳnh dự tế Nam Giao từ 19/3/1918 đến 3/4/1918.
Theo Phan Khôi, ông làm việc chưa đầy một năm với Nam Phong thì thấy "không thể đi cùng đường với hai vị chủ bút" -tức là Phạm Quỳnh và Nguyễn Bá Trác- nên ông xin nghỉ trở về quê. Đầu năm 1919, ông Bùi Quang Chiêu từ Sài Gòn ra Hà Nội tìm trợ bút cho báo Quốc Dân Diễn Đàn của ông, Phạm Quỳnh giới thiệu Phan Khôi và đánh điện cho Phan Khôi ra Đà Nẵng xuống tàu gặp Bùi Quang Chiêu, nhờ vậy ông lại có dịp được đi ra khỏi làng.
Tháng 6/1919, vào Sài Gòn viết cho Quốc Dân Diễn Đàn. Vẫn theo Phan Khôi, được độ một tháng, không biết Marty nói với Bùi Quang Chiêu thế nào, mà Bùi Quang Chiêu đổi ông sang làm báo Lục Tỉnh Tân Văn do Marty điều khiển. Làm được vài tháng, vì một chuyện gì đó, dường như ông viết một bài báo công kích một viên chức cao cấp Pháp sắp lên làm toàn quyền, ông bị sa thải.
Những sự kiện trên đây cho thấy Phan Khôi dù ra khỏi Nam Phong nhưng vẫn giữ mối liên lạc khá chặt chẽ với Phạm Quỳnh và Marty.
Tháng 9/1919, trở về quê Quảng Nam.
Tháng 3/1920 ra Hải Phòng, làm thư ký cho Bạch Thái Bưởi từ 1/5/1920 đến 31/12/1920.
Cuối 1920: Nhận việc dịch Kinh Thánh - dịch toàn bộ Tân Ước và 1/3 Cựu Ước trong 5 năm, từ 1920 đến 1925, từ bản Hán văn và Pháp văn ra quốc ngữ.
1921-1922, viết Thực Nghiệp Dân Báo và Hữu Thanh ở Hà Nội.
1922 vào Nam, có thể đã liên lạc và hoạt động với nhóm Nguyễn An Ninh, Dejean de la Bâtie, khi Nguyễn An Ninh từ Pháp về lập báo La Cloche fêlée năm 1923.
1922-1925: Xuống Cà Mau ẩn náu. Học tiếng Pháp qua
thư từ với Dejean de la Bâtie. Tiếp tục dịch Kinh Thánh.
1925 Phan Châu Trinh từ Pháp về, giao cho Phan Khôi việc viết lại lịch sử đời ông.
24/3/1926 Phan Châu Trinh mất: Phan Khôi soạn bản Hiệu triệu quốc dân đi dự đám tang Phan Châu Trinh và viết cuốn Phan Châu Trinh.
1926-1928: Phan Khôi viết các báo Thần Chung, Đông Pháp Thời Báo, Văn Học ở Sài Gòn và Đông Tây ở Hà Nội. Tháng 5/1928, phê bình Trần Huy Liệu, đặt vấn đề Viết sử cho đúng trên Đông Pháp Thời Báo.
1929-1932: Thời kỳ hoạt động mạnh nhất, viết các báo Thần Chung, Phụ Nữ Tân Văn, Trung Lập, ở Sài Gòn; Đông Tây, Phổ Thông, ở Hà Nội, đặt những vấn đề:
- 1929, Phê bình Khổng giáo trên Thần Chung. Nữ quyền Viết tiếng Việt cho đúng trên PNTV.
- 1930, khai sinh thể loại bút chiến văn học với Phạm Quỳnh và Trần Trọng Kim trên PNTV.
- 1931, viết bài Cái cười của con rồng cháu tiên trên PNTV, phê bình cuốn Cay đắng mùi đời của Hồ Biểu Chánh: đây là bài phê bình văn học đầu tiên viết theo lối hiện đại.
- Đầu 1932, công bố bài Một lối "thơ mới" trình chánh giữa làng thơ và bài thơ Tình già, cả hai được coi là bản tuyên ngôn của Thơ Mới trên Tập Văn Mùa Xuân, báo Đông Tây, rồi PNTV.
- 1933 ra Hà Nội viết Thực Nghiệp và Phụ Nữ Thời Đàm. 1934 về Huế viết cho Phụ Nữ Tân Văn tái bản, rồi làm chủ bút báo Tràng An. Phan Trân từ trần.
1936-1937: Lập báo Sông Hương tại Huế từ 1/8/1936 đến 27/3/1937. Viết cho Hà Nội báo. Tập hợp những bài viết trong mục Nam Âm thi thoại in thành sách Chương Dân thi thoại, Đắc Lập, Huế, 1936.
1937-1941: Vào Sài Gòn dậy trường Chấn Thanh. Viết tiểu thuyết. In cuốn Trở vỏ lửa ra, Phổ Thông Bán Nguyệt San số 41, ra ngày 16/8/1939 tại Hà Nội. Viết báo Tao Đàn từ tháng 3/1939. 1940, viết cho Dân Báo. 1941, Chấn Thanh đóng cửa. Phan Khôi về Quảng Nam ở đến 1946.
19/8/1945:Việt Minh cướp chính quyền. Ngày 2/3/46: Thành lập chính phủ liên hiệp.
Ngày 6/3/1946: Hồ Chí Minh ký hiệp định sơ bộ với Pháp. Theo Nguyễn Công Hoan, tháng 6/1946, trong một buổi mít tinh ở Quảng Nam, Phan Khôi lên diễn đàn đả phá hiệp định sơ bộ. Phan Khôi được bầu làm chủ nhiệm chi bộ Quảng Ngãi của Việt Nam Quốc Dân Đảng.
Theo Hoàng Văn Chí, cán bộ địa phương định phá hủy nhà thờ Hoàng Diệu, Phan Khôi cực lực phản đối, họ toan bắt Phan Khôi, nhưng nể Phan Thao, con trai ông, là cán bộ cao cấp. Phan Khôi viết thư cho Huỳnh Thúc Kháng813 nhờ can thiệp. Hồ Chí Minh giải quyết khéo léo: viết thư mời Phan Khôi ra Hà Nội, giao cho Phan Bôi814 phụ trách việc quản thúc. Phan Khôi ra Hà Nội, nhưng không chịu ở nhà Phan Bôi, lên 80 Quan Thánh ở với Khái Hưng.
Theo Nguyễn Công Hoan, đêm 12/7/1946, công an bao vây nhà Khái Hưng, Phan Khôi bị bắt tại đây:
"Ở Quảng Nam ít lâu, hắn bèn ra Hà Nội, họp với Trung Ương Đảng Bộ Việt Nam Quốc Dân Đảng của hắn để đề nghị một chương trình chống chính phủ. Chương trình của hắn là gây một cuộc rắc rối về ngoại giao giữa chính phủ Pháp, để dồn chính phủ đến một nước cờ bí, phải đi đến chỗ tự lật đổ, hoặc bị thực dân Pháp đánh bại.
Vừa lúc đó, Phan Khôi tiếp được giấy của Bộ Nội Vụ tập hợp Hội Nghị Văn Hoá. Sau khi họp với bọn "đồng chí" ở Quảng Nam, đặt kế hoạch hoạt động trong thời gian hắn vắng mặt, hắn tạm rời tỉnh Quảng Nam. Đến thủ đô hắn xin vào yết kiến cụ Huỳnh Thúc Kháng khi ấy là bộ trưởng Bộ Nội Vụ. Nhưng cụ Huỳnh đã rõ bộ mặt nhơ bẩn của hắn không thèm tiếp.
Đêm 12/7, trong khi hắn đương họp bàn với bọn đầu sỏ Quốc Dân Đảng ở 80 đường Quan Thánh, thì xẩy ra việc công an ta đến khám tòa báo Việt Nam của đảng ấy tại trụ sở ấy. Bọn phản động trong nhà nổ súng ra để chống cự. Tức thì công an buộc lòng phải bắt bớ người. Trong số những người bị bắt có Phan Khôi. Song Phan Khôi lại một lần nữa được chính phủ tha cho về suy nghĩ tội lỗi mà hối cải. Trong thời gian Phan Khôi ở Hà Nội, thì chi bộ Quốc Dân Đảng ở Quảng Nam tiếp tục thực hiện chương trình hắn đã vạch ra (...) Thấy việc bán nước mỗi ngày một khó khăn hơn, Phan Khôi phải ở lại Hà Nội để bàn việc củng cố đảng hắn. Nhưng tối ngày 19 tháng 12 toàn quốc đứng dậy làm cuộc kháng chiến Phan Khôi giật nẩy mình, muốn về Quảng Nam thì nghẽn đường, không đi được. Lại có một người em họ ở trong chính phủ bảo đảm cho, nên hắn được- hoặc bắt buộc- đi theo kháng chiến" 815.
Theo Phan Khôi, ngày 6/7/1946 ông ra đến Hà Nội, nhưng được người bạn thân báo tin cụ Huỳnh Thúc Kháng khuyên đừng gặp cụ. Ông quanh quẩn ở lại Hà Nội xem tình hình, ngày 12/7/46, ông dự buổi họp của Trung Ương Quốc Dân Đảng ở toà báo Việt Nam.
Theo Hoàng Văn Chí, sau ngày toàn quốc kháng chiến 19/12/1946, Phan Bôi được lệnh đưa Phan Khôi lên Việt Bắc. Phan dịch sách và làm biên khảo.
Tổng kết các thông tin của Phan Khôi, Hoàng Văn Chí, Nguyễn Công Hoan, xin tạm hình dung bối cảnh này như sau:
Phan Khôi thấy có thể bị Việt Minh bắt ở Quảng Nam, nên ông viết thư cho Huỳnh Thúc Kháng, tìm cách chính thức ra Hà Nội. Cụ Huỳnh viết thư mời ông ra dự Hội Nghị Văn Hoá, nhưng ngại không tiếp ông sợ bị liên lụy, chắc bản thân cụ cũng không vững. Ở Hà Nội, Phan Khôi hội họp với Quốc Dân Đảng, trụ sở 90 Quan Thánh, nhà Khái Hưng. Ông bị bắt tại đây, nhưng lại được thả ngay, vì lẽ gì? Vì em họ Phan Bôi làm bộ trưởng Nội Vụ và con trai Phan Thao làm chủ nhiệm báo Nhân Dân chăng? Chưa chắc. Rất có thể vì Hồ Chí Minh không dám thẳng tay với Phan Khôi. Sau khi được tha, ông vẫn tiếp tục hội họp với Quốc Dân Đảng, mặc dù ông đã chán nản vì thấy tổ chức này lỏng lẻo, chẳng có chính sách gì rõ ràng, có lúc ông muốn tìm đường ra ngoại quốc.
Theo Đào Vũ, nhà cửa, ruộng đất của gia đình Phan Khôi ở Điện Bàn bị tịch thu trong Cải Cách Ruộng Đất.
1954-55: Về Hà Nội, gặp lại vợ con từ Quảng Nam ra. Ở số 51 Trần Hưng Đạo. In Việt ngữ nghiên cứu816.
1956: Lãnh đạo tinh thần phong trào NVGP. Làm chủ nhiệm báo Nhân Văn.
1957: Được cử đi Bắc Kinh dự lễ kỷ niệm 100 năm sinh Lỗ Tấn, có Tế Hanh đi cùng.
1958: NVGP bị thanh trừng. Phan Khôi bị đuổi khỏi 51 Trần Hưng Đạo, dọn về 10 Nguyễn Thượng Hiền, rồi 73 phố Thuốc Bắc.
Phan Khôi mất ngày 16/1/1959. Chôn ở nghĩa trang Hợp Thiện, phía đông Hà Nội. Trên mộ đề Chương Dân. Mộ phần bị "thất lạc" trong chiến tranh - theo gia đình.
Lại Nguyên Ân cho biết từ giữa năm 2000, ông bắt đầu sưu tầm tác phẩm Phan Khôi. Đến nay đã ra được 5 tập Phan Khôi, Tác phẩm đăng báo, từ 1928 đến 1932 và cuốn Phan Khôi viết và dịch Lỗ Tấn, do các nxb Đà Nẵng, Hội Nhà Văn và Tri Thức in; riêng sưu tập 1932, khổ 16x24. Các sách này đã đưa lên website Lại Nguyên Ân: lainguyenan.free.fr817. Tổng cộng: 4706 trang. Công trình này dành cho giới nghiên cứu, và là bước đầu tiến tới một tuyển tập Phan Khôi, ngắn gọn hơn, cho mọi từng lớp độc giả.
Năm 2009, Phạm Hồng Toàn in sưu tập Sông Hương, tuần báo ra ngày thứ bẩy (1/8/1936-27/3/1937), Lao Động và Đông Tây, 2009, gồm 2 tập, khổ 19x26.
Hiện nay, chỉ còn những bài báo của Phan Khôi trong khoảng 1918-1928 và 1933-1942, chưa được in thành sách. Sưu tập của Thanh Lãng trước 1975 tại Sài Gòn, được xuất bản dưới tiêu đề 13 năm tranh luận văn học 1932-1945, gồm 3 tập, Văn Học, TP.HCM, 1995, trong đó có một số bài của Phan Khôi.
Bộ sách này so với bản ronéo của Thanh Lãng có chỗ bị cắt, không hoàn toàn trung thành với bản chính như việc làm của Lại Nguyên Ân.

♦ Bà cố (1791- 1864)818 dựng nghiệp họ Phan ở Điện Bàn
Năm 1791, trước khi Gia Long lên ngôi 11 năm, tại làng Hoá Quê gần cửa Hàn, một người con gái ra đời. Đó là bà cố của Phan Khôi, người dựng nghiệp họ Phan ở Điện Bàn. Phan Khôi viết: "Họ Phan chúng tôi, ông thỉ tổ nguyên ở Nghệ An vào lập làng tại Quảng Nam, kêu là Bảo An"819. Làng Bảo An do ba họ Nguyễn, Ngô và Phan lập ra. Họ Phan từ khởi thủy đến đời ông cố, vốn "nghèo hèn, dốt nát".
1809, ông lấy bà cố, chung sống 15 năm, được 7 con, ông mất, người con út, Phan Nhu, ông nội Phan Khôi, mới 2 tuổi. Bà cố buôn gánh ở Hội An, nuôi con trong 6 năm. Rồi bà tái giá, làm kế một ông Đội khá giả ở làng Hội Vực, nhưng bà ra điều kiện: phải để cho bà về nhà chồng trước trông nom con cái. Theo lời những người già trong làng, bà thường cưỡi ngựa đi từ làng Hội Vực về Bảo An hay ngược lại, đồ vật chất đầy trên cổ ngựa, nhờ vậy mà các con bà được ăn học. Sáu năm sau, ông Đội mất, bà đem 2 con với ông Đội về nuôi cùng 7 con đời chồng trước.
Nhờ có vốn của chồng để lại, bà mở đại lý buôn đường với tàu buôn của người Hoa ở Hội An, trở thành người phụ nữ đầu tiên có hãng xuất cảng đường và thành "cự phú". Hai con trai bà, Hương Đạo và Bá Đức cũng giàu có tiếng trong vùng. Người con út, Phan Nhu, đậu cử nhân khoa Đinh Tị 1847, làm đến chức Án Sát tỉnh Khánh Hoà thì bị cách chức.
Dù có công lớn với gia đình, nhưng vì tội tái giá, nên sau khi mất, ở tuổi 73, bà không được chôn ở đất công của làng. Vì vậy, Phan Khôi đòi kiện cái luật cổ hủ của xã hội thời ấy820. Từ bà cố, người phụ nữ độc lập, cưỡi ngựa nhảy qua hàng rào lễ giáo cổ hủ đầu thế kỷ XIX để xác định nữ quyền, nuôi chín con, lập sự nghiệp "tỷ phú". Đến người cháu, học giả phản biện, lãnh đạo tinh thần phong trào Nhân Văn Giai Phẩm, là một dòng máu dân chủ và tự chủ nối dài.
Phan Khôi đấu tranh cho quyền làm người của phụ nữ, ngay từ thập niên 30 của thế kỷ trước, khi Simone de Beauvoir, mẹ đẻ nữ quyền thế giới, chưa xuất hiện trên văn đàn. Đó là đặc điểm của Phan Khôi: tiên phong phản biện trong nhiều lãnh vực tư tưởng.
● Phan Nhu và Phan Trân
Ông nội Phan Khôi là Phan Nhu, đỗ cử nhân khoa Đinh Tị, 1847, làm đến chức Án Sát tỉnh Khánh Hoà thì bị cách chức. Cha là Phan Trân (1862-1934), đậu phó bảng, làm tri phủ Diên Khánh, có lần cãi nhau kịch liệt với viên công sứ821. Năm 37 tuổi, 1899, ông cáo bệnh từ quan, lúc đó Phan Khôi 12 tuổi.
Nhờ loạt bài Đi học đi thi822 mà chúng ta biết thêm về Phan Nhu, Phan Trân và Trần Quý Cáp. Trong bài ký này, Phan Khôi tức Tú Vườn dùng nhân vật lão Nho, ra đời khoảng 1875 thay thế cho mình, để mô tả lại bối cảnh gia đình họ Phan trước khi Phan ra đời năm 1887, đồng thời vẽ chân dung người thầy Trần Quý Cáp và trình bầy hoàn cảnh u uất của giới sĩ phu khi nước mất và sự bất đồng tư tưởng trong gia đình họ Phan, từ đời ông, đời cha đến đời con, ba thế hệ.
Năm 1885, kinh thành thất thủ823, vua Hàm Nghi chạy ra Quảng Trị, phong trào Cần Vương ở Quảng Nam nổi lên rầm rộ trong ba năm từ khi vua xuất bôn đến khi vua bị bắt, năm 1988824. Phan Nhu cũng muốn theo phong trào, nhưng Phan Trân khuyên cha không nên vì biết không thể chống nổi Tây: "ông tôi ban đầu còn chưa chịu nghe, sau thầy tôi can mãi, nhiều khi đến nói mà vừa lạy vừa khóc, ông tôi mới thôi". Nhưng thời ấy, không theo nghiã quân, nghiã đoàn, thì có thể bị hại, nên hai cha con phải đem nhau đi trốn: "Có một lần, chúng tôi ở trong một chiếc ghe, đậu bên gành núi. Đương đêm, vừa mưa vừa gió, trời tối đen như mực, ông tôi thức dậy, đốt đèn ngồi một mình rồi không biết vì nghĩ thế nào mà ông tôi khóc oà lên, trong lúc khóc, ông tôi kể lể nhiều lắm: Chốc lại kêu Hoàng Thượng, chốc lại kêu Phu Tử (...) Về sau, tôi mới đoán ra rằng lúc đó ông tôi kêu Hoàng Thượng là chỉ đức Hàm Nghi, còn Phu Tử là đức Khổng Tử"825. Và sau cùng Phan Trân đã phải từ chức. Sau này, trong khoảng từ 1911 đến 1917 -sau khi đi tù
về- Phan Khôi cũng muốn bỏ nhà đi theo chí hướng của mình, nhưng cũng lại bị cha cản trở, và ông cũng phải vâng lời. Vì vậy, Phan viết: "Làm con khác với làm người. Nhiều khi làm con không phải làm người! Thành thử trước mặt những người cha có học thức, chẳng cứ cái học thức ấy thế nào, thường thường cái tư cách làm người của những người con phải bị chôn đi. Thương hại cho thầy tôi, suốt đời ở vào cái hoàn cảnh đó!"827.
Nếu Phan Trân phải chiều lòng cha, thì Phan Khôi cuối cùng, tìm cách thoát được, ông đã sống một cách tự do bằng ngòi bút, trong đời làm báo. Phải chăng vì bi kịch cha con trong gia đình Khổng Mạnh, mà sau này, Phan Khôi quyết liệt chống Tống Nho và ông để các con Phan Thao, Phan Cừ "tự do" theo Cộng Sản, đi con đường trái ngược với tư tưởng của mình? Sự bất đồng tư tưởng trong gia đình họ Phan kéo dài thêm một thế hệ nữa: ông, cha, con, cháu.
♦ Tinh thần bất khuất từ nhỏ
Thuở nhỏ Phan học chữ nho và chịu ảnh hưởng ông nội nhiều hơn cha. Năm lên bảy, mẹ qua đời. Khi cha phải đi nhậm chức tri phủ Diên Khánh, gửi Phan về bên ngoại cho người cậu làm tri phủ, là con cả tổng đốc Hoàng Diệu trông nom. Ông phủ mướn thày dạy học con trai và Phan Khôi, nhưng ít lâu sau, Phan xin cha cho đi học nơi khác. Tại sao? Phan không nói rõ. Nhưng sau này qua lời Ông Năm Chuột, Phan gián tiếp cho biết: Ông ngoại hết sức thanh liêm, làm tổng đốc mà không có tiền lợp lại mái nhà đã tróc ngói. Người cậu làm tri phủ ba năm đã mua được mươi mẫu ruộng. Ông ngoại đánh Pháp, tuẫn tiết mà chết. Người cậu theo Pháp đàn áp nghiã quân. Điều này chứng tỏ: từ lúc 8 tuổi, Phan đã nhìn rõ hành động của người cậu tri phủ, và đó chính là lý do khiến Phan xin cha cho học chỗ khác.
Phan Trân gửi con cho Trần Quý Cáp. Phan Khôi học Trần Quý Cáp 10 năm, từ 9 tuổi đến 19 tuổi. Phan Khôi viết: "Tôi từ nhỏ có tư bẩm thông minh lạ. Lên 13 tuổi đã "cụ thể tam trương": Nghiã là về lối văn khoa cử, kinh nghiã ở trường nhất, thi phú trường nhì, văn sách trường ba tôi đều làm được cả trong tuổi ấy. Ông nội tôi và ông thân tôi đều để hy vọng vào tôi nhiều lắm. Ông nội tôi sống đến năm tôi 16 tuổi, đi thi khoa đầu, hỏng trường nhất, rồi người mới mất"828.
- 16 tuổi, Phan Khôi đi thi lần đầu, khoa 1903, hỏng trường nhất.
- 19 tuổi, 1906, thi lần thứ nhì, chỉ đậu tú tài. Phan Khôi tức giận lắm
Bởi từ khoa Giáp Ngọ, 1894, trở đi, các học quan bắt đầu ăn đút lót, chấm gian, và đến khoa Bính Ngọ, 1906, thì bị kiện. Phan Khôi viết: "Tôi là một kẻ đứng đơn với bọn Dương Thưởng kiện sự "thủ sĩ bất công" hồi khoa Ngọ, tôi đã làm cho mấy ông quan trường bị giáng bị cách thì tôi còn sợ gì mà chối?" Vì vụ kiện này mà những kỳ thi sau, chính phủ bảo hộ phái người đến kiểm soát. Đó cũng là một trong những lý do tại sao Phan Khôi bỏ lối học khoa cử. Ngoài ra Phan còn cho biết: Nguyễn Bá Trác (1881-1945) đi thi năm Bính Ngọ 1906 không phải để đỗ, mà để làm bài thuê, kiếm tiền cho phong trào Đông Du, rút cục lại đỗ cử nhân. Chính Nguyễn Bá Trác đã rủ Phan Khôi bỏ học. Phan học tiếng Pháp với Phan Thành Tài tại trường Diên Phong là trường đầu tiên của phong trào Duy Tân ở Quảng Nam. Sau Phan Thành Tài tham gia cuộc chính biến vua Duy Tân, 1916, bị xử tử.
Năm 1906, đánh dấu ngõ quặt quan trọng trong cuộc cách mạng duy tân và cuộc đời Phan Khôi: bỏ nho học, theo Phan Châu Trinh cắt tóc ngắn, cổ động cắt tóc và làm bàicúp tóc.
♦ 1906-1908: Phong trào cắt tóc
Lập Hội buôn - Trung Kỳ dân biến
Việc cắt tóc và mặc âu phục do Phan Châu Trinh phát động cuối năm 1906, và kéo dài suốt năm 1907, là một hành động duy tân phản kháng: chống cổ hủ829.
Hơn một năm sau, khi vụ biểu tình chống thuế Trung Kỳ dân biến xẩy ra, chính quyền bèn kết hợp việc cúp tóc với việc biểu tình chống thuế, thành hành động nổi loạn, chống lại nhà cầm quyền.
Tuy Phan Khôi theo và cổ động phong trào hớt tóc ngắn, làm bài Vè cúp tóc nổi tiếng, nhưng không tham dự vào cuộc nổi dậy chống thuế ở Quảng Nam 1908, vì lúc đó ông đã lên đường ra Hà Nội. Sau này trong hai bài viết trên Sông Hương: Địa vị của Thái Phiên và Trần Cao Vân trong cuộc biến ở Huế năm 1916830 và Mấy cuộc vận động quần chúng ở nước ta831, Phan Khôi nhắc lại sự thành công của đấu tranh bất bạo động trong đám tang Phan Châu Trinh năm 1926, trong Nam, và phê bình gay gắt sự thất bại của những cuộc bạo động ở miền Trung: Khởi nghiã Văn Thân 1883 ở Huế; Trung Kỳ dân biến 1908 ở Quảng Nam và Phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh 1930-1931.
Phong trào Duy Tân phát triển mạnh từ cuối năm 1906, sau khi Phan Châu Trinh ở Nhật về, phát động phong trào Cắt tóc ngắn, kết hợp với Tiểu La Nguyễn Hàm -chủ trì khuynh hướng Phan Bội Châu- với nhóm Ngô Đức Kế, Đặng Nguyên Cẩn ở Nghệ An, Hà Tĩnh chủ trương việc lập Hội buôn và với Nguyễn Văn Vĩnh trong Đông Dương tạp chí, lập thành một lực lượng phản kháng đáng ngại. Công sứ Quảng Nam, Charles832 viết:
"Hội buôn Quảng Nam mà các thành viên thường tự xưng là "những người cắt tóc" theo cách họ nhận biết nhau. Hội này tập hợp tất cả những phần tử đối lập với ảnh hưởng của Pháp, những viên quan trong đảng "Cần Vương" An Nam cũ, các nhà yêu nước khuynh hướng quốc gia kiểu Phan Châu Trinh và Phan Bội Châu. Lúc này Hội ấy hoạt động ráo riết. Các thành viên đi khắp các làng, đề nghị dân chúng cắt tóc, mặc âu phục (!) và khuyên họ tự giải quyết mọi mâu thuẫn, không cần đến cửa quan hoặc các toà công sứ. Họ hoạt động cho sự tiến triển về tư tưởng mà tác giả của bài xã luận quan trọng đã đăng trong số ngày 15/10 của tạp chí bán công Đông Dương tạp chí (...) Hoạt động của Hội này thực hiện nhiều nhất ở hai phủ Thăng Bình và Tam Kỳ và đặc biệt ở vùng giáp giới giữa hai phủ này (...) Phan Châu Trinh đã đi ra Bắc Kỳ từ đầu tháng833, theo người ta nói có đem theo các khoản đóng góp của hội viên (...)
Hội kín ở Quảng Nam tiếp tục công cuộc tuyên truyền chống Pháp và tư tưởng quốc gia. Trong hai phủ Thăng Bình và Tam Kỳ họ nắm các trường học và điều hành việc dạy học. Họ trao cho học sinh những tài liệu kích thích tinh thần yêu nước, hận thù quân xâm lược, xem thường cái chết. Mỗi người phải sẳn sàng hy sinh cho tổ quốc. Thật là những bài học tuyệt vời về chí khí, chỉ tiếc là chúng ta một ngày kia phải trả giá cho sự giáo dục ấy mà thôi"834.
Viên công sứ Charles đã nhận định đúng vai trò của giáo dục. Mà Trần Quý Cáp lúc đó là giáo thọ835 phủ Tăng Bình giữ trách nhiệm hàng đầu. Điều này giải thích việc khâm sứ Trung Kỳ Lévecque đổi Trần Quý Cáp vào Ninh Hoà, để phân tán lực lượng Duy Tân và giết Trần Quý Cáp. Bị đổi vào Ninh Hoà, Trần Quý Cáp vẫn tiếp tục công việc, Charles viết: "Trần Quý Cáp đã thận trọng bổ dụng một số người hoàn toàn tin cẩn của y. Những người tích cực nhất trong việc xây dựng các trường học sẽ được thưởng bằng một chức quan: như thế là đủ để cho giáo thọ có trách nhiệm trông nom các trường này có trong tay một công cụ tuyên truyền ghê gớm. May thay ngôi trường của chính giáo thọ đã bị cháy, không còn nơi dạy nữa. Trần Quý Cáp đang ở nhà tri huyện Hồ Sĩ Tạo cũng là tiến sĩ như y, nhưng Hồ Sĩ Tạo có mẹ qua đời đã xin nghỉ về quê836cư tang. Trần Quý Cáp lợi dụng cơ hội đó chiếm hẳn nhà Hồ Sĩ Tạo và tại ngôi nhà này y tiến hành tuyên truyền mạnh mẽ"837.
Việc Phan Khôi ra Hà Nội năm 1908, được Phan Trân cho phép, nằm trong chương trình hành động của nhóm Duy Tân Quảng Nam, gửi 11 học trò: Lê Dư, Mai Dị, Nguyễn Bá Trác, Phan Khôi, Đặng Huyên, Lê Vỹ, Mai Luyện, Nguyễn Nhự, Võ Kiền, Lê Lượng và Lê Cơ, ra Bắc học tiếng Pháp ở trường Đông Kinh Nghiã Thục và có thể tìm đường sang Nhật du học. Phan Châu Trinh đã ra Bắc từ tháng 7/1907, mang theo tiền đóng góp thu được ở Quảng Nam. Trần Quý Cáp, tháng 2/1908, khi bị đổi đi Ninh Hoà đã cảm thấy nguy cơ sắp đến và cũng chuẩn bị ra Bắc. Ngày 16/2/1908, Phan Khôi đi Hà Nội. Hai thầy trò đã gặp nhau bàn bạc trước khi lên đường.
Trong bản hỏi cung, Trần Quý Cáp khai: "Sau lúc ông ta (Phan Châu Trinh) đi, tôi có đến Tourane (Đà Nẵng) để xuống tầu Thủy. Lúc đó tôi đã gặp một học trò cũ tên là Phan Khôi đỗ tú tài, đang ở đó định sẽ đi tầu thủy ra Hà Nội và ở lại đó để học tiếng Pháp. Tôi đã nói vói anh ta là tôi nhiều lần nghe nói các năm trước tại Hà Nội, Nhà Nước bảo hộ có mở những văn phòng để sửa sách gọi là tu thư, và lại có văn phòng của "Đại Việt tân báo"838, tôi nhờ anh ta hỏi giúp tôi xem các văn phòng trên có nơi nào nhận tôi thì tôi sẽ xin từ chức giáo thọ để xin làm việc ở đó nhằm có thể đủ tiền ăn tiêu hơn và có điều kiện mở rộng kiến văn"839.
Trong bản hỏi cung số 24, phiên xử ngày 12/7/1908, Phan Khôi khai: "Ngày 15 tháng 1 năm nay (16/2/1908), khi tôi xuống Đà Nẵng để ra Hà Nội học, tôi đã gặp thày giáo cũ của tôi là ông Trần Quý Cáp (giáo thọ) đang đi đến nhận nhiệm sở mới. Ông nhờ tôi nếu tôi gặp ông Phan Châu Trinh thì nói với ông ấy xem có thể tìm giúp cho ông một chỗ làm trong thư viện hay trong một toà báo và viết thư báo cho ông ấy biết. Đến Hà Nội, tôi có gặp Phan Châu Trinh và tôi nhắc lại điều ông Trần Quý Cáp đã dặn. Sau đó, tôi nhờ ông nếu có viết thư cho ông Trần Quý Cáp thì xin ông ghi ở cuối thư rằng tôi đã tới Hà Nội an toàn. Sau đó, tôi đi Nam Định để học tiếng Pháp. Tôi không hề viết thư cho thày giáo cũ của tôi, ông Trần Quý Cáp. Đoạn thư có liên quan tới tôi mà người ta thấy trong bức thư đó chắc hẳn là do ông Phan Châu Trinh viết. Vả chăng, từ khi tôi từ biệt ông để đi Nam Định, tôi không còn gặp ông nữa. Do đó, tôi không biết chính xác là ông có viết thư cho ông Trần Quý Cáp hay không"840.
Khi Phan Khôi và các bạn ra đến Hà Nội thì Đông Kinh Nghiã Thục đã bị rút giấy phép.
Xin nhắc lại: Đông Kinh Nghiã Thục khai giảng tháng 3/1907. Tháng 5/1907 mới chính thức được phép. Tháng 1/1908, giấy phép bị thu hồi. Ban giám đốc phải thủ tiêu hết sách vở chứng từ. Pháp bắt những người cầm đầu; bổ một số người ôn hoà vào ty giáo huấn, chức huấn đạo841 hoặc đi tri huyện, có người không nhận842.
Việc đổi Trần Quý Cáp vào Khánh Hoà nằm trong chủ trương khủng bố của nhà cầm quyền cùng với việc đóng cửa Đông Kinh Nghĩa Thục và Đăng Cổ Tùng Báo để phân tán lực lượng của tất cả những phong trào cách mạng và trừng trị những người chủ xướng.
Tháng 3/1908843 mới bùng nổ vụ Trung Kỳ dân biến: Cuộc biểu tình chống thuế bắt đầu ở huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam rồi lan rộng khắp miền Trung, hình thức bạo động, ảnh hưởng Phan Bội Châu nhiều hơn Phan Châu Trinh.
Huỳnh Thúc Kháng bị bắt ở Quảng Nam. Phan Châu Trinh bị bắt ngày 2/3/1908 tại Hà Nội. Ngô Đức Kế bị bắt từ 1907, đến 1908 bị đày Côn Đảo cùng với những người khác.
Trần Quý Cáp bị bắt ngày 16 hay 17/4/1908844 tại Khánh Hoà, bị xử tử ngày 15/6/1908 tức là ngày 17/5/Mậu Thân845. Khâm sứ Trung Kỳ Lévecque không đưa Trần Quý Cáp về Kinh để xử, theo thông lệ đối với các Tiến sĩ, tại sao? Phải chăng vì sợ Phủ Phụ Chính, đặc biệt các quan Lê Trinh và Cao Xuân Dục sẽ chống lại bản án tử hình như trường hợp Phan Châu Trinh, cho nên Lévecque đã cho lệnh giết Trần Quý Cáp tại chỗ?846
♦ Số phận Phan Khôi và những học trò đi trốn hoặc bị bắt
Các thanh niên Quảng Nam được gửi ra Hà Nội học Đông Kinh Nghiã Thục tới nơi thì trường đã bị đóng cửa, bèn chạy về Nam Định, học tiếng Pháp với Nguyễn Bá Học. Phan Khôi bị bắt giải về Quảng Nam. Nguyễn Bá Trác trốn ở trong Nam một năm rồi chạy qua Thái Lan, Nhật và Tàu. Sở Cuồng Lê Dư có lẽ đã đi Nhật từ trước, sau sang Tàu...
1/ Bản án số 9, ngày 3/8 năm Duy Tân thứ hai, tức là ngày 29/8/1908, có đoạn như sau: "Trương Huy, Lê Dư càn quấy diễn thuyết mỗi nơi chỉ trích, phỉ báng quan lại; Mai Dị, Nguyễn Bá Trác và Phan Khôi không xin phép, tự tiện đi Bắc Kỳ, dịch phục cải trang (mặc âu phục) (...) Xét tình đó, thì tự Phan Châu Trinh và Huỳnh Thúc Kháng xướng xuất, mà bọn này là phụ họa đấy thôi. (...) Lê Dư, Mai Dị, Nguyễn Bá Trác, Phan Khôi, Đặng Huyên, Lê Vỹ, Mai Luyện, Nguyễn Nhự, Võ Kiền, Lê Lượng và Lê Cơ, xin đều xử trượng 100, đồ 3 năm. Tựu trung Nguyễn Bá Trác tại đào, xin nên gia đẳng xử trượng 100, đày 2000 dặm, chờ bắt được, chiếu án thi hành"847.
2/ Phan Châu Trinh viết: "Ông cử nhân Nguyễn Bá Trác và Phan Khôi, Nguyễn Mai, cùng bạn học hơn 10 người ra Hà Nội học tập Pháp văn; sau vụ dân biến, đều đánh điện sức về hết. Bạn đồng học năm, sáu người tuân lệnh về làng; tức thì bị bắt làm án. Ông cử nhân ấy sợ trốn ra ngoại quốc, nghe nói cha ông ta bị bắt giam, bức bách đủ cách, nhà ông trước cũng khá giàu, nay thì đã nghèo xơ xác, mà cái lệnh bắt bớ đến nay (1911) cũng chưa đình, như vậy thì không khác gì đẩy người ta ra ngoại quốc vậy. Bà con của thân sĩ Quảng Nam và những người vô tội bị bắt giam đánh khảo, nhiều không kể siết, án tù khổ sai từ 2 tháng đến 3 năm ước hơn trăm"848.
3/ Về việc chạy trốn, Nguyễn Bá Trác viết:
"Ngày tháng giêng năm 1908, tôi cùng mấy người bạn ra chơi Bắc Kỳ, định ở lại Nam Định mà học. Đến tháng 3 nhân việc ngăn trở849 phải đáp tàu về Đà Nẵng (Tourane). Khi về đến nơi không tiện lên bờ, bèn chạy thẳng vào Quy Nhơn. Đến đấy đổ bộ đi xuyên sơn vào Phú Yên, lẩn lút trong chừng 8, 9 tháng. Ngày 24 tháng chạp năm ấy, mới đáp mành vào Nam Kỳ. Từ cửa bể Xuân Đài mà ra khơi. Đến ngày 7 tháng giêng năm 1909, tới Mỹ Tho, lần vào Bến Tre, đến làng Tân Hướng tìm chỗ ngồi bảo trẻ. Ngày tháng tư năm ấy, nhân theo bạn lên Sài Gòn mua sách vở. Đêm nằm nhà trọ nghe người một bên nói chuyện đi Xiêm, nghe lỏm được kỳ tầu và cách đi, bèn xuống tầu mà châm chước với một người thủy thủ. Được người ấy chịu lời rồi đêm mồng ba tháng tư xuống tầu mà làm khách xuất dương từ đấy"850.
Hạn mạn du ký là một áng văn hay, một tư liệu quý về số phận những thanh niên theo Phan Châu Trinh, Phan Bội Châu, như Lê Dư, Nguyễn Bá Trác, trong vụ khủng bố 1908 phải chạy trốn: sang Nhật. Nhật đuổi. Sang Tàu. Cuối cùng, nhớ nước, phải quay về đầu thú.
4/ Kết toán các sự kiện về Phan Khôi: Phan Khôi ra Hà Nội giữa tháng 2, tháng 3 bùng nổ vụ Trung Kỳ dân biến, Phan Khôi cùng các bạn theo thầy Nguyễn Bá Học về Nam Định. Học được ba tháng thì bị bắt, khoảng tháng 6/1908 ở Nam Định. Theo bản án triều Duy Tân ngày 29/8/1908, Phan Khôi bị đánh 100 gậy và bị tù 3 năm, vì tội "tự tiện đi Bắc Kỳ không xin phép, và mặc đồ Tây". Sau khi ra tù Phan Khôi còn bị quản thúc khá lâu: "Ra tù từ năm 1911, cho đến năm 1917, chẳng có cơ hội nào cho mình vượt khỏi cổng làng. Điều ấy, tự tôi lấy làm uất ức đã đành, mà tiên quân tôi, người lại còn lo cho tôi hơn nữa. Muốn ra đi, cái chí của tôi ở chỗ khác; nhưng thầy tôi thì chỉ mong làm sao cho tôi có đường xoay xở hầu mau thoát cái lốt tù"851.
Về sự kiện này, Nguyễn Công Hoan đã xuyên tạc Phan Khôi bằng những dòng như sau: "Trong những người bị bắt, người thì bị tử hình, người thì bị chung thân khổ sai, hoặc hai mươi năm, mười năm, không rõ Phan Khôi đã khai báo như thế nào, hắn chỉ bị giam một thời gian ngắn"852.
Ở tù ra, Phan Khôi vẫn tiếp tục bí mật hoạt động cách mạng một thời gian nữa. Nhưng lần này Phan Trân đổi ý, khuyên răn con, thậm chí van lơn con đừng làm cách mạng nữa, vì nhà con một. Đó cũng là một trong những lý do khiến Phan Khôi không tham gia khởi nghiã Duy Tân, 1916, nên không bị bắt.
♦ Nguời thầy đầu tiên Trần Quý Cáp
Phan Khôi học Trần Quý Cáp 10 năm, từ 1896 đến 1906. Trần Quý Cáp (1870-1908), tiến sĩ khoa Giáp Thìn, 1904, Huỳnh Thúc Kháng đậu hoàng giáp cùng khoa, và Phan Châu Trinh đậu phó bảng, 1901, là ba nhà lãnh đạo Duy Tân. Trong ba người, Trần Quý Cáp hay chữ và nguy hiểm hơn cả, bởi ông trực tiếp dậy học, hướng dẫn tư tưởng thanh thiếu niên. Học trò Trần Quý Cáp có đến nhiều ngàn người. Phan Khôi, sau khi mẹ mất, được cha gửi đi trọ học trường Trần Quý Cáp, thôn Thái La, làng Bất Nhị, trong 10 năm, từ 9 đến 19 tuổi. Phan tả lại cảnh trường như sau: "Ở trong một xóm cuối làng, dân cư lơ thơ, nhà ở xen với những đám ruộng thổ, một nếp nhà tranh đôi khi ở trong rừng mía rậm, ấy là nhà của thầy tôi và cũng là trường học đó. (...) Thầy tôi là trang quân tử thanh bần, thiên hạ đều biết, quân trộm cướp cũng đã thấy mà chê rồi, nên dù ở đó cũng chẳng ngại chi. Còn một lẽ nữa là cái cảnh tĩnh mịch đìu hiu lại rất lợi cho sự học. Cái nhà ba gian hai chái, sườn bằng gỗ, rộng lòng căn. Trong nhà trừ ba gian bàn thờ và một cái buồng ở góc, còn thì liệt ván cả. Một bộ ván cao ở giữa là chỗ thầy ngồi; còn bao nhiêu ván thấp, cho học trò"853.
Khoảng 1889-1896, học trò đông nhất, hàng ngày đến "nghe sách" có đến trăm rưởi, hai trăm. Người không đến nghe, chỉ nộp bài, cũng tám chục, một trăm. Mỗi kỳ khảo hạch, thầy phải chấm ba trăm quyển. Học trò đến từ các nơi, có khi cả Phú Yên, Bình Định nghe tiếng trường lớn cũng ra học. Phan Khôi viết:
"Thầy bước lên thì ngồi đó854 quay mặt ra phía ghế xuân ý 855 coi rất nghiêm,
vì bao giờ cũng khăn đen áo rộng.
Sách giảng hàng ngày là kinh, truyện, sử, mà  cứ chẵn ngày lẻ đổi khác nhau.
Như ngày chẵn: Kinh thi, truyện Luận ngữ, sử Hán, thì ngày lẻ: Kinh dịch,
truyện Mạnh tử, sử Đường. Rồi theo đó cứ luân lưu mà giảng tiếp.
Thầy ngồi yên rồi, dưới nầy một trò nào chẳng hạn,
chiếu theo ngay mà mở ba cuốn sách, nhằm chỗ tiếp với hôm trước,
theo thứ tự đè chồng lên nhau và đem đặt lên ghế xuân ý, trước mặt thầy.
Đọc đi! Thầy truyền. (...) Rồi một người tốt giọng bắt đầu đọc.
Đọc chậm rãi mà ngân ngợi. Được vài ba tờ, tới chỗ thầy bảo dứt thì dứt.
Đến phiên thầy cắt nghiã."
Về "lương bổng" của thầy: "Thầy đối với chúng tôi như chẳng thèm kể đến công dậy dỗ. Mỗi một năm hai lễ tết, đoan dương856 và chánh đán857 trò nào đi bao nhiêu thì đi, thầy chẳng hề nói ít nhiều (...) Vì vậy nên một trường lớn như trường thầy tôi mà mỗi lễ tết, thầy thâu vào không đầy trăm bạc"858.
Năm 1906, Trần Quý Cáp được bổ chức giáo thọ phủ Thăng Bình. Ban đầu ông không nhận, nhưng vì cảnh mẹ già, nghèo túng, và các bạn khuyên, ông nhận. Việc làm của ông tại phủ Thăng Bình đã đưa đến kết luận của Charles trong bản báo cáo đã trích dẫn ở trên. Huỳnh Thúc Kháng viết: "Khi tới trường, tiên sinh mời thầy chữ Tây về dậy chữ quốc ngữ và chữ Tây, làm cho phong khí tỉnh nhà được mở mới, như Diên Phong, Phú Lâm, Phước Bình. (...). Vì thế Tiên sinh thành ra tấm bia cho phái cựu học nhắm vào"859. Rồi Trần Quý Cáp viết bài Sĩ phu tự trị luận công kích đám "trung đẳng sĩ phu".
Tháng 3/1908, bùng nổ vụ Trung Kỳ dân biến. "Tiên sinh tuy đã vào miền Nam, nhưng vì cớ lãnh tụ phái tân học, lại đề xướng dân quyền tự do, cũng như cụ Tây Hồ vậy, làm cho nhà đương đạo Khánh Hoà chú mục, kiểm soát thư từ ra vào thấy có đôi câu cho là chủ động, kết án "Mạc tu hữu"860. Tiên sinh lên đoạn đầu đài, thật là thê thảm! Trong lịch sử huyết lệ, Tiên sinh là người thứ nhất!"
Huỳnh Thúc Kháng ghi rõ ngày 17/5 Mậu Thân, tức ngày 15/6/1908, Trần Quý Cáp bị xử tử tại Nha Trang.
Trần Quý Cáp là người hay chữ nhất trong ba vị lãnh tụ Duy Tân. Về văn bản, Huỳnh Thúc Kháng cho biết: "Về thi văn của Tiên sinh không lưu bản cảo, chỉ có đồng nhân cùng tôi còn nhớ đôi bài lượm lặt chép thành tập, gửi nơi Tiêu Đẩu Nguyễn Bá Trác".
Phan Bội Châu viết: "Nhớ khi ông ra tới trường chém, dao đã kề cổ, còn thung dung xin với quan giám trảm, cho đặt án đốt hương, áo mão nghiêm trang, bái tạ quốc dân ngũ bái, rồi khảng khái tựu hình, sắc mặt in như khi nhóm trò giảng sách."861
Trần Quý Cáp bị xử chém. Cái chết thảm khốc của người thầy đã in dấu sâu đậm trong đời Phan Khôi và ảnh hưởng sâu xa đến đường lối văn hoá và sự tranh đấu bất bạo động của Phan Khôi sau này.