Chương 7
Cố sự

    
gư hoà thượng nói xong, ngẩng đầu nhìn đi, phía đông bắt đầu rạng sáng, mây nhẹ vẫn còn u ám, một đàn cò trắng chầm chậm bay về phía đông.
“Đây là câu chuyện thứ nhất, nói về một loại vũ khí”. Ngư hoà thượng thong thả nói: “Ba trăm năm về trước, trung thổ có một nơi rất phi thường, gọi là Thiên Cơ Cung, trong cung cất chứa ngàn vạn quyển sách, những người tài trong cung, đa phần được gọi là toán gia. Bọn họ học cửu thi6n nhân, trí tuệ cao siêu. Tiếc thay, trí tuệ này không làm cho bọn họ vô ưu cả đời, rốt cuộc có một ngày đã dẫn đến tai hoạ to lớn.
Khi ấy vừa hay chính là lúc Tống diệt Nguyên hưng binh mã khắp nơi, loạn lạc khắp chốn. Thiên Cơ Cung dựa vào kỳ kỹ dị năng, giàu có nhất nước, trở thành niềm hy vọng duy nhất phục hưng Hán thất. Trong đám đệ tử của Thiên Cơ Cung có rất nhiều người kiệt xuất, luôn luôn dấy lên nghĩa quân ở phía nam, đối kháng triều đình. Nhưng bởi vì trong cung có gian tế, cuối cùng triều đình Nguyên biết nơi toạ lạc của Thiên Cơ Cung, phái thuỷ lục đại quân công đánh. Trận đánh đó hết sức kịch liệt thảm khốc, năm vạn tinh giáp của quân Nguyên tử thương quá nửa, thậm chí con trai của hoàng đế Nguyên triều cũng chết trong cung. Nhưng chung quy đơn quyền khó chống lại tứ chưởng, trăm vạn quyển sách của Thiên Cơ Cung rốt cuộc bị thiêu dưới kiếp lửa rừng rực, hoá thành tro bụi ….”
Lục Tiệm nhịn không được hỏi: “Vậy người trong cung thì sao?”
Ngư hoà thượng nói: “May mà tiền bối của Thiên Cơ Cung sớm đã có phòng bị, lưu lại một đường mật đạo, do đó phần lớn trong cung đều chạy thoát được ra ngoài”. Lục Tiệm thở phào một hơi, gật đầu liên tiếp.
“Lúc đó rợ Hồ tung hoành Trung thổ, đám toán gia may mắn sống sót kia không còn chỗ dung thân, chỉ còn biết ngồi thuyền chạy đến một hòn đảo ở biển Đông. Đám toán gia này trí tuệ xuất chúng, lúc này lại ôm trong lòng nổi thù huỷ cung, nhất trí quyết ý báo phục người Nguyên. Mà trong đám toán gia này, lại có một vị đại toán gia tài giỏi nhất, tài trí và võ công của người này, đều thông thiên đạo. Tiếc là, y thụ trọng thương khi Thiên Cơ Cung bị huỷ, đợi vết thương lành khỏi thì việc phục thù đã được quyết định rồi.
Vị đại toán gia này biết rõ oan oan tương báo, không bao giờ kết thúc, vốn không muốn tham gia vào việc này, nhưng bởi vì y là người rất trọng tình nghĩa, trải qua nhiều lần trắc trở, rốt cuộc không kháng lại được sự khẩn cầu của người thân và bạn bè, tham gia vào hàng ngũ phục thù. Lúc này thế lực của người Nguyên như mặt trời giữa trưa, còn Thiên Cơ Cung mới gặp phải tổn thương nặng nề, nếu như dựa sức người để đối kháng, thì chẳng khác nào lấy trứng chọi đá. Do đó vị đại toán gia này sau khi suy nghĩ kỹ càng sâu xa, bèn đề nghị kiến tạo một loại thần binh lợi khí có uy lực to lớn. Mà lần chế tạo ấy, tốn mất mười lăm năm thời gian.”
Lục Tiệm cả kinh nói: “Mười lăm năm? Lâu như vậy sao?”
“Đấy cũng không coi là lâu lắm”. Ngư hoà thượng nói: “Thời Xuân Thu, Việt Vương Câu Tiễn phục thù, còn dùng mười năm sinh tồn tụ tập, mười năm răn dạy, trước sau dùng mất hai mươi năm thời gian. Thiên Cơ Cung so với nước Việt ngày ấy, còn nhỏ yếu hơn rất nhiều. Hơn nữa vũ khí đó quy mô to lớn, cấu tạo tinh xảo, tuy rằng trí giả và danh tượng như mây tụ, nhưng trong nhất thời cũng khó mà tạo thành.”
Lục Tiệm tò mò hỏi: “Vũ khí đó thật ra là như thế nào?”
Ngư hoà thượng lắc đầu nói: “Hoà thượng cũng chưa từng nhìn thấy, chỉ là nghe tổ sư đời trước thoảng nhắc đến, nghe nói nó có thể làm cho mạch suối dưới lòng đất nổ tung, sông hồ trên mặt đất chảy ngược, hình thành hồng thuỷ ngất trời, nhấn chìm đô thị, còn có thể kích phát gió lốc, từ mặt biển thổi vào lục địa, còn có thể tụ mây thành mưa, hàng tháng không ngừng”.
Lục Tiệm nghe đến trợn mắt líu lưỡi, những lời này nếu không phải từ miệng Ngư hoà thượng nói ra, y nhất định cho đó là những câu chuyện kỳ lạ ngoài biển mà Lục Đại Hải vẫn nói, tuy rằng thú vị, nhưng lại không chân thực. Nhưng lúc này Ngư hoà thượng phong độ nghiêm nghị, có thể thấy tuyệt không phải là lời dối trá, mà đích thực là có việc đó.
Ngư hoà thượng nói tiếp: “Ngày hôm đó, vũ khí chung quy hoàn thành, bọn họ thử nghiệm trên mặt biển, một hơi đã phá huỷ ba hòn đảo hoang không người. Công sức mười lăm năm cuối cùng cũng đại thành, chúng nhân ai cũng nhảy nhót hoan hô. Duy chỉ có vị đại toán gia đó là buồn bã không vui, y từ lúc bắt đầu thiết kế vũ khí, liền thấy do dự, bởi vì vũ khí này uy lực quá lớn, một khi vận dụng, tử thương nhất định kinh người. Nhưng cho dù y là tuyệt thế trí giả, chìm đắm trong tham cứu trí tuệ, tuy biết rõ như vậy, vẫn nhịn không được muốn tạo ra vũ khí, nghiên cứu đến cùng, lúc này thấy vậy, bất giác trong lòng sinh ra sợ hãi.
Vũ khí đã thành, chúng nhân lập tức quyết ý lấy máu trả máu, trước tiên phá huỷ kinh thành Đại Đô của người Nguyên, nếu như Đại Đô bị dẹp bằng, thiên hạ tất loạn, đến lúc đó có thể tranh thủ thời cơ phục hưng Hán thất. Phải biết quân dân Đại Đô trăm vạn hộ, một khi vận dụng vũ khí đó, trong thành hầu như không có ai có thể may mắn thoát nạn. Chỉ tiếc là, khi ấy chúng nhân cố chấp ý nghĩa phục thù, sớm đã không quan tâm đến những điều này”. Nói đến đây, Ngư hoà thượng không kềm được than dài một tiếng.
Lục Tiệm không kềm được hỏi: “Vũ khí đó thật là đã dùng rồi sao?”.
Ngư hoà thượng nói: “Nếu là ngươi, ngươi sẽ dùng sao?”.
Lục Tiệm lắc đầu nói: “Lục Tiệm không dùng”.
Ngư hoà thượng nói: “Dẫu cho ngươi không dùng, người khác chung quy cũng sẽ dùng, nếu như là vậy, ngươi lại ứng phó như thế nào?”.
Lục Tiệm nghĩ ngợi, nói: “Lục Tiệm hoặc là đem vũ khí huỷ đi, hoặc là đem nó cất giấu đi”.
Ngư hoà thượng im lặng một hồi lâu, than: “Không ngờ ngươi lại có phần hiểu biết này, cùng với vị đại toán gia đó không bàn mà khớp hợp. Y vừa thấy uy lực của vũ khí, liền động ý niệm huỷ bỏ, nhưng mười lăm năm tâm huyết, chung quy không nhẫn tâm trong một sớm huỷ bỏ. Y mâu thuẫn nhiều lần, sau khi cùng thê tử thương nghị, bày ra một trò bịp, lừa chúng nhân rời khỏi vũ khí. Sau đó, phu phụ hai người bọn họ điều khiển vũ khí, rời đảo đi xa. Khi ấy chúng nhân phát hiện bị lừa, tới tấp ngồi thuyền đuổi theo, nhưng vũ khí đó một khi vận chuyển rồi, mặc cho bất kỳ là loại thuyền lớn nào cũng đừng mong tiếp cận được, chúng nhân chỉ còn biết trừng mắt nhìn phu phụ bọn họ đi về phía xa, từ đó về sau, cũng không quay trở lại”.
Lục Tiệm nghe xong, bất giác thở phào một tiếng, nhưng trong lòng lại buồn rầu, mường tượng đôi phu phụ đó, bội bỏ người thân bạn bè, rời xa quê hương, cũng không biết ôm ấp tâm tình như thế nào nữa. Nghĩ một lúc, lại hỏi: “Đôi phu phụ đó mang vũ khí đi khỏi, những người còn lại không tạo thêm một cái sao?”.
“Tạo thì tạo rồi”, Ngư hoà thượng nói, “Nhưng vị đại toán gia đó trước khi rời khỏi, mang theo tất cả hoạ đồ. Hơn nữa, không có tính toán thần diệu của vị đó, vũ khí mà chúng nhân tạo, hoàn toàn không có uy lực. Lại qua mười mấy năm, chúng nhân trên đảo không làm được tích sự gì, cuối cùng nản lòng nhụt chí, vứt bỏ đi ý niệm phục thù. Chỉ là, vị đại toán gia đó mang trên người vô số tội danh, suốt cả cuộc đời, đều bị thế nhân oán hận”.
Ngư hoà thượng nói đến đây, không nói thêm nữa, đứng dậy đi về phía tây. Hai người đi được một đoạn, mặt trời đã giữa trưa. Lục Tiệm thấy bên đường đằng xa có một toà lữ xá, tường trúc mái thấp, trước cửa vắng lặng, lập tức đề nghị nghỉ ngơi ở đây.
Ngư hoà thượng đồng ý, hai người đến trước cửa, Lục Tiệm thấy trong nhà lờ mờ tối, bèn cao giọng nói: “Có người không?”.
Gọi liền hai tiếng, từ trong cửa mới đi ra một bà lão lưng còng, mặt đầy nếp nhăn, hai mắt vẩn đục vô cùng, tựa hồ có chút e sợ, nhìn hai người một cái, bèn lùi lại nửa bước, thụt lại dưới mái tranh, rít giọng nói: “Thì ra là hoà thượng xin cơm”.
Nên biết Oa quốc sùng tín Phật pháp, tăng nhân hành tẩu ở trong nước, không bao giờ phải lo đói khát, do đó lão bà đó vừa thấy cách ăn mặc của Ngư hoà thượng, liền biết mục đích đến, hừ nhẹ một tiếng, nói: “Vào đi”.
Ngư hoà thượng thi lễ nói: “Nữ thí chủ, làm phiền rồi”. Lão bà im lặng lùi lại. Hai người vào trong, mũi ngửi thấy một mùi cũ kỹ, vấn vít không bay đi, đoán là lâu rồi không có người đến, tro bụi rải rác trên góc tường bệ cửa sổ. Chợt thấy lão bà đó từ phòng trong đi ra, bưng ra một mâm tre, trên mâm đặt mấy nắm cơm trắng.
Lục Tiệm thấy lão bà này cùng khổ như vậy, lại còn ân cần đãi khách, trong lòng cảm kích, mò ra trên người mấy đồng tiền, nhét vào tay của lão bà, nói: “Lão bà bà nhận lấy”.
Lão bà đó cầm lấy tiền, mắt cũng không nhìn lên, thì thầm nói nhỏ: “Trước giờ chỉ có hoà thượng xin tiền, lại có hoà thượng cho tiền sao?”.
Lục Tiệm nói: “Ta không phải là hoà thượng, tự nhiên cần cho tiền.”
Lão bà chỉ Ngư hoà thượng, nói: “Ngươi không phải hoà thượng, nhưng y thì phải, ngươi đi theo hoà thượng, thì là hoà thượng”.
Lục Tiệm thấy lão bà tuổi cao lẩm cẩm, không có cách gì biện giải, thấy lão bà đó lùi lại, bèn vươn tay lấy một nắm cơm, nắm cơm vừa vào tay, Lục Tiệm trong lòng đột nhiên kinh hãi, mắt thấy Ngư hoà thượng cũng đang chực lấy nắm cơm, vội nói: “Đại sư, cơm này không ăn được”.
Ngư hoà thượng nghe thấy vậy kinh ngạc, chợt thấy Lục Tiệm quẳng nắm cơm lên bàn, hạt cơm văng tung toé, từ bên trong bò ra một con rết dài ba tấc, trong sắc tím toát ra ánh vàng, lộ rõ là vật kịch độc.
Ngư hoà thượng sắc diện sa sầm, đưa mắt nhìn lão bà đó, lại thấy trên khuôn mặt lão bà lộ ra nét cười quỷ dị. Lục Tiệm quát lớn một tiếng, nắm lấy một nắm cơm, ném về phía lão bà. Nắm cơm đập trúng lão bà, chỉ nghe xoạt một tiếng, thân hình của lão bà đó lại theo thế đến của nắm cơm, đổ ập xuống, biến thành một tấm mỏng.
Lục Tiệm chưa từng nhìn thấy việc nào quỷ dị như vậy, kinh ngạc vô cùng, bước nhanh lên trước, nhưng chỉ thấy trên mặt đất chỉ lưu lại một bộ áo quần, một tấm mặt nạ da người. Lục Tiệm nhấc tấm mặt nạ lên, tấm mặt nạ vào tay ướt đẫm, đưa mắt nhìn qua, gần như muốn nôn, thì ra phía sau mặt nạ đó máu thịt bầy nhầy, có lẽ vừa mới lột từ trên thân người ra.
“Cẩn thận”, Ngư hoà thượng chợt quát một tiếng, sau cổ Lục Tiệm chợt hẫng, đã bị Ngư hoà thượng nhấc lên, khoé mắt thấy ánh đao loé lên khắp nơi, một đạo đao quang trắng sáng phá đất mà ra, nếu bản thân còn ở tại đó, tất bị đao này chém đứt hai chân.
Tiếp đó thân thể trầm xuống, đã lên đến xà nhà, đưa mắt nhìn đi, chỉ thấy Ngư hoà thượng đang nhìn xuống dưới, sắc diện nghiêm trang. Lục Tiệm tay ấn vào xà nhà, chợt thấy có biến động, hô lớn: “Xà nhà là rỗng”.
Tiếng kêu mới dứt, mấy đạo ánh sáng từ trong xà nhà vọt ra, Ngư hoà thượng nghe tiếng, sớm đã có chuẩn bị, phất tay áo quét bay ba mũi cương đao, hữu quyền sấm sét kích trúng xà ngang.
Xà gỗ vỡ vụn, một đạo hắc ảnh vọt ra ngoài, đâm mạnh vào tường, xoạt một tiếng, tường tre bị đâm thủng thành một lỗ to, đạo hắc ảnh đó chỉ chớp lên một cái, thì không thấy nữa.
Xà ngang bị huỷ, Ngư hoà thượng và Lục Tiệm cùng rơi xuống đất, vẫn còn chưa đứng vững, từ trong lòng đất chợt nhiên loé lên ánh sáng trắng, trường đao đã chờ chực ở đó. Ngư hoà thượng quát lớn một tiếng, không né không tránh, chân trái đạp trúng mũi đao, một loạt tiếng leng keng vang lên, trường đao đoạn đoạn vỡ vụn. Hai chân của Ngư hoà thượng lún vào đất nửa thước, toà lữ xá rộng lớn bị chấn động một cái, từ trong đất truyền ra một tiếng kêu thảm, một đạo hắc ảnh đột nhiên từ ngoài hai trượng phá đất nhảy ra, nhanh như chớp giật, vùn vụt lao đi.
Lục Tiệm nhấc chân, muốn đuổi theo, Ngư hoà thượng kéo lấy y, lắc đầu nói: “Không cần phải đuổi, đi vào phòng trong xem sao”.
Lục Tiệm chỉ biết đi theo Ngư hoà thượng vào trong phòng, vừa mới vào cửa, liền cảm thấy mùi máu xộc vào mũi. Lúc đưa mắt nhìn, chỉ thấy một thi thể đàn ông máu thịt bầy nhầy phủ phục gần cửa, bên cạnh thi thể đàn ông, chính là thi thể của một lão bà, toàn thân trần truồng, da mặt từ trán đến cổ đã bị lột mất.
Lục Tiệm vừa nhìn thấy, liền nhịn không được, dựa vào thành cửa, nôn thốc nôn tháo. Ngư hoà thượng cũng liền miệng niệm: “tội lỗi”.
Lục Tiệm vừa hết kinh hãi, phẫn nộ nói: “Đám người này độc ác vô cùng, đại sư nhận ra bọn họ sao?”.
“Hoà thượng biết”. Ngư hoà thượng lộ ra vẻ rầu rĩ, “Đám người này truy sát hoà thượng đã gần mười năm, không ngờ hôm nay lại tàn nhẫn đến vậy, đến cả người già cũng không tha.”
Lục Tiệm nhìn Ngư hoà thượng, trong lòng đầy nghi hoặc, đang định hỏi ngọn nguồn, Ngư hoà thượng đã nói: “Trước tiên để hai người này nhập thổ vi an đã”. Lục Tiệm đồng ý, cúi người ôm lấy thi thể người đàn ông, vừa mới chạm đến y sam của người đàn ông, chợt sinh dị cảm. Trong sát na, thi thể đó cũng cử động, một vầng đao quang, từ dưới háng thi thể lướt ngược ra, đâm thẳng vào bụng dưới của Lục Tiệm.
Lục Tiệm vừa sinh dị cảm, đã thi triển thuật Khiêu Ma, nhảy phốc lên vài thước. Đao quang lướt không, thi thể đó lại lộn nhào ngược lại, đó là một người đàn ông bịt mặt, chực chuyển đao kích thẳng vào Ngư hoà thượng, không ngờ Lục Tiệm lăng không một cước, đá mạnh vào cổ tay hắn.
Tên đàn ông giả chết bị đau, trường đao rời khỏi tay. Hắn thấy tình thế bất diệu, rùn người một cái, nửa người đã chui vào đất, chợt nghe bên tai một tiếng quát mạnh mẽ, eo lưng hơi lạnh, tiếp đó đau đớn không nhịn được, nửa thân trên dán đất lăn ra, keng một tiếng, đâm mạnh lên chum gạo ở góc tường.
Người đó vẫn chưa chết, trợn mắt nhìn Ngư hoà thượng, khàn khàn nói: “Hoà thượng, ngươi giết ta … Ngươi lại giết ta …”. Trong lúc y kêu hét, máu tươi như suối từ trong miệng ồng ộc tuôn ra.
Ngư hoà thượng lắc đầu than: “Nhẫn Tam lang, đao đó không phải là hoà thượng chém”. Tên đàn ông đó nhịn đau đưa mắt nhìn, chỉ thấy Lục Tiệm tay cầm trường đao, máu tươi thuận theo mũi đao nhỏ xuống từng giọt, bất giác hiểu ra, cười thảm nói: “Ngươi là ai mà có thể giết được Nhẫn Tam Lang ta?”.
Lục Tiệm nói: “Ta tên là Lục Tiệm”. Nhẫn Tam Lang nói: “Hảo hán tử, mong ngươi giúp ta giới thác”. Giới thác chính là giúp võ sĩ Oa quốc mổ bụng mà chết, chặt đi đầu lâu, giúp cho người ấy siêu thoát. Lục Tiệm chưa từng giúp người giới thác, có chút do dự, chợt thấy hai mắt của Nhẫn Tam Lang trợn ngược, sắc mặt tái dần, ngoẹo đầu một cái, đã tắt thở.
Ngư hoà thượng và Lục Tiệm quan sát bốn phía, thấy không còn địch nhân nữa, mới đem thi thể trong phòng chôn đi, lại tìm được một chút bột gạo, tạm thời ăn no bụng. Dùng cơm xong, hai người khởi hành đi về phía đông, trên đường đi sắc mặt của Ngư hoà thượng lãnh đạm, một lời cũng không nói, Lục Tiệm đoán hoà thượng rất đang bực tức mình giết Nhẫn Tam Lang, nhưng nghĩ đến tình cảnh lúc đó, bản thân lòng đầy căm phẫn, nếu như không xuất đao, trái lại sinh mệnh khó bảo toàn. Ngư hoà thượng nếu như có oán trách, vậy thì cũng đành chịu.
Lúc vào đêm, hai người tìm một huyệt động dung thân. Ngư hoà thượng toạ thiền một lúc lâu, mở miệng than dài nói: “Lục Tiệm, ngươi có biết rằng, ngươi dùng một lần kiếp lực, thì giống như thiếu một khoản nợ, chiếu theo đệ nhị luật của Hắc Thiên Thư, về sau nhất định phải hoàn trả, kiếp lực càng mượn dùng nhiều, thì khi Hắc Thiên Kiếp phát tác càng đau khổ”.
Lục Tiệm nói: “Cái này thì Lục Tiệm biết, Ninh Bất Không có nói qua”.
Ngư hoà thượng nói: “Ngươi đã biết vậy, tại sao còn xuất thủ giết Nhẫn Tam Lang chứ? Một đao nhanh như thế, phải mượn không ít kiếp lực”.
Lục Tiệm không cần nghĩ ngợi, liền buột miệng nói: “Đám người này tàn nhẫn như thế, đến lão bà bà cũng không buông tha, nếu không giết chết, há không phải càng hại chết nhiều người sao? Cho dù Hắc Thiên Kiếp có đáng sợ gấp mười lần, gặp phải việc như thế này, Lục Tiệm cũng không thể khoanh tay đứng nhìn”.
Ngư hoà thượng lắc đầu, cười khổ nói: “Lục Tiệm à, ngươi rốt cuộc là người trong trần thế, quá cố chấp ý nghĩa thiện ác. Cũng được, hoà thượng truyền cho ngươi một môn công phu, tương lai nếu như gặp phải kình địch, có lẽ có thể giúp ngươi bảo toàn tính mạng”.
Ngư hoà thượng đứng dậy, hai tay đan chéo, tay trái xoay ngược lại, đến tận dưới nách phải, tay phải thì thẳng tắp hướng xuống dưới, nắm lấy đầu gối phải. Lục Tiệm thấy thân thể của Ngư hoà thượng cong queo như vậy, chỉ biết nhìn đến ngây người.
Chỉ nghe Ngư hoà thượng thong thả nói: “Ngươi ghi nhớ cho kỹ, đây là ‘Ngã Tướng””. Nói xong lại bày một tư thế quái dị, chân phải đá ngược ra sau, tay phải hướng xuống dưới, tóm lấy cổ chân trái, nói: “Đây gọi là Nhân Tướng”. Sau đó lại xoay chuyển tứ chi, tiếp tục biến hoá ra mười sáu các loại tướng thái như “Thọ Giả Tướng”, “Mã Vương Tướng”, “Hầu Vương Tướng”, “Tước Mẫu Tướng”, “Hùng Trư Tướng”, “Thần Ngư Tướng”, “Bán Sư Nhân Tướng”, “Bạch Hào Tướng”, “Chư Thiên Tướng”, biểu diễn đã xong, lệnh cho Lục Tiệm theo đó luyện tập.
Lục Tiệm lúc đầu tu luyện, cảm thấy khó khăn vô cùng, nhưng kiếp lực đến nơi, dần dần liền cảm thấy trở nên dễ dàng, đến nửa đêm, đã học được mười hai tướng. Ngư hoà thượng chợt nói: “Hôm nay đến đây là được, đi ngủ đi”. Lục Tiệm đang lúc phấn khởi, liền nói: “Luyện thêm hai tướng nữa, rồi ngủ cũng không muộn”.
Ngư hoà thượng thờ ơ nói: “Hắc Thiên Thư một khi luyện thành, bất luận luyện công, động võ, vào tay đều cực nhanh. Như mười hai tướng này, cho dù thiên tư trác tuyệt, luyện được cũng mất nhiều năm, mà ngươi luyện ba canh giờ đã có tiểu thành, là bởi vì mượn kiếp lực của Hắc Thiên Thư. Chiếu theo đệ nhị luật của Hữu Vô Tứ Luật, kiếp lực trong người ngươi đã trống rỗng, cần phải hoàn trả gấp. Tuy nói ‘Tam Viên Đế Mạch’ đã bị phong bế, Hắc Thiên Kiếp chẳng đến nỗi phát tác, nhưng nếu luyện tiếp, thân thể của ngươi rốt cuộc cũng bị tổn hại”.
Lục Tiệm chỉ biết dừng lại, điều tức một lát, ngả lưng ngủ luôn.
Trong lúc ngủ say, Lục Tiệm chợt cảm thấy thân thể nhẹ hẫng, phiêu phiêu diêu diêu, rời mặt đất bay lên, được một lúc mới dần dần tỉnh táo, thì ra lại đến nơi nửa sáng rực, nửa đen tối, các vì sao trong vùng tối vẫn như cũ, duy chỉ có tam viên “Tử Vi”, “Thái Vi”, “Thiên Thị”, bị một đám mây mù trắng xám bao phủ, mơ hồ không rõ.
“Lục Tiệm …”. Chợt có một giọng nói vang lên bên tai. Lục Tiệm nghe thấy quen tai, ngờ nghệch nhìn đi bốn phía, lại không thấy ai, chỉ nghe giọng nói đó kêu nói: “Lục Tiệm ….”. Lục Tiệm nhịn không được, theo giọng nói hướng về phía trước, chỉ nghe giọng nói đó không dứt, thoắt trên thoắt dưới, thoắt đông thoắt tây. Lục Tiệm theo giọng nói mơ hồ mà đi, cũng không biết đi được bao xa, chợt nghe một tiếng mèo kêu, Lục Tiệm cúi đầu nhìn xuống, chỉ thấy một con mèo Ba Tư ngồi trước chân, lặng lẽ nhìn y.
“Bắc Lạp Sư Môn?” Lục Tiệm lấy làm lạ nói: “Tại sao ngươi lại ở đây?”.
“Lục Tiệm ….” Tiếng gọi kia lại vang lên, gần như cùng lúc, Bắc Lạp Sư Môn kêu dài một tiếng, tiếng mèo kêu sắc nhọn như đao, cắt vụn tiếng kêu kia thành vô số mảnh vỡ, trong sát na, bốn phương tám hướng đều là thanh âm đứt đoạn “Lục … Lục … Lục … Tiệm …. Tiệm … Tiệm ….”, dần dần nhẹ đi nhỏ đi, cuối cùng như bông liễu theo gió, nhẹ nhàng bay mất.
Tinh thần và tâm trí của Lục Tiệm hơi ngưng đọng, ngẩng đầu nhìn đi, chợt thấy Bắc Lạp Sư Môn không biết từ lúc nào lại lớn lên hàng trăm lần, cao như núi Nhạc, hai mắt xanh óng ánh, giống như nhật nguyệt chiếu vào mình.
Gan ruột của Lục Tiệm như muốn rách toạc, thất thanh kêu thảm, bỗng nhiên cảm thấy trời đất xoay chuyển, ánh sáng và bóng tối, các vì sao và Bắc Lạp Sư Môn khổng lồ đều biến mất, hai chân lại một lần nữa chạm vào mặt đất, y mở mắt nhìn ra, chỉ thấy bốn bề tối đen, bóng cây chằng chịt, như yêu ma quỷ quái đi lại, trên người đều ướt đẫm mồ hôi lạnh, bỗng nhiên một trận gió thổi qua, bất giác lạnh rùng mình.
Y véo mạnh một cái vào đùi, cảm thấy rất đau, mới tin lúc này không phải trong mơ. Y hồi tưởng lại, bản thân đang ngủ ngon trong sơn động, nhưng không biết vì sao lại đến đây. Đang cảm thấy khó hiểu, chợt nghe thấy một tiếng mèo kêu, đưa mắt nhìn, thì thấy Bắc Lạp Sư Môn ngồi chổm phía đằng xa, đang liếm móng vuốt của mình. Lục Tiệm nghi hoặc không dứt, tự hỏi: “Tại sao ta lại đến đây?”.
Bỗng nhiên nghe giọng nói của Ngư hoà thượng văng vẳng vọng đến: “Ngươi chạy được hơn hai mươi dặm, chẳng lẻ tự mình không biết sao?”. Lục Tiệm quay đầu lại, chỉ thấy Ngư hoà thượng đứng thẳng ngoài trượng, sắc mặt lo buồn, bất giác ngơ ngác nói: “Đại sư, ta đang nằm mơ, trong mơ có người gọi ta, ta bèn đi theo giọng nói đó”. Lập tức đem sự tình trong mơ kể lại rõ ràng.
Ngư hoà thượng nói: “Ngươi có nhớ giọng nói gọi ngươi không?”. Lục Tiệm trầm ngâm nói: “Nghe rất quen tai, giống như, giống như …”. Chợt nhiên sắc mặt trắng bệch, trợn mắt cứng lưỡi.
Ngư hoà thượng thấy thần sắc của y, hỏi: “Giống của ai?”. Lục Tiệm khó nhọc nói: “Giống … giống Ninh Bất Không”.
Ngư hoà thượng thì không kinh ngạc, gật đầu nói: “Quả nhiên là ‘Triệu Nô’ chi thuật, chiếu theo đệ nhất luật của Hắc Thiên Thư, kiếp chủ sống thì kiếp nô sống, kiếp chủ chết thì kiếp nô chết, do đó kiếp chủ ngộ hiểm, có thể dùng thần thức kêu gọi kiếp nô đến cứu. Phương pháp này tuy rằng ta có nghe qua, nhưng chưa từng đích thân nhìn thấy. Lúc này, chắc hẳn là Ninh Bất Không dùng phương pháp này, gọi ngươi quay về”.
Lục Tiệm nghe vậy toát mồ hôi lạnh, cả kinh nói: “Vậy há không phải Ninh Bất Không bất kỳ lúc nào đều có thể gọi ta quay về”.
Ngư hoà thượng lắc đầu nói: “Cũng không hoàn toàn là vậy, ta tự có cách phá giải”.
Lục Tiệm lấy lại tinh thần, được một lúc hỏi: “Nhưng … nhưng tại sao trong mơ Lục Tiệm lại thấy Bắc Lạp Sư Môn?”. Ngư hoà thượng trầm ngâm nói: “Việc này Ngư hoà thượng cũng không hiểu. Con mèo này quá nhiều cổ quái, ví như y vốn chỉ nhận con gái là chủ nhân, tại sao lại đi theo ngươi? Như hôm nay lại vào trong mộng của ngươi, phá giải Triệu Nô chi thuật của Ninh Bất Không, thực là làm cho người ta không có cách gì hiểu được”.
Lục Tiệm trong lòng bất giác sinh kính sợ, ôm Bắc Lạp Sư Môn, than: “Bắc Lạp Sư Môn, cám ơn ngươi nhiều”. Bắc Lạp Sư Môn vẫn uể oải, chỉ lo thè lưỡi liếm lông trắng mềm nhỏ.
Lại nghe Ngư hoà thượng nói: “Ngươi nói trong mơ nhìn thấy Tam Viên đế tinh sao?”. Lục Tiệm gật đầu nói: “Đúng vậy, chỉ là bị sương mù bao phủ, nhìn không được rõ”.
Ngư hoà thượng cúi đầu nghĩ ngợi một lúc, than: “Rất tốt, quay về thôi”.
Hai người quay về huyệt động, Lục Tiệm lại nằm xuống. Y trong mơ chạy hai mươi dặm, mệt mỏi không chịu được, chốc lát đã ngủ thiếp đi, lần này không có dị mộng, mờ mờ ảo ảo cảm thấy một luồng ấm áp to lớn dần dần lưu chuyển trong cơ thể, thập phần dễ chịu.
Lần này ngủ đến khi mặt trời lên ngọn cây, y mới tỉnh lại. Đưa mắt nhìn, chỉ thấy Ngư hoà thượng quay lưng lại phía mình, nghiêm túc ngồi phía xa, trông ở phía sau lưng, càng thấy gầy nhỏ khô đét.
“Ngươi tỉnh rồi sao?”. Sau đầu Ngư hoà thượng giống như mọc mắt: “Hôm nay chúng ta nói đến câu chuyện thứ hai, nói về một môn võ công”.
Lục Tiệm lấy làm lạ hỏi: “Võ công?”
Ngư hoà thượng nói: “Nếu nói về môn võ công này, cần phải bắt đầu nói về một đôi nam nữ. Người con trai trong họ, biệt hiệu ‘Kính Thiên’, thiên sinh thông tuệ, tập hợp sở trường của nhiều nhà, lúc y ba mươi tuổi, thiên hạ đã không có địch thủ; còn người con gái đó, lại là đệ tử duy nhất của vị đại toán gia nói đến hôm qua, mọi người gọi là ‘Phong Hậu’. Kính Thiên, Phong Hậu vang danh nhân thế, nếu luận võ công, Kính Thiên hơn một bậc, nhưng không may là Kính Thiên lại một mực yêu thương người con gái có biệt hiệu Phong Hậu kia”.
“Tương Vương hữu mộng, thần nữ vô tâm. Kính Thiên mến mộ Phong Hậu, trong lòng Phong Hậu thì lại có người khác. Nhưng cũng rất không may, người mà nàng mến mộ lại là sư phụ đã có hôn phối, do đó đoạn tình duyên này như hoa trong gương, như trăng đáy nước, không bao giờ nắm bắt được. Sau đó, cũng không biết do nguyên cớ gì, người thân bằng hữu của Kính Thiên và Phong Hậu phát sinh xung đột to lớn, lúc đầu sư phụ của nàng vẫn còn ở trung thổ, còn có thể áp chế được tâm ma của nàng. Không ngờ vị đại toán gia đó vì tiêu trừ tai kiếp thần binh, rốt cuộc cáo biệt cố thổ, cùng thể tử viễn tẩu hải ngoại. Phong Hậu lúc đó ở xa Tây Vực, sau đó biết được, bi thống vô cùng, tiếp đó từ bi thương chuyển thành oán hận, một mực cho rằng thân bằng của Kính Thiên bức sư phụ rời đi. Lời nói hai bên không hợp, xuất thủ giao chiến, thân bằng của Kính Thiên không có ai địch được Phong Hậu, nhiều người thân thụ trọng thương, Kính Thiên bất đắc dĩ đích thân ra tay. Hai người giao đấu kịch liệt một trận, Phong Hậu chung quy bại trận, nhưng Kính Thiên lại không cách gì ra tay giết nàng, thậm chi không lo đắc tội với người thân, phóng thích nàng đi”.
Lục Tiệm nghe đến đây, trong lòng nghĩ: “Phong Hậu này, nghe ra cũng là một người con gái thông tuệ, nhưng vì sao cố chấp như vậy; còn như vị Kính Thiên kia, lại là một người si tình”. Nghĩ đến đây, bất giác nhớ đến Diêu Tình, tưởng tượng bản thân nếu như là Kính Thiên, Diêu Tình lại là Phong Hậu, đối mặt với tình trạng bế tắc như vậy, lại như thế nào?
Tâm trí của y thoăn thoắt, chìm đắm trong tưởng tượng, chợt nghe Ngư hoà thượng nói: “Hài tử, ngươi đang nghĩ gì vậy?”.
Lục Tiệm cả kinh, lại thấy Ngư hoà thượng đã quay người lại, nhìn chăm chăm vào mình, sắc mặt bất giác hồng lên, lúng búng nói: “Không, không nghĩ gì cả”.
Ngư hoà thượng nói: “Câu chuyện này liên quan rất lớn đến ngươi, ngươi cần phải dụng tâm nghe cho kỹ”. Lục Tiệm lấy làm lạ hỏi: “Có liên quan gì với Lục Tiệm?”.
Ngư hoà thượng vẫn không trả lời, cười cười, tiếp tục nói: “Hãy nói sau khi Phong Hậu thua trận, trong lòng căm phẫn, khổ luyện võ công, sau đó lại khiêu chiến với Kính Thiên vài lần, nhưng đều thua. Phong Hậu dưới sự hổ thẹn và tức hận, quyết ý mở một lối đi khác, sáng tạo ra một môn võ công mới, xuất kỳ chế thắng. Dưới sự suy tưởng của nàng, liền nghĩ đến ‘Ẩn Mạch’”.
Lục Tiệm nhịn không được hỏi: “Cái gì gọi là Ẩn Mạch?”.
Ngư hoà thượng nói: “Tự cổ, người học võ trong trung thổ tu luyện nội công, luyện đều là Thiếu Âm, Thiếu Dương, Thái Âm, Thái Dương, Quyết Âm, Dương Minh mười hai kinh mạch các loại và kỳ kinh bát mạch. Võ học của Thiên Trúc và Thổ Phồn luyện thì là ‘Tam Mạch Thất Luân’, tên gọi tuy không giống nhau, nhưng đại để giống nhau, không có nhiều khác biệt, là dùng những kinh, mạch, luân, đều gọi chung là ‘Hiển Mạch’. Chỉ là, vạn sự vạn vạn vật, có chính tất có phản, có hiển tất có ẩn. Nếu như nói Hiển Mạch là giang hà hồ hải trên mặt đất, vậy thì Ẩn Mạch chính là ám lưu âm hà trong lòng đất sâu, khác hẳn bất kỳ một kinh, một mạch, một luân nào trong Hiển Mạch, tự thành thể hệ, ẩn giấu ở nơi sâu nhất thần bí nhất trong cơ thể người, tự cổ đến nay, chưa từng có người phát hiện, cũng chưa từng ký tải ở bất kỳ điển tích của y gia nào”.
Lục Tiệm nghe đến nhập thần, hỏi: “Đã không có người phát hiện, Phong Hậu làm sao lại phát hiện được?”.
Ngư hoà thượng nói: “Đó không phải Phong Hậu phát hiện ra, mà là do sư nương của nàng phát hiện. Sư nương của nàng một vị đại thần y, tinh thông kinh mạch. Nàng ta trong lúc ngẫu nhiên, phát hiện ở nơi kinh mạch bình thường, còn có mạch lưu ẩn giấu khác, lập tức tham cứu, trước sau phát hiện ba mươi mốt mạch lưu ẩn, bởi vì mạch tính đó khác nhau rõ ràng với kinh mạch bình thường, do đó gọi là Ẩn Mạch. Trượng phu của nàng ta chính là vị đại toán gia đó sau khi nghe nói, cho rằng ba mươi mốt Ẩn Mạch này ám hợp thiên số, bèn dùng ‘Tam Viên nhị thập bát tú’ đặt tên”.
Lục Tiệm nghe nói đến đây, tim bất giác đập mạnh, hô hấp cũng trở nên dồn dập, những lời này của Ngư hoà thượng nói không phải là cái khác, chính là nói về lai lịch của Hắc Thiên Thư.
Lại nghe Ngư hoà thượng tiếp tục nói: “Y đạo của nữ thần y đó thần thông, đương thế vô song. Nàng ta biết rõ Ẩn Mạch và Hiển Mạch khắc chế lẫn nhau, nếu như tuỳ tiện mở Ẩn Mạch ra, chỉ có hại không có lợi, do đó tuy rằng phát hiện, nhưng bí mất không nói ra ngoài, chỉ ghi lại trên chổ trống của một bộ y thư, để cho mai sau tra cứu. Không ngờ bộ y thư này, thần xui quỷ khiến, lại rơi vào tay Phong Hậu. Phong Hậu thất bại nhiều lần, bèn tìm cách mở Ẩn Mạch ra, muốn luyện ra một môn kỳ công trước nay chưa từng có, mà người có tư chất duy nhất trong thiên hạ, ngoại trừ sư phụ của nàng, chính là Kính Thiên, người có thể thắng nàng.
Phong Hậu biết rõ Kính Thiên đối với mình tình ý thâm sâu, liền hẹn Kính Thiên cùng xem xét nghiên cứu, tìm phương pháp mở Ẩn Mạch, Kính Thiên bị tình kềm hãm, không nghi ngờ gì, người này cũng là kỳ tài cái thế, hai người đồng tâm hiệp lực, chung quy tìm được biện pháp mở Ẩn Mạch ra, ghi chép lại, cũng chính là Hắc Thiên Thư sau này.
Ngư hoà thượng nói đến đây, ngừng lời không nói, Lục Tiệm không nhịn được hỏi: “Sau đó thì sao?”.
Ngư hoà thượng lắc đầu nói: “Sự việc sau đó, hoà thượng cũng không biết. Hoà thượng chỉ biết, từ đó về sau, Kính Thiên và Phong Hậu tuyệt tung tuyệt tích, cũng không còn bất kỳ tin tức gì”.
Lục Tiệm thất vọng vô cùng, vốn cho rằng có thể từ trong câu chuyện tìm được cách giải thoát Hắc Thiên Kiếp, không ngờ kết cục lại như vậy. Nhưng xoay chuyển ý nghĩ, lại cảm thấy vui mừng thanh thản, nói: “Có lẽ Kính Thiên, Phong Hậu sau khi trải qua việc đó, chung quy kết thành phu phụ, không cần phải xuất đầu lộ diện nữa”.
Ngư hoà thượng lắc đầu nói: “Sợ là sợ hai người bọn họ không phải là phu phụ, mà là chủ nô”. Lục Tiệm trong lòng trầm xuống, chợt nhớ đến đệ nhất luật của Hắc Thiên Thư. Hắc Thiên Thư một khi do hai người hợp sáng, vậy thì hai người chưa chắc có thể thoát khỏi luật thép này, nếu như là vậy, thật là bi kịch vô cùng.
Ngư hoà thượng nói xong câu chuyện, liền lập tức khởi hành, khi Ngư hoà thượng hành tẩu, bước đi trầm trệ, không còn nhanh nhẹn như trước, Lục Tiệm thì thần khí sung túc, hai ba bước đã giành lên trước mặt Ngư hoà thượng, quay đầu cười nói: “Đại sư, đêm qua ngủ không đủ sao? Tinh thần của đại sư hôm nay không được tốt lắm”.
Ngư hoà thượng cười cười: “Hoà thượng cao tuổi rồi, không như ngươi trẻ tuổi lực cường”.
Lục Tiệm hích hích cười mãi, chợt nghe Bắc Lạp Sư Môn trong lòng kêu một tiếng, bèn nói: “Bắc Lạp Sư Môn, ngươi đói rồi sao? Đợi chút mà có khe suối nhỏ, ta bắt cá cho ngươi ăn”. Giọng nói còn chưa dứt, Bắc Lạp Sư Môn lại kêu hai tiếng, không biết tai sao, Lục Tiệm bèn cảm thấy rùng mình sởn tóc gáy, loại dị cảm này, hôm ấy khi nghĩ cách cứu viện A Thị cũng từng xuất hiện.
Lục Tiệm nghĩ ngợi, bỗng nhiên hiểu ra, buột miệng nói: “Đại sư cẩn thận”. Kêu xong nhảy nhanh về phía sau, đẩy Ngư hoà thượng ngã trên mặt đất, tiếng nổ vang lên bên tai, nơi hai người đứng lúc trước, khói bụi bắn lên mù mịt.
“Súng Điểu”. Tâm niệm của Lục Tiệm loé lên, đỡ Ngư hoà thượng, nhấc chân chạy nhanh. Tiếng súng Điểu phía sau vang lên hết đợt này đến đợt khác, bỗng nhiên thân thể của Ngư hoà thượng chấn động, biến thành thập phần nặng nề, nhưng Lục Tiệm không kịp nghĩ nhiều, chỉ lo chạy nhanh.
Tai nghe tiếng súng Điểu kia dần dần thưa lại, đằng trước bỗng truyền lại tiếng nước róc rách, đi vòng qua một khoảnh rừng trúc xanh biếc, chỉ thấy sông lớn phía trước cuộn chảy, nước trong như dải lụa trắng, ánh mặt trời dọi sáng mặt nước, toé ra vạn điểm vụn màu vàng.
Lục Tiệm thở dốc một hơi, quay đầu nhìn lại, bất giác thất sắc kinh ngạc, chỉ thấy chân phải của Ngư hoà thượng bị máu tươi nhuộm đỏ, lỗ đạn từ trong vết máu lộ rõ ràng. Nên biết Ngư hoà thượng thân mang Đại Kim Cang Thần Lực, kim cang bất hoại, hôm đó từng dựa vào tấm thân máu thịt đó, chặn đứng loạt súng Điểu của Kim Xuyên, không ngờ hôm nay lại không cản được một viên đạn chì. Lục Tiệm vừa kinh hãi vừa bi thương, bất giác buột miệng nói: “Đại sư, người làm sao …”.
Ngư hoà thượng không đợi y nói hết, chặn miệng cười nói: “Không sao cả, hoà thượng sơ ý một chút”.
Chợt nghe Bắc Lạp Sư Môn lại kêu lên một tiếng, dị cảm trong lòng Lục Tiệm lại xuất hiện, hai tay vội vàng tiếp xúc mặt đất, bỗng nhiên cảm nhận được: bốn người tám chân, đang dùng cước bộ nhỏ nhẹ rời rạc chạy lại gần, gần đến nơi, đột nhiên phân thành hai đội, trái phải lướt ra.
Lục Tiệm nhắm mắt lặng lẽ đếm: “Hai người lên cây trúc, một người trong đất, còn một người …”. Ý nghĩa chưa dứt, một tiếng nước vang lên, một đạo hắc ảnh từ trong sông nhảy vọt lên, Oa đao trong tay nhằm đầu bổ thẳng xuống, thì ra trong chớp nhoáng, địch nhân đã vòng đến sau lưng hai người.
Nhưng hắn nhanh, Lục Tiệm lại càng nhanh, không phải là hướng về trước, mà là nghênh theo mũi đao đâm ra phía sau, nhẫn giả đó không ngờ đao chưa bổ xuống, địch nhân trước mắt đã biến mất, tiếp đó lồng ngực bị đụng mạnh, cổ họng hơi ngọt, chuôi đao trong tay nện mạnh lên vai của Lục Tiệm.
Lục Tiệm rên thảm một tiếng, hai tay giơ lên, nắm lấy hai tay của nhẫn giả. Rắc một tiếng, nhẫn giả đó thất thanh kêu thảm, hai ngón tay út bị Lục Tiệm vặn gẫy, trường đao rời tay, Lục Tiệm một tay đón lấy, nghĩ cũng không nghĩ, ra sức ném, ném vào ba thước bên phải của Ngư hoà thượng, ngập vào đất đến tận chuôi. Trong sát na, một dòng suối máu thuận theo chuôi đao trào ra, chỗ đất đó lay động, bất thình lình toạc ra, một tên đàn ông bịt mặt nhảy lên, hậu tâm lộ ra một đoạn chuôi đao, hắn xiêu xiêu vẹo vẹo đi được hai bước, đổ rầm xuống đất, không động đậy nữa.
Lục Tiệm lúc này đã rơi vào trong nước. Lục Tiệm lớn lên ở ven biển, thường ngày mò tôm bắt cá, công phu bơi lặn một tuần trà cũng là bình thường, một khi vào nước, liền quấn chặt lấy nhẫn giả kia mà đánh. Nhẫn giả đó thuỷ tính không phải là cực giỏi, cảm thấy vướng chân vướng tay, sốt ruột muốn giải quyết đối thủ, bèn vội xuất thủ, muốn lấy binh khí. Lục Tiệm nhờ vào hai tay, tình cảnh dưới nước hiểu rõ như lòng bàn tay, vừa cảm thấy được ý đồ của người đó, bèn giành trước mò ra từ hông của y hai mũi cương tiêu. Người đó vừa mò nhưng bị hẫng, chợt cảm thấy bên hông đau nhói, hai mũi cương tiêu đã xộc vào người, lập tức nhịn đau, mò truỷ thủ sau lưng, không ngờ một lần nữa lại bị hẫng, sau lưng lại nhói đau.
Nhất thời, Lục Tiệm nhờ vào nhanh tay, đoán trước tiên cơ, mò loạn trên toàn thân người đó, phàm mò được truỷ thủ, cương lăng đều đâm lên người tên nhẫn giả đó. Đợi đến khi đâm lần thứ bảy, tên nhẫn giả đó không còn động đậy nữa, trợn trừng mắt chìm xuống đáy sông. Hắn đến chết vẫn không hiểu vì sao binh khí của mình đang yên đang lành, đều lọt vào tay đối phương.
Lục Tiệm chui ra khỏi mặt nước, chỉ cảm thấy kiệt sức, thấy Ngư hoà thượng ngồi bên bờ phía đằng xa, đang nhìn vào trong nước, thấy Lục Tiệm chui lên, mới thở phào một hơi. Lục Tiệm bò lên bờ, lải nhải nói: “Đại...đại sư, còn hai tên trong rừng trúc”.
Ngư hoà thượng than: “Nhẫn giả đều là thích khách, một kích không trúng, thế tất trốn xa. Ngươi giết chết Nhẫn Nhị và Nhẫn Thập Nhất, những người khác đã chạy xa rồi”.
Lục Tiệm định thần nhìn lại, chỉ thấy góc áo của thi thể trên mặt đất kia thêu một chữ “nhị” màu bạc, tưởng rằng là Nhẫn nhị; còn như nhẫn giả trong nước kia, chắc hẳn là Nhẫn thập nhất. Lục Tiệm nhớ lại ác chiến sinh tử khi nãy, hai tay bất giác run rẩy, sống mũi bỗng nhiên cay cay, nằm phục xuống đất khóc lóc.
Ngư hoà thượng biết y liên tiếp giết ba người, lòng hổ thẹn day dứt, bèn vuốt đầu y, than: “Hảo hài tử, đừng khóc, đám nhẫn giả này, ngươi không giết y thì y giết ngươi, trong lúc sống chết, vốn dĩ không chú ý được nhiều”.
Lục Tiệm khóc một trận, mới bình tĩnh, lau nước mắt hỏi: “Đại sư, đám nhẫn giả này tại sao lại truy sát người?”.
Ngư hoà thượng than: “Đó là câu chuyện thứ tư”. Vừa nói vừa đưa mắt nhìn ra con sông lớn kia, nói: “Hôm nay tạm thời không đi nữa, ngươi đỡ ta đi rừng trúc, chúng ta nói câu chuyện thứ ba”.
Lục Tiệm rút trường đao trên lưng của nhẫn giả kia ra, đỡ Ngư hoà thượng vào trong rừng trúc, chặt trúc, đốt lên một đống lửa. Ngư hoà thượng cũng lấy một mũi cương tiêu không độc, moi đan chì trên đùi ra, dùng vải băng bó lấy, chợt thấy Lục Tiệm vừa từ ngoài rừng trúc quay về, tay cầm cần trúc vót nhọn, phía trên xâu mấy con cá lớn, bất giác cười nói: “Bản lãnh bắt cá của ngươi cũng không tệ”.
Lục Tiệm nói: “Không biết vì sao, Hắc Thiên Thư luyện thành, Lục Tiệm không cần dùng mắt, dùng tay liền có thể cảm nhận được tình hình dưới nước, có cá đi qua, một đâm liền trúng”.
Ngư hoà thượng gật đầu nói: “Nếu không có Hắc Thiên Kiếp, bộ võ kinh Hắc Thiên Thư này có thể nói là thiên hạ đệ nhất lưu”.
Hai người nướng cá ăn, Lục Tiệm thấy sắc khí của Ngư hoà thượng suy bại vô cùng, bèn nói: “Đại sư người ngủ một lúc đi, Lục Tiệm giúp người trông chừng”.
Ngư hoà thượng cười nói: “Không cần, hoà thượng sợ một khi ngủ, thì không tỉnh lại được”. Chợt thấy sắc diện của Lục Tiệm lộ ra vẻ kinh hãi, hai mắt ửng đỏ, vội nói: “Hài tử, đừng lo lắng, hoà thượng nói đùa thôi, chẳng lẽ ngươi không muốn nghe câu chuyện thứ ba này sao?”.
Lục Tiệm thấy Ngư hoà thượng cười nói vui vẻ, lúc này mới yên tâm lại, nói: “Tự nhiên là muốn nghe rồi”.
Ngư hoà thượng nói: “Câu chuyện thứ ba chính là nói về một toà thành”. Ngư hoà thượng nói đến đây, nhè nhẹ thở dài, “Hai trăm năm trước, người Nguyên vô đạo, chung quy dẫn tới trăm vạn hồng quân khởi nghĩa. Khi đó, nghĩa quân nổi dậy khắp nơi, cả trung thổ to lớn chìm trong hỗn loạn vô cùng. Quân đội người Nguyên cố nhiên hung tàn ác độc, trong nghĩa quân cũng là xấu tốt lẫn lộn. Ngươi từng gặp Thiên Thần Tông, chắc hẳn cũng biết y tự thị võ công, không gì không làm; thủ lĩnh nghĩa quân lúc đó phần lớn cũng như vậy, lòng không có chí lớn, chỉ ham hố dục vọng riêng, trước sau không ước thúc chặt chẽ binh sĩ. Có câu ‘Sư hành như hoả’, quân đội nếu không có kỷ luật ước thúc, so với ngọn lửa cháy cả cánh đồng còn đáng sợ gấp mười lần. Thường thường là quân Nguyên vừa mới tàn sát thiêu đốt, đám ô hợp nghĩa quân lại xúm xít đến, tự ý cướp bóc. Lão bá tánh khi đó trải qua những ngày tháng rất khổ, rất khổ”.
Lục Tiệm nhịn không được nói: “Chẳng lẽ không có nghĩa quân tốt sao?”
Ngư hoà thượng nói: “Nghĩa quân tốt không phải không có. Nhưng trong loạn thế, thuật pháp gian lận lừa dối còn có tác dụng hơn nhân nghĩa đạo đức. Nếu không có thực lực hơn người, chỉ dựa vào đức hạnh, thì không thể sinh tồn được. Đám thủ lĩnh nghĩa quân có nhân có đức, không chết trong tay quân Nguyên, thì cũng chết trong tay đồng bào, bộ tướng, thực làm cho người ta đau lòng. Cứ như vậy, qua mấy lần chinh chiến, đồ thán ngàn vạn sinh linh, chung quy đổi được chút biến chuyển”.
Ngư hoà thượng dừng lại, hỏi: “Lục Tiệm, còn nhớ hòn đảo ở biển đông trong câu chuyện thứ nhất không?”.
Lục Tiệm nói: “Nhớ”.
Ngư hoà thượng nói: “Dân đại Tống sống sót sau khi Tống bị vong trên đảo đó, không lúc nào không mưu toan khôi phục Hán thất. Mạt Nguyên đại loạn, đệ tử trên đảo bèn khởi binh ở đông nam, công phá châu huyện, cát cứ một phương, nổi danh thì có Trương Sĩ Thành và Phương Quốc Trân. Nhưng trải qua nhiều đời, hậu duệ của đám dân sống sót này, sớm đã quên đi ý niệm ban đầu của tiền nhân, một mực tham đồ quyền thế, tự cho là đúng, không những không nghĩ đến cơ đồ xã tắc, giải thoát dân khỏi vòng nguy khốn, ngược lại chạy theo dục vọng riệng, tự đánh lẫn nhau, cứ thế bị quân Nguyên đập tan từng cái một. Cuối cùng, đại thừa tướng Nguyên triều Thoát Thoát đích thân suất lĩnh trăm vạn đại quân, vây chặt Trương Sĩ Thành ở Cao Bưu Thành, chuẩn bị một trận bình định tây nam, triệt để quét sạch nghĩa quân phía nam”.
“Lúc đó sinh tử tuyệt cảnh, cao sĩ trí giả trên biển đông bị bức gạt bỏ hiềm khích, kết thành một khối. Tất cả đệ tử Đông Đảo, bất luận thân sơ quý tiện, tới tấp kéo về Cao Bưu. Trận chiến đó, có thể nói là kinh thiên động địa, nhật nguyệt vô quang. Quân Nguyên người đông thế mạnh, ngoài thành Cao Bưu gần như bị dẹp yên, trong thành cũng hết sức nguy ngập. Ai ngờ đệ tử Đông Đảo không chỉ xem nhẹ cái chết, mà còn chế tạo ra nhiều vũ khí đáng sợ, nhiều lần gây thiệt hại nặng cho quân Nguyên. Song phương giằng co khổ chiến, được mấy tháng, đại quân Nguyên triều chung quy bị đánh tan. Thoát Thoát cũng bị miễn chức. Từ đó về sau, triều đình nhà Nguyên không còn sức tụ tập trọng binh, bị bức phải vứt bỏ đông nam, lùi lại thủ phía bắc”.
“Giả sử lúc đó, đệ tử Đông Đảo vẫn có thể đồng tâm hiệp lực, có thể thừa thắng bắc phạt. Nào ngờ, cường địch mới rút, trong đảo lại bởi vì công thưởng bất nhất, sinh ra bất đồng. Trong chớp mắt, phương nam lại một lần nữa chìm vào hỗn chiến, bá tánh lại rơi vào trong nước sôi lửa bỏng. Cũng tại lúc này, một thanh niên trẻ tuổi, một mình một thuyền, từ hải ngoại quay về, đặt chân lên vùng đất Giang Nam …”.
Lục Tiệm buột miệng nói: “Là vị đại toán gia kia sao?”.
Ngư hoà thượng cười nói: “Nếu tính niên kỷ, vị đại toán gia kia đã hơn trăm tuổi, làm sao có thể gọi là thanh niên?”.
Lục Tiệm hơi cảm thấy thẹn thùng, ngượng ngùng nói: “Vậy là hậu nhân của vị đại toán gia kia?”.
Ngư hoà thượng nói: “Rất nhiều người đều cho rằng như vậy. Nhưng bởi vì nhiều nguyên nhân, thân thế của người này từ đầu đến cuối vẫn là một câu đố, cho dù nhiều năm sau đó, y đối với sự việc cũ trước khi đến trung thổ cũng không mở miệng nhắc đến, thậm chí danh tánh của y, cũng không có mấy người biết đến. Năm đó hoà thượng trẻ tuổi hiếu sự, nghe sư phụ nói đến người này, lấy làm ngưỡng mộ, đi khắp nơi sưu tầm thân thế của y, thậm chí lén vào hoàng cung đại nội, lật xem tư liệu”.
“Lén vào hoàng cung đại nội?”, Lục Tiệm thất thanh nói: “Đại sư thật can đảm a!”.
Ngư hoà thượng lắc đầu nói: “Hoàng cung đại nội cũng không phải là long đàm hổ huyệt gì. Nói đến gan dạ, hoà thượng so sánh với người thanh niên kia thì còn kém xa. Vì điều tra rõ thân thế của y, hoà thượng trước sau ra vào đại nội bảy lần, chung quy cũng có phát hiện, trong một tấu chương cũ rách, khi nhắc đến y, gọi là ‘Lương nghịch’, đủ thấy y và vị đại toán gia kia cùng họ; ngoài ra, lại có một tờ tấu gọi y là ‘Tặc Tư Cầm’, đủ thấy y họ Lương tên Tư Cầm”.
Lục Tiệm lầm rầm nói: “Lương Tư Cầm sao?”.
Ngư hoà thượng gật đầu nói: “Lại nói vị Tư Cầm tiên sinh quay về trung thổ, mắt thấy chiến loạn thê thảm, trong lòng như dao cắt, liền động ý định cứu vớt thiên hạ. Nhưng tính tình của y lạnh nhạt, hoàn toàn không có dã tâm vương bá, nhìn chung quần hùng phương nam, phần lớn tham lam bạo ngược, duy chỉ có Thái Tổ bản triều, Hồng Võ đế Chu Nguyên Chương ôm ấp chí lớn, đối đãi lương thiện với bá tánh, chỉ khổ là địa thế bất lợi, bị quần hùng Đông Đảo bao vây, đầu đuôi không chăm lo được cho nhau, tình thế thập phần bất lợi.
“Tư Cầm tiên sinh thấy tình hình như vậy, bèn đầu nhập dưới trướng Hồng Võ đế, giúp Hồng Võ đế trị quân chỉnh võ, kiến tạo lợi khí công thủ, liên tiếp đả bại đệ tử Đông Đảo. Quần hùng Đông Đảo cảm thấy bất diệu, lại một lần nữa liên hợp với nhau, vây giết Hồng Võ đế. Trong nhất thời, hai bên đều kiến tạo vũ khí đáng sợ đồ sộ, huy động hàng chục vạn đại quân, đánh đến khó phân thắng bại, nhưng rốt cuộc Tư Cầm tiên sinh trí cao hơn một bậc, vô luận Đông Đảo vận dụng bất kỳ mưu kế cơ quan nào, đều bị phá giải, lại thêm Hồng Võ đế hùng tài vĩ lược, trải qua vài trận đại chiến, cuối cùng bức được quần hùng Đông Đảo vào tuyệt cảnh. Lúc này người trong Đông Đảo mới biết là Tư Cầm tiên sinh ngấm ngầm gây khó khăn, liền đoán ra lai lịch của y, song phương trăm năm thù cũ, lại thêm hận mới, lập tức theo quy cũ võ lâm, ký đao lưu giản, hẹn mười năm tháng tám, trên đảo Linh Ngao, tỉ võ luận đạo, nhất chiến sinh tử”.
Ngư hoà thượng nói đến đây, bất giác thở dài một tiếng, nói: “Nói đến Đông Đảo nhất mạch, vốn là trí tuệ uyên thâm, võ công thông huyền, nếu như dùng vào chính đạo, chính là phúc của cõi đời. Nhưng bọn họ nhập thế quá sâu, một khi có liên quan đến quyền lực tài phú, liền không thể khắc chế được dục vọng riêng, dần dần hủ hoá mà tự mình không biết, tất cả tài trí võ công, ngược lại thành lợi khí gây hoạ cho thiên hạ. Thậm chí đến tình cảnh ấy, còn muốn nhờ vào võ lực, gắn chặt lấy quyền thế của Đông Đảo, có thể gọi là tẩu hoả nhập ma, đến chết vẫn không tỉnh ngộ”.
Lục Tiệm cũng cho là đúng, liên tiếp kêu phải.
“Trận chiến Linh Ngao đảo, không chỉ quan hệ đến hưng suy của thiên hạ, mà còn có liên quan đến vận thế của võ lâm. Tổ sư Đại Khổ phái ta cũng từng có vinh hạnh quan chiến. Nghe nói lúc đó, tuyệt đỉnh cao thủ của Đông Đảo dốc toàn lực mà ra, tiến hành bày bố thế trận trước, chuẩn bị để Tư Cầm tiên sinh có đến mà không có về. Cho đến khi đêm khuya sắp tàn, trăng tròn lặn phía tây, Tư Cầm tiên sinh cũng chưa lộ diện, các đại cao thủ của Đông Đảo đều cho rằng Tư Cầm tiên sinh không dám đến, đang xôn xao nghị luận, chợt nghe trên biển truyền lại tiếng tiêu, Tư Cầm tiên sinh một người một tiêu, chân đạp một chiếc thuyền lá mảnh mai, ung dung lướt đến”.
Lục Tiệm cả kinh nói: “Một mình Tư Cầm tiên sinh sao?”.
Ngư hoà thượng nói: “Tư Cầm tiên sinh ở trung thổ không có bằng hữu thân thích, dẫu cho có bà con họ hàng xa thì cũng ở Đông Đảo. Chỉ là, Đông Đảo tuy rằng người đông thế mạnh, nhưng cũng không ngờ đến một việc”.
Lục Tiệm vội nói: “Việc gì?”.
“Đó chính là ‘Chu Lưu Lục Hư Công’!”. Ngư hoà thượng nói: “Môn võ học này, trên Linh Ngao đảo, lần đầu tiên hoành không xuất thế, làm cho người của Đông Đảo trở tay không kịp. Võ công tầm thường bất qaú nhờ vào lưỡi đao quyền cước, nhưng Chu Lưu Lục Hư Công này lại có thể chế ngự các loại năng lượng lớn trong thiên hạ, thiên địa sơn trạch, phong lôi thuỷ hoả, không gì không thành lợi khí, có thể nói đã không phải là võ công của nhân gian. Trận chiến này, Đông Đảo đối với Chu Lưu Lục Hư Công không có cách nào có thể thi triển, bị Tư Cầm tiên sinh liên tiếp đả bại chín đại cao thủ, cuối cùng tất cả đều lên công kích, vẫn thất bại thảm hại, Tư Cầm tiên sinh trên thạch nhai bên bờ đảo rạch đá viết: ‘Hữu bất hài giả ngô kích chi’. Từ đó về sau, bảy chữ này uy chấn võ lâm, còn Đông Đảo thì lại ngã gục không gượng dậy được, không còn sức tranh đoạt thiên hạ nữa.
Sau đó Hồng Võ đế không còn địch thủ nữa, lần lượt bình định phía nam, đồng thời dựa vào thế như chẻ tre, xuất quân bắc phạt, diệt vong Nguyên triều, khôi phục Đại Hán. Nhưng đến lúc này, giữa Hồng Võ đế và Tư Cầm tiên sinh lại có sự chia rẽ vô cùng lớn, cuối cùng trở mặt thành thù”.
Lục Tiệm kinh ngạc nói: “Tư Cầm tiên sinh giúp Hồng Võ đế nhiều như vậy, giao tình nhất định rất tốt, tại sao lại sinh ra sự chia rẽ chứ?”.
Ngư hoà thượng than: “Đối với đế vương mà nói, giao tình có sâu đậm thêm nữa, cũng không quan trọng bằng quyền thế. Khi đó, Tư Cầm tiên sinh có nói hai câu, phạm đến đại kỵ của Hồng Võ đế”.
Lục Tiệm hỏi: “Hai câu gì?”.
Ngư hoà thượng nói: “Câu thứ nhất gọi là ‘Ức Nho thuật’, câu thứ hai chính là ‘Hạn hoàng quyền’”.
Lục Tiệm nghe vậy, cũng không thấy có gì đặc biệt, ngờ nghệch không biết vì sao hai câu nói cỏn con này, có thể làm cho bằng hữu trước kia trở mặt thành thù.
Ngư hoà thượng nhìn ra tâm tư của y, nói: “Hai câu này tuy chỉ vỏn vẹn sáu chữ, lại liên can đến hai hủ tục lớn của Hoa Hạ ta tự cổ đến nay. Từ ‘Bãi truất bách gia, độc tôn Nho thuật’ triều Hán đến nay, kiểm tra đánh giá nhân tài, đều dựa vào Nho học làm tiêu chuẩn. Mà Tư Cầm tiên sinh lại cho rằng, Nho học bảo cổ biếm kim (ca ngợi người xưa, chê bai hiện nay), ngu dân tâm trí, lẽ nên phải tiến hành ức chế, thừa dịp tân triều vừa mới thành lập, khi chế độ còn chưa thành, đề xuất khoa cử tuyển sĩ không thể chỉ dựa vào Nho học làm khuôn mẫu, cần phải lập cửu khoa, toán khoa, cách vật khoa, thiên văn khoa, y khoa, nhạc khoa, hoạ khoa, thương khoa, tề dân khoa, bách công khoa các loại, phân biệt môn loại, kén chọn nhân tài”.
Lục Tiệm hớn hở nói: “Như thế rất tốt a, tỉ như ra biển đánh cá, thì có rất nhiều cách, theo lý mà nói, còn phải lập một ‘Xuất hải đả ngư khoa’”.
Ngư hoà thượng lắc đầu nói: “Nếu phân chia như vậy, thì cũng quá tường tận. Chỉ cửu khoa đó thôi, thì đã gây chấn động trong triều ngoài nội. Không chỉ Hồng Võ đế tức giận, nho sinh trong triều càng nhao nhao nổi lên công kích, cho đến khai quốc danh thần như Từ Đạt, Lý Thiện Trường, Lưu Bá Ôn cũng gia nhập vào hàng ngũ phản đối. Hai bên trước triều biện luận nhiều lần, đều không có kết quả. Tư Cầm tiên sinh tính tình cô ngạo, trong lúc phẫn khích, rốt cuộc tự ý một mình mở quán thu đồ đệ, đồng thời thiết lập chín khoa trong quán. Cứ như thế, càng rước lấy oán hận của nho sinh. Như vậy cũng không nói, thật sự chọc tức Hồng Võ đế chính là câu sau ‘Hạn hoàng quyền’”.
“Nên biết, tự cổ đến nay, quân quyền là trời cho, thiên hạ này chính là đồ vật của một nhà một họ. Cha làm hoàng đế, tất nhiên con cũng là hoàng đế. Làm hoàng đế, tự nhiên cũng là muốn gì làm nấy. Khai quốc chi chủ, gọi là anh minh có lẽ hợp lý, còn con cháu đời sau thường thường người thông minh đảm đang lại ít, người bạo ngược vô đạo lại nhiều. Tỉ như Tần Nhị Thế, Tuỳ Dượng Đế đều là thiên cổ bạo quân, tự ý làm xằng làm bậy, không thương xót sức dân. Tư Cầm tiên sinh xét thấy như vậy, cho rằng nếu như không hạn chế quyền lực của hoàng đế, tất yếu là tai hoạ của quốc gia, do đó đề ra ‘Pháp tự dân xuất, quân quyền pháp thụ’, cũng tức là nói, từ trong tứ dân ‘Sĩ, nông, công, thương’ chọn ra người đức cao vọng trọng, ký kết luật pháp, luật pháp một khi định thành, cho quyền quý như đế vương, cũng phải tuân theo, nếu không tuân theo, có thể theo pháp chế truất phế”.
Lục Tiệm nghe vậy trợn mắt líu lưỡi, lầm rầm nói: “Vậy thì không hay rồi”.
Ngư hoà thượng lấy làm lạ hỏi: “Vậy ngươi nói xem, không hay ra sao?”.
Lục Tiệm nói: “Nếu là như vậy, Hồng Võ đế không cẩn thận phạm phải luật pháp, há không phải cũng bị phế truất!”.
Ngư hoà thượng than: “Lời này vừa khéo cắt trúng chỗ cốt lõi. Lục Tiệm, là ngươi tự nghĩ ra sao?”.
Lục Tiệm lắc đầu nói: “Đấy là Ninh Bất Không nói, y thường nói với Tín Trường, làm Hoàng đế không thể buông lơi nhất chính là quyền lực, một khi mất quyền lực, tất nhiên cũng mất mạng”.
Ngư hoà thượng than: “Ninh Bất Không nói hoàn toàn không phải không có lý. Hơn nữa vị Hồng Võ đại đế này, tuy nói hùng tài đại lược, nhưng lại là vị hoàng đế đầu tiên từ xưa đến nay coi quyền lực như tính mạng, vừa thấy tấu chương của Tư Cầm tiên sinh, long nhan chấn nộ, bác bỏ ngay tại chỗ. Nếu đổi lại là người khác, tự nhiên biết khó mà lùi, ai ngờ vị Tư Cầm tiên sinh này lại có chút khí ngốc khác với phàm tục, lại viết tấu chương một lần nữa, còn thỉnh cầu quần thần định nghị. Như vậy, Hồng Võ đế đem lòng nghi ngờ, hoài nghi Tư Cầm tiên sinh muốn mượn vào luật pháp này, đoạt đi quyền lực của y. Nhưng Hồng Võ đế lo sợ bản lĩnh cao cường của Tư Cầm tiên sinh, bề ngoài không lộ thanh sắc, ngược lại còn bày tửu yến trong cung, mời tiên sinh dự tiệc. Tư Cầm tiên sinh không nghi ngờ gì, vui vẻ phó yến, không ngờ Hồng Võ đế đã cho mai phục ba ngàn giáp binh trong cung, đồng thời trong rượu tiên sinh uống, hạ tuyệt độc kiến huyết phong hầu”.
Lục Tiệm thất thanh nói: “Có lý nào lại như vậy?”.
Ngư hoà thượng cười khổ nói: “Đây cũng chưa là gì, lòng nghi ngờ của Hồng Võ đế lúc cuối đời càng nặng, gần như đem công thần ngày trước tàn sát hết, chỉ hai vụ nghịch án Hồ Duy Dung và Lam Ngọc, đã liên quan giết hại hơn bốn vạn người. Ừ, chuyện phiếm không bàn nữa, lại nói Tư Cầm tiên sinh nhận lời vào cung, Tư Cầm tiên sinh vốn dĩ uống rượu giỏi, rượu rót vào chén, hoàn toàn không từ chối, nửa buổi liên tiếp uống cạn ba bình …”
“Không đúng”. Lục Tiệm vội nói, “Đại sư không phải nói là trong rượu có độc sao? Tư Cầm tiên sinh sao có thể uống hết ba bình rượu?”.
Ngư hoà thượng mỉm cười: “Câu hỏi này của ngươi, vừa vặn cũng là nghi hoặc của Chu Nguyên Chương lúc đó. Y chỉ sợ thái giám của mình hồ đồ lỡ việc, lấy nhầm rượu, bèn lệnh mang thêm rượu độc. Cứ thế, chúng nhân từ giờ Mùi uống đến giờ Hợi, rượu độc cất giấu bí mật trong cung đều đã dùng hết, bình rượu rỗng trên bàn của Tư Cầm tiên sinh cũng hơn mười mấy cái, nhưng Tư Cầm tiên sinh từ đầu đến cuối vẫn nói cười như không, chỉ là ngoại trừ tiên sinh, những người khác không ai không biến sắc, Hồng Võ đế càng giống như ngồi trên lửa”.
“Tư Cầm tiên sinh vẫn thong dong không vội, uống xong bình rượu cuối cùng, chợt nhiên cười hỏi: ‘Chu Quốc Thuỵ, còn rượu không? Nếu như còn rượu, có thể uống thêm’. Quốc Thuỵ là tên của Hồng Võ đế, Tư Cầm tiên sinh gọi thẳng họ tên của Hồng Võ đế, đủ thấy không còn lòng kính trọng. Hồng Võ đế thông minh ra sao, vừa nghe liền biết âm mưu bị vạch trần, lập tức im lặng không nói. Lúc này, Tư Cầm tiên sinh mới chầm chậm đứng dậy, nói: “Chu Quốc Thuỵ, ta muốn giết ngươi dễ như trở bàn tay. Ngươi tuy rằng ích kỷ độc ác, nhưng vẫn có thể được coi là cái thế kiêu hùng. Như hiện giờ thiên hạ mới định, một khi ngươi chết, thiên hạ này chỉ sợ lại rơi vào chiến loạn, nhưng nếu ngươi còn sống một ngày, bá tánh thiên hạ có thể hưởng thêm một ngày thái bình. Ngươi đã không chịu trao quyền cho dân, vậy mong học theo thánh vương ngày trước, tự xét tự kiểm, tự mình làm cho đúng’. Nói xong quăng chén, ung dung bước đi”.
“Hồng Võ đế bị những lời đó của Tư Cầm tiên sinh nói đến nỗi vừa thẹn vừa giận, thấy tiên sinh đi xa, quăng chén làm hiệu, ba ngàn giáp binh nhất thời cùng xông ra, nhưng Chu Lưu Lục Hư Công của Tư Cầm tiên sinh xuất thần nhập hoá, lên trời xuống đất, gặp nước hoá rồng, giáp binh tuy đông, nhưng cũng không chạm được bóng của Tư Cầm tiên sinh”.
“Tư Cầm tiên sinh chạy ra khỏi cung, triệu tập người trong chín khoa tình nguyện theo mình, đánh phá ra ngoài Nam Kinh. Hồng Võ đế phái binh truy đuổi, Tư Cầm tiên sinh vừa đánh vừa chạy một mạch về hướng tây, tuy có thiên quân vạn mã vây đuổi chặn đường, vẫn bị Tư Cầm tiên sinh chạy thoát. Hồng Võ đế nghe tin đại nộ, y đối với toán học và cơ quan học của Tư Cầm tiên sinh hết sức lo sợ, biết rõ tài trí của tiên sinh đến từ chín khoa, nếu người người trong thiên hạ đều như tiên sinh, giang sơn họ Chu của y há có thể vững vàng? Lập tức hạ chiếu, bắt giết những người của chín khoa chưa kịp rời khỏi, những người đã tháo chạy thì giết hết cả nhà, đồng thời cấm tuyệt chín khoa, đến toán khoa đã có từ đời Tuỷ Đường cũng đồng thời bị phế, dùng bát cổ để tuyển chọn nhân sĩ. Từ đó về sau, người đọc sách trong thiên hạ đều chìm đắm trong tứ thư ngũ kinh, không còn đột phá kiến thức mới, phần lớn trở thành hủ nho không biết quyền biến”. Nói xong, Ngư hoà thượng thong thả than dài, lộ ra vẻ đáng tiếc.
“Sau đó thì sao?”. Lục Tiệm nhịn không được hỏi: “Tư Cầm tiên sinh thế nào rồi?”.
Ngư hoà thượng nói: “Tư Cầm tiên sinh trải qua mấy trận huyết chiến liên tục, khi chạy đến Tây Vực, ngoại trừ bảy người đệ tử, chỉ còn lại một nàng tiểu tì kè kè bên người. Tư Cầm tiên sinh thấy tình cảnh như vậy, thương tâm đau khổ, bất giác chảy nước mắt, thế là đem Chu Lưu Lục Hư Công, một phân thành tám, biến hoá thành ‘Thiên, Địa, Phong, Lôi, Sơn, Trạch, Thủy, Hoả’ tám loại thần thông, phân biệt ban cho tám người, đồng người sáng lập bát bộ, lệnh cho tám người mỗi người thống lĩnh một bộ, dùng thần thông của bát bộ, xây dựng một toà thành rộng lớn khoáng đạt trên núi Côn Lôn. Ngày thành trì hoàn thành, tiên sinh lấy tên là ‘Để Chi Hạ Đô’, ý tức là đô thành ở hạ giới của thiên đế, còn người trong võ lâm, lại so sánh nó với Đông Đảo, gọi là Tây Thành”.
“Từ đó về sau, Tư Cầm tiên sinh ẩn cư trong thành, không dẫm chân vào thế tục nữa, cả ngày nghiên cứu toán đạo, truy cứu vật tính, thanh nhàn trải qua thời gian ba mươi năm. Ngày hôm đó, tiên sinh gọi người trong bát bộ vào trong đường nói: ‘Ta lúc đầu tuổi trẻ bốc đồng, từ hải ngoại quay về trung thổ, muốn dùng tài học của mình tạo phúc cho bá tánh, đúng lúc mạt Nguyên tang tóc loạn lạc, thương sinh đau khổ, do đó phản lại tổ huấn, lạm dụng trí tuệ, tạo thành giết chóc vô biên. Tuy rằng về sau thống nhất thiên hạ, nhưng cũng chỉ lấp đầy lòng tham của kẻ thống trị tàn bạo, đại đạo của ‘Ức Nho thuật’ và ‘Hạn hoàng quyền’ rốt cuộc không thể thi hành”.
“Tư Cầm tiên sinh nói xong, lấy ra bản thảo ghi chép nghiên cứu toán học, vật tính mà mình soạn, nói: ‘Hiện nay dùng bát cổ lựa chọn nhân sĩ, ngu lộng vạn dân. Song dân trí một khi bị phong bế, muốn khai mở lại khó biết chừng nào. Tiên tổ nói rất đúng, trí tuệ chỉ có thể dùng đúng lúc thích hợp, đúng chỗ thích hợp. Nhược bằng không, thì giống như xuân khai thu cúc, đông phòng đào lý, trở thành yêu hồng không đúng thời tiết. Hiện nay dân trí không khai mở, còn chưa đủ để vận dụng trí tuệ của ta, nếu như rơi vào tay kẻ bất lương, chỉ thêm hậu hoạ vô cùng. Kẻ nghịch lại trời bất tường, hiện giờ ta đã biết, thiên cơ nhất mạch, cắt đứt tại hôm nay”. Nói xong đem bản thảo tâm huyết cả đời đốt hết. Nhìn theo ánh lửa rừng rực, Tư Cầm tiên sinh chợ vỗ tay cười lớn, liên tục nói: ‘Yêu Hồng đã rụng, thiên hạ thái bình, Yêu Hồng đã rụng, thiên hạ thái bình ….”.
“Đốt xong bản thảo ghi chép, Tư Cầm tiên sinh lại lấy ra tám bức hoạ tượng, phân ra ban cho tám tên đệ tử, nói: ‘Tám bức hoạ tượng tổ sư này, các bộ phải giữ gìn cẩn thận, không được để mất. Nếu không phải bất đắc dĩ, quyết không được để bát đồ hợp nhất, bởi vì bát đồ hợp nhất, thiên hạ vô địch. Hãy nhớ, hãy nhớ!’. Nói đến đây, Tư Cầm tiên sinh chợt vỗ giường thở dài: “Tích hồ hậu thế chi nhân, bất phục tri ngã dã; tích hồ hậu thế chi nhân, bất phục tri ngã dã …’. Kêu liên tiếp ba tiếng như vậy, bỗng nhiên tóm lấy gối mềm bên cạnh người, ném mạnh xuống đất, lại có ánh lửa toé ra, tiếng vang như sấm. Sau ánh lửa tiếng sấm, vị nhất đại kỳ nhân này bàn toạ quy tiên”.
Ngư hoà thượng nói đến đây, im lặng không nói rất lâu. Lục Tiệm cũng đắm chìm trong câu chuyện, quên cả lời nói.
Qua nửa buổi, Ngư hoà thượng mới nói: “Lục Tiệm, ngươi nghe câu chuyện này, có cảm tưởng gì?”. Lục Tiệm nghĩ ngợi rồi nói: “Cách làm của vị Tư Cầm tiên sinh này rất kỳ lạ, làm cho người ta không thể hiểu được, nói ví dụ, y tại sao lại đem tâm huyết cả đời mình đốt đi, còn vỗ tay cười lớn?”.
Ngư hoà thượng nói: “Cái vỗ tay cười lớn này, lại so với gào thét khóc nức nở kia còn tuyệt vọng gấp mười lần. Khi Tư Cầm tiên sinh phát giác, đại đạo ‘Ức nho thuật, hạn hoàng quyền’ tôn sùng cả đời của mình trên cái thế gian này rốt cuộc không có biện pháp gì thi hành, mà đại đạo không thể thi hành, trí tuệ đi cùng với đại đạo đó không những khó mà thực hiện rộng rãi, ngược lại có thể thành công cụ của đế vương tham lam tàn bạo. Thà huỷ nó dưới ngọn lửa còn hơn di hại cho thế nhân. Y ngoài mặt tuy cười, nhưng trong lòng đau khổ có ai hay, do đó trước khi lâm chung kêu lớn ‘Tích hồ hậu thế chi nhân, bất phục tri ngã dã’. Câu nói này, mới là lời tận đáy tim y”.
Lục Tiệm nghe vậy, vẫn không hiểu hết, chực hỏi nữa, chợt sinh lòng cảnh giác, vươn tay vịn vào một cây tre xanh, trúc xanh trong rỗng, rễ cây gắn liền mặt đất, đem động tĩnh trong hai dặm xung quanh truyền lại không sót, chỉ thấy có vài người ẩn nấp trên thân tre, thoắt xa thoắt gần, di động qua lại bất định.
Lục Tiệm trầm tư một chút, vung đao chặt vài cành tre, vót thành trúc tiễn, hướng về phía một người ẩn thân, ra sức ném, nhưng chỉ ném được hai chục bước chân, thì rơi xuống đất.
Ngư hoà thượng đoán ra tâm tư của y, nói: “Ngươi dùng ‘Ngã Tướng’ thử xem”. Lục Tiệm lại lấy một mũi trúc tiễn, chiếu theo ‘Ngã Tướng’ xoay chuyển thân hình, dồn lực đã xong, bất thình lình ném đi.
Tiếng vang sắc nhọn phá không, trúc tiễn đó phóng đi như chớp giật, loé lên trong rừng trúc, liền nghe một tiếng kêu thảm, trên cây tre xanh rơi xuống một người áo đen bịt mặt, tứ chi cong queo, trên trán còn thấy đuôi của trúc tiễn.
Lục Tiệm vốn chỉ muốn người đến kinh chạy, nào ngờ lại bắn chết một người, lập tức ngây người ra. Ta nghe thấy rừng tre xào xạc, đám nhẫn giả còn lại bị trúc tiễn làm khiếp sợ, chớp mắt đã chạy xa.
Ngư hoà thượng cũng rất kinh ngạc, than: “Việc này ngoài ý muốn, hoà thượng cũng không ngờ đến”.
Lục Tiệm trong một ngày giết ba người liên tiếp, trong lòng rất đau buồn, ngây người ra một lúc, mới chọn một cây tre thô to và chắc chắn, giơ đao chém vót.
Ngư hoà thượng lấy làm lạ nói: “Ngươi làm cái gì?”.
Lục Tiệm nói: “Gia gia từng nói, sông lớn hồ lớn, tất thông ra biển, Lục Tiệm làm một cái bè trúc trước, đợi đến tối khuya, chúng ta lặng lẽ xuôi dòng mà đi, đến bờ biễn. Đám nhẫn giả đó nhất định không ngờ được”.
Ngư hoà thượng im lặng gật đầu, ngẫm nghĩ trên đất liền tiến đến đâu nguy cơ đến đấy, nơi nơi đều là cạm bẫy của nhẫn giả, nếu như đổi đi đường sông, có thể thu được hiệu quả bất ngờ. Mắt thấy cây tre thô to vững chắc dẻo dai, Lục Tiệm tốn sức chặt phá, cơ hồ bị cần tre bật trở lại, làm trường đao xiêu vẹo, bèn nói: “Ngươi dùng ‘Thọ Giả Tướng’ xuất thủ, đao đến thân tre lại dùng ‘Hầu Vương Tướng’”.
Lục Tiệm theo cách đó thi triển, nơi lưỡi đao đi đến, tre gãy tựa như cắt cỏ, biến thành thập phần dễ dàng, chỉ là thân hình vặn đi vặn lại, rất là kỳ cục.
Ngư hoà thượng nói: “Mới tập ‘Tam thập nhị tướng’, cần phải mượn các loại tướng thái, kích phát kình lực. Về sau luyện lâu rồi, tướng thái đều bị hoá đi, chỉ còn thần ý, thần ý nhất động, kình lực tự sinh, cho dù ngồi ngay ngắn cũng có thể đả thương người, đến lúc đó, sẽ không kỳ quặc như vậy”.
Lục Tiệm chặt được mười mấy cây tre lớn, vót đi cành lá, đồng thời chẻ một cây trong đó, tước dứt thành sợi, bện thành chão tre. Ngư hoà thượng bèn dạy y “Chư Thiên Tướng” kết chão, dùng “Đa Đầu Xà Tướng” để buộc bè tre, quả nhiên làm ít lợi nhiều. Lục Tiệm chốc chốc cảm biết tình hình xung quanh, đoán là đám nhẫn giả kia tổn binh hại tướng, nhất thời không có người đến nữa.
Đêm đã vào khuya, Lục Tiệm kéo bè trúc xuống nước, đỡ Ngư hoà thượng ngồi ở đầu bè, chống sào xuôi dòng mà đi.
Khi ấy không ánh trăng sao, tiếng nước như tiếng người nỉ non, thấp nhỏ thê lương, mõm đá sườn dốc hai bên bờ sông, phác hoạ ra hình bóng mơ hồ rất nhỏ ở chân trời, hoặc như ngựa khát, hoặc như lân chạy, hoặc như sư tử, hoặc như hổ đói, thiên hình vạn trạng, khó mà miêu tả được.
Lục Tiệm trước sau thấp thỏm, chỉ sợ bõm một tiếng, lại có người từ trong nước ra. May mà hơn nửa đêm trải qua không có động tĩnh, mắt thấy sắc trời sắp sáng, mới tin chắc mưu kế thành công, bèn ngồi xuống bè, chực đánh một giấc, đột nhiên nghe Ngư hoà thượng ho một tiếng, dùng Oa ngữ cao giọng nói: “Lục Tiệm, ngươi có biết nhẫn giả giết người rất có kiến thức, nếu như không nắm chắc nhất định giết được, quyết không khinh cử vọng động, hiện giờ nguy hiểm mới bắt đầu, ngươi ngàn vạn lần không được sơ ý”.
Lục Tiệm đứng bật đậy, buộc miệng hỏi: “Có địch nhân sao?”
Ngư hoà thượng cao giọng: “Yếu chỉ của nhẫn thuật chỉ ở tám chữ ‘Xuất kỳ bất ý, công kỳ bất bị’. Y động thủ lúc nào, xuất thủ khi nào, mà bị ngươi đoán được, thì không được tính là cao minh. Còn như thời cơ, tất ở lúc ngươi không đề phòng nhất. Mà lúc người bình thường lơ là nhất, chính là khi trời sáng”.
Âm thanh chưa dứt, chợt nghe bờ trái truyền lại một tiếng tiêu thấp, mấy đạo hắc ảnh thong thả vọt lên, như khói nhẹ mờ nhạt, chập chờn biến mất. Lục Tiệm bất giác toát mồ hôi lạnh. Y tự cho rằng đắc kế, nào ngờ đám nhẫn giả này sớm đã theo đuôi, đoán là định động thủ lúc trời sáng, nhưng bị một lời của Ngư hoà thượng phá giải, chỉ còn biết tạm thời từ bỏ.
Lục Tiệm ngay tức khắc phấn chấn tinh thần, gắng sức chống sào mấy cái, đẩy bè tre lướt nhanh đi, lại nghe Ngư hoà thượng than nói: “Ngươi tạm thời ngồi xuống, ta có lời muốn nói”. Lục Tiệm chỉ còn cách vứt sào trúc ra, ngồi xuống.
Ngư hoà thượng nói: “Hiện giờ tạm thời không có nguy hiểm, chúng ta nói đến câu chuyện thứ tư. Câu chuyện này, chính là nói về bản thân hoà thượng”. Lục Tiệm chấn động trong lòng, ngưng thần lắng nghe.
Lại nghe Ngư hoà thượng thong thả nói: “Hoà thượng ta thuộc về Thiền Tông. Người trong phái ta vân du tứ hải, trước nay không đại khai sơn môn, cũng không thuộc Thiền Môn Ngũ Tông là Lâm Tế, Vân Môn, Vị Ngưỡng, Tào Động, Pháp Nhãn, tự thành một phái, tiêu diêu tự tại”.
“Từ lúc Cửu Như tổ sư mở ra tông môn, Hoa Sinh đại sĩ phát dương quang đại đến nay, trong ba trăm năm, đã truyền sáu đời. Mỗi đời đều là một sư một đồ, đơn mạch độc truyền. Tại sao như vậy? Chỉ bởi vì sau khi luyện thành ‘Đại Kim Cương Thần Lực’, được như đại lực của Bồ Tát, siêu việt tam giới, nếu như truyền phải kẻ bất lương, tất nhiên tạo thành tội nghiệt vô biên. Đến đời này của hoà thượng, đại thể võ lâm biến đổi mạnh mẽ, Đông Đảo Tây Thành đối đầu giằng co, thế như nước với lửa”.
“Nhớ năm xưa, sau khi Tư Cầm tiên sinh toạ hoá, bởi vì cả đời tiên sinh không vợ, tuyệt không có con. Cho nên chiếu theo di pháp của tiên sinh, thành chủ Tây Thành do Bát Bộ công khai tuyển chọn, mười năm đổi một lần, luân lưu thống lĩnh Tây Thành …”.
Lục Tiệm lấy làm lạ hỏi: “Tư Cầm tiên sinh tại sao lại không có con?”
Ngư hoà thượng nói: “Việc này cũng khá kỳ lạ, có lẽ bởi vì y ghét thói xấu phụ tử tương truyền, cố ý cả đời không lấy vợ, cũng chưa biết được. Nhưng Đông Đảo sau khi thất bại, trước sau vẫn ôm hận, khi Tư Cầm tiên sinh còn tại thế, bọn họ không có biện pháp gì, tiên sinh vừa quy tiên, liền dấy lên tiến công Tây Thành. Tuy nói Tư Cầm tiên sinh đem Chu Lưu Lục Hư Công một phân thành tám, nhưng vẫn không phải vừa, mấy lần giao chiến, Đông Đảo đều không chiếm được thượng phong. Nhưng mối tranh chấp này một khi khai mở, Đông Đảo Tây Thành giao chiến là kéo dài hai trăm nay, bởi vì giành thắng, không từ một thủ đoạn nào. Một trăm năm trước, Tây Thành không biết từ đâu có được Hắc Thiên Thư, vì đối kháng với Đông Đảo, bắt đầu đi ngược lại thiên lý, bắt đầu tích trữ và nuôi dưỡng kiếp nô …”.
Lục Tiệm buộc miệng hỏi: “Từ một trăm năm trước đã bắt đầu nuôi dưỡng, kiếp nô há không phải là rất nhiều?”.
Ngư hoà thượng rầu rĩ gật đầu, tiếp tục nói: “Trải qua nhiều năm tranh đấu, Đông Đảo cũng vậy, Tây Thành cũng vậy, đều thương vong cực nặng, cừu hận đời đời tự nhiên cũng càng kết càng sâu. Không ngờ bốn mươi năm trước, trong Tây Thành xuất hiện một đệ tử của Thiên Bộ gọi là Vạn Quy Tàng, chỉ bởi vì người này thiên tư trác tuyệt, cơ duyên xảo hợp, y lại từ trong tuyệt học của bát bộ, phát hiện ra bí mật của Chu Lưu Lục Hư Công, từ đó quán thông tuyệt học của bát bộ, Chu Lưu Lục Hư, pháp dụng vạn vật, đạt đến cảnh giới của Tư Cầm tiên sinh. Nhưng y không chỉ ngộ tính siêu phàm, mà dã tâm cũng bất phàm, trước tiên dựa vào võ lực phế đi Thành chủ công khai tuyển chọn là Tả Mộng Trần, đăng lên ngôi Thành chủ, sau đó lại toàn lực công đả Đông Đảo. Đệ tử Đông Đảo gần như bị tuyệt diệt, những người may mắn sống sót đều lần lượt chạy ra hải ngoại tránh nạn. Hoà thượng tuy là người thế ngoại, cũng thấy không thể khoanh tay đứng nhìn, suy cho cùng Đông Đảo Tây Thành ba trăm năm trước vốn là một nhà, đuổi tận giết tuyệt như vậy là trái với tình lý, do đó hẹn Vạn Quy Tàng, tương hợp trên Thiên Trụ Sơn, khuyên y dừng tay”.
Lục Tiệm lo lắng nói: “Người này tàn nhẫn độc ác như vậy, đại sư gặp y há không phải là rất nguy hiểm sao?”.
Ngư hoà thượng than: “Trước khi gặp Vạn thành chủ, hoà thượng cũng cho rằng y hẳn là kẻ kiêu ngạo tự đại, hung hãn tàn ác, nhưng thực sự gặp rồi thì hoàn toàn không phải vậy. Vạn Quy Tàng không chỉ tiêu sái như thần, phong độ siêu dật, mà tài trí tuyệt cao, lời nói dễ gần, so đi sánh lại thì giống như Thuần Nhưỡng ngàn năm, không uống cũng say. Hoà thượng tuy là đệ tử Không môn, nhưng mới gặp cũng đã thập phần ngưỡng mộ, trò chuyện vui vẻ hợp ý. Cũng có thể nói, hoà thượng chưa giao chiến mà trên khí độ đã thua cho y rồi”.
“Đã vui vẻ trò chuyện, hoà thượng bèn khuyên y bỏ qua cho bộ hạ còn sót lại của Đông Đảo, không ngờ lại bị một mực cự tuyệt. Khuyên bảo đã lâu, cuối cùng không tránh khỏi đại động can qua; nhưng Chu Lưu Lục Hư Công đã phá thiên đạo, hoà thượng dùng hết toàn lực, cũng chỉ tiếp được ba chiêu. Từ đó về sau, không những công lực chỉ còn lại một nửa, mà thương thế trước sau cũng không cách gì hồi phục”.
Lục Tiệm trong lòng đại chấn: “Vết thương cũ của đại sư lại là do Vạn Quy Tàng gây nên? Hiện giờ công lực của đại sư giảm đi một nửa, vẫn lợi hại như vậy, năm xưa khi toàn thịnh thì không biết còn lợi hại ra sao? Cho dù như vậy, cũng chỉ tiếp được ba chiêu. Vạn Quy Tàng kia thật không biết là nhân vật như thế nào?”.
Trong khi nghĩ thầm, lại nghe Ngư hoà thượng than: “Hoà thượng đã bại, tự nhiên là thúc thủ chờ chết. Nhưng không ngờ Vạn Quy Tàng nói: ‘Huynh ta hai phái, uyên nguyên thâmm sâu. Kim Cương nhất môn lại là nhất mạch đơn truyền, tên tiểu đồ đệ này của huynh thần công chưa thành, đạo huynh mà chết, hương khói của Hoa Sinh đại sĩ đoạn tuyệt, tiểu đệ ở dưới cửu tuyền không có mặt mũi nào gặp tổ sư bản phái. Đông Đảo thì khác, tranh đấu với phái của đệ hai trăm năm, thù sâu như biển, nếu không phải một phái diệt tuyệt, không bao giờ dừng lại, do đó chỉ có thể dùng giết để ngăn giết. Đạo huynh nếu như nhìn không quen, có thể rời xa trung thổ, hoặc là thần công tinh tiến, có thể thắng được tiểu đệ, bằng không ngày nào còn tiểu đệ, xin đừng quay về”.
“Y nói rất khách khí, thực ra đã đày hoà thượng. Nhưng theo thủ đoạn nhổ cỏ tận gốc của y, có thể tha hoà thượng một con đường sống, quả thực là nhìn vào giao tình của Hoa Sinh đại sĩ và sư tổ của y. Đủ thấy người này tuy là nhất đại kiêu hùng, nhưng cũng không phải hoàn toàn là kẻ vô tình”.
Lục Tiệm thấy Ngư hoà thượng bị Vạn Quy Tàng đả thường, đày đi, mà nơi nơi trong lời nói vẫn gỡ tội cho y, trong lòng lấy làm khó hiểu vô cùng.
Lại nghe Ngư hoà thượng than nói: “Hoà thượng nghe những lời này, không còn lời nào để nói, chỉ còn biết dắt tiểu đồ Bất Năng đi đến Đông Đảo. Khi đến nơi, thì phát hiện ra tiểu quốc này khói lửa liên miên, đang lúc loạn thế. Vậy cũng bỏ qua. Chưa bao giờ nghĩ Phật pháp của Đông Đảo trong lúc loạn thế lại cũng hủa hoá sa đoạ hết chỗ nói. Tăng nhân xuất gia không chịu tu hành, ngược lại ỷ trượng tín đồ đông, xa hoa dâm loạn, lấy vợ sinh con, tích trữ nuôi dưỡng loan đồng; thậm chí cưỡng đoạt ruộng của dân, bóp nặn tàn tệ. Phật pháp vốn là tế thế chi pháp, lại thành mánh khoé lừa đảo để bọn gian đồ lừa phỉnh thế nhân, mưu cầu tư lợi”.
“Hoà thượng mắt thấy các loại tội ác, nhịn không thể nhịn, cùng tiểu đồ đi lên Bỉ Duệ Sơn, lý luận với tăng nhân của Đông Đảo. Bỉ Duệ Sơn hiệu xưng là vương thành Phật pháp của Đông Đảo, cư trú rất nhiều kẻ gọi là cao tăng. Hoà thượng bèn trên Bỉ Duệ Sơn cùng chúng tăng biện luận Phật pháp, tranh luận đúng ba ngày ba đêm. Đám tăng nhân đó chìm đắm trong hưởng lạc, Phật pháp thô thiển, sao có thể đương nổi hoà thượng, trong lúc đuối lý không nói vào đâu được, hổ thẹn quá thành tức giận, lại tuyên bố hoà thượng là ‘Phật Địch’, phái xuất tăng quân truy sát”.
“Việc đã như vậy, tuy hoà thượng không để tâm, nhưng trong lòng tiểu đồ Bất Năng lại có biến hoá vô cùng lớn. Tâm địa y vốn thuần tịnh, căn tính mạnh mẽ sắc bén, nhưng không tốt là ở chỗ tôn sùng võ học, thấy hoà thượng bại cho Vạn Quy Tàng, liền đối với Phật pháp sinh ra dao động to lớn. Đến Đông Đảo, y mắt thấy chiến loạn, tính xấu tàn nhẫn háo sát của Oa nhân lại hợp với lòng sùng võ của y, lại thấy chúng tăng của Đông Đảo say sưa hưởng lạc, y không những không lấy làm nhục, ngược lại còn thầm ngưỡng mộ”.
“Năm đó, sư đồ ta bị tăng binh của Nhất Hướng Tông truy sát, khi chạy đến Bắc Y Thế, vết thương cũ của hoà thượng phát tác, không còn sức tháo chạy, bị tăng binh chặn ở bên bờ Mộc Tằng. Thủ lĩnh của đám tăng binh là một tên lực sĩ, dùng một thanh trường đao chín thước được gọi là ‘Nhật Bản đệ nhất đại đao’, diễu võ dương uy, nhìn sư đồ ta như cá nằm trên thớt. Bất Năng bị y sỉ nhục, chung quy không thể nhịn được, khi đó thần thông của y đã thành, chỉ một chiêu liền đánh chết tên thủ lĩnh đó, đoạt lấy trường đao, sau đó không nghe hoà thượng quát dừng, xông vào trong trận. Trận chiến đó ma tính của y đại phát, đem hơn nghìn tăng binh giết không sót một người, đến cả nước sông Mộc Tằng cũng bị nhuộm đỏ. Sau đó y giắt đao mà đi, tự xưng Thiên Thần Tông, hoành hành Nhật Bản, không việc ác nào không làm”.
“Hoà thượng đợi cho thương thế hơi lành, liền đi tìm y. Tên nghiệt chướng đó tự biết không địch được hoà thượng, ẩn náu khắp nơi, thậm chí trong mười năm, cũng không dám công nhiên tác ác. Đáng hận là khi đó hoà thượng cũng gặp nhiều rắc rối, sau trận Bắc Y Thế, Bỉ Duệ Sơn tuy không phái xuất tăng binh, nhưng lại mua nhẫn giả Y Hạ, treo giải thưởng lớn, thích sát hoà thượng. Đám nhẫn giả này thủ pháp nguỵ dị, lại vô cùng kiên nhẫn, mười năm nay cũng không chịu từ bỏ, hoà thượng mấy độ ngộ hiểm, cũng nhiều lần chế ngự được bọn chúng, nhưng rốt cuộc không nhẫn tâm giết hại. Nào ngờ bọn chúng biết hoà thượng không giết, càng không lo sợ, hoà thượng bị quấy rối không chịu nổi, do đó không cách gì rảnh tay để tìm nghiệt đồ kia, để cho y tạo thành càng nhiều tột nghiệt …”.
Nói đến đây, khí huyết của Ngư hoà thượng tuôn lên, ho vài tiếng, thở dốc nói: “Lục Tiệm, ngươi cần phải hiểu, võ lực không phải là con đường nhờ cậy lâu dài, kẻ lạm dụng võ lực tất chết vì võ. Vạn Quy Tàng như vậy, Bất Không như vậy. Đám nhẫn giả này tuy rằng độc ác, nhưng đều là cha mẹ sinh ra, trời đất nuôi dưỡng, ngươi và bọn chúng giao thủ, cần phải có lòng từ bi, vạn lần không nên giống như Bất Không, chỉ vì nhất thời tức giận, rơi vào ma đạo bất phục”.
Trong tiếng nói của Ngư hoà thượng, Lục Tiệm chợt thấy một tay của Ngư hoà thượng ấn trên đỉnh đầu, trong sát na, một luồng nhiệt mạnh mẽ chạy mau xuống, Lục Tiệm không kịp kêu hét, trong đầu vang lừng một tiếng lớn, liền mất tri giác.