rong xã hội London, không gì quan trọng hơn là sở hữu cái tên thuộc về một dòng họ danh giá, và Victoria D’Arbanville sinh ra đã mang một trong những cái họ lâu đời và đáng kính trọng nhất. Tuổi thơ của cô là một chuỗi những bài học để hỗ trợ cho sự trưởng thành sau này: cô được dạy tiếng Pháp, tiếng Ý, tiếng Đức, tiếng Latin và một chút tiếng Nga; cô có thể bàn luận về thuyết tiến hóa của Darwin mà không cần công khai nói đến mối quan hệ giữa người và vượn; và cô có thể hát những khúc opera hay nhất của Monteverdi, dù cô thích Cavalli hơn. Cha mẹ cô thật ra cũng chẳng quan tâm con gái họ thích loại nhạc nào; họ chỉ quan tâm xem làm thế nào để cô cưới được một quý ông lịch lãm, vì đó là điều mà những thiếu nữ thời nữ hoàng Victoria cần phải làm. Victoria chưa bao giờ nghi ngờ rằng mình cũng sẽ làm theo đúng như thế, cho đến cái ngày cô gặp Tom Wennington. Không phải một anh Thomas nào đó đâu, người đàn ông này là một anh Tom đích thực. Họ đã cùng dự một buổi dạ tiệc trang trọng, Tom - mặc một bộ com lê xộc xệch - đi cùng một người bạn. Sau bữa ăn, cánh đàn ông rút về phòng khách nơi chủ đề chính là Nghị viện và Kinh Thánh. Tom cũng chẳng biết gì nhiều mà góp chuyện mặc dù nếu bị ép buộc anh có thể nêu chút ý kiến về đất cát. Anh là một người nông dân, từ đầu đến chân, như cha ông anh vậy. Tom là người đàn ông thô kệch hơn bất cứ người đàn ông nào Victoria từng biết, nhưng niềm vui sướng của cô mỗi khi tình cờ gặp anh, vô tình mà hữu ý, trong suốt những tuần tiếp theo, là không thể chối cãi. Về phần mình, Tom cũng đã kéo dài thời gian ở lại London thêm một tháng so với dự định ban đầu; anh gồng mình chịu đựng các bữa tiệc, các buổi uống trà, và các buổi biểu diễn opera chỉ để tìm cơ hội gặp Victoria. Cuối cùng bạn của Tom, dù giàu có và hào phóng, cũng bắt đầu hết cả com lê để cho Tom mượn. Tom, biết rõ ruộng đồng của anh không thể tự sinh sôi, đã quyết định hoặc đi về nhà một mình hoặc lấy hết can đảm bám trụ lại. Tiện đây, đó là câu nói mà Victoria đã dạy anh. Nhà D’Arbanville hoảng sợ tột độ khi họ đoán được con gái mình quan tâm đến cái anh, cái anh… nông dân này! Nhưng đến lúc đó thì đã quá muộn. Victoria không chỉ giỏi trích lời Phu nhân Macbeth mà còn biết ứng dụng khả năng lập kế hoạch của bà. Khi cô nhanh chóng nhận ra Tom không hiểu được những từ hoa mỹ mình nói, Victoria đã sắp xếp một chuyến đi bí mật đến nhà máy hàng đầu trong lĩnh vực sản xuất máy nông nghiệp chạy bằng hơi nước của cả London. Tom đã bước vào cái thế giới xa lạ là London chỉ vì mê mụ Victoria, nhưng anh chưa bao giờ quên rằng Victoria không biết chút gì về cuộc sống của anh. Qua chuyến đi này, cô đã chỉ cho anh thấy cô rất sẵn lòng học nghề nông. Những câu hỏi của cô đối với người quản lý thực vật đã chứng tỏ rằng cô đã bỏ nhiều công sức nghiên cứu về những thứ đó trước cả khi cô bước chân vào nhà máy, và đây chính là điều đã thuyết phục Tom rằng không có người phụ nữ nào khác dành cho anh ngoài cô. Khi Tom cầu hôn, cô biết những tháng ngày bó gối trong phòng khách của mình đã kết thúc. Vâng, cô trả lời ngay lập tức, không thèm chơi trò do dự. Cô đã kết thúc cuộc đời làm Victoria, và sẵn sàng bắt đầu cuộc đời mới với tư cách là cô Vicky đáng yêu của anh. Sự phản đối của cha mẹ cô yếu đi trông thấy khi họ biết Tom sở hữu một diện tích đất rộng bao la, và đôi trẻ đã nên duyên trong một hôn lễ quá hoành tráng so với ý thích của anh. Vicky chuyển đến sống tại trang trại Wennington bát ngát, với một phía nhìn ra cánh đồng và một phía trông về biển Bắc. Đó là một địa điểm khá lạ lùng đối với ngôi nhà, nhưng bà cố nội của Tom đã khăng khăng phải có được một chỗ nhìn ra “nơi đất dừng lại và hòa vào biển cả”. Vicky sẽ nhắc nhở Tom nếu anh quên không cạo râu còn Tom sẽ trêu Vicky rằng gót giày của cô quá cao đối với vợ một người nông dân, nhưng cô cũng thầm run rẩy trước hàm râu lởm chởm ram ráp của anh và anh cũng rất yêu cái cách đôi ủng thành thị làm hông cô lúc lắc. Mùi mồ hôi của anh có thể làm cô rùng mình sung sướng, còn mùi nước hoa thoang thoảng của cô khiến anh phải lấy vội chiếc khăn mùi soa lấm lem ra lau gáy. Khi còn ở London, cơ thể cô chỉ lặng lẽ tồn tại, trên nông trại của họ, Vicky đã ăn sâu bám rễ vào đất mẹ. Cô nhóm lửa để đun những ấm nước khổng lồ cho Tom tắm mỗi tối. Cô thổi ống bễ, mỉm cười, người đẫm mồ hôi, và tưởng tượng anh sẽ cảm thấy thế nào trước sự gần gũi của cô. Chính trong những lần tắm tối này mà lần đầu tiên Vicky cảm thấy yêu đôi tay của mình. Cô quên luôn những bài học piano thuở còn thơ khi kỳ cọ đất bẩn cho chồng. Đến mùa gặt, Vicky thụ thai. Cô mập lên trông thấy vào mùa đông và sinh em bé khi mùa xuân đến, Vicky gọi cậu bé là Alexander; Tom gọi cậu bé là Al. Bầu không khí thôn quê trở nên ngọt ngào hơn bao giờ hết. Sáng sáng họ thường cùng nhau đứng trên vách đá, bế em bé trên tay, nhìn những ngư dân đến rồi đi. Họ làm điều này rất thường xuyên sau đám cưới, và mọi việc cũng không có gì thay đổi trong suốt mùa hè đầu tiên của đứa bé. Tom nhắm mắt lại và tưởng tượng mình đang ở trên mặt nước. Khi còn trẻ, anh từng mơ được gia nhập Hải quân Hoàng gia, nhưng đã từ bỏ ý định khi người cha mất và để lại trang trại cho anh. Tuy nhiên, Tom vẫn có một chiếc thuyền nhỏ anh thường đi vào những ngày Chủ nhật. Vào một ngày như thế đầu tháng Mười một, cũng như bao ngày khác, Tom rủ Vicky đi cùng anh. Vụ mùa mới thu hoạch và họ có đủ thời gian rảnh để dành một ngày cho nhau. Cô nói với anh mình hơi mệt một chút và muốn ở lại chăm sóc em bé. “Nhưng anh cứ đi đi,” cô nói. “Vui nhé.” Từ trên vách đá, Vicky bế Alexander trên tay, nhìn Tom lái chiếc thuyền ra khỏi cảng và tiến dần về phía đại dương, bóng hình anh mỗi lúc một nhỏ dần cho đến khi khuất hẳn. Cô kéo áo khoác chặt hơn và kéo chăn lên cằm con. Một luồng gió lạnh căm căm thổi tới; cô cảm thấy rét thấu xương trong lúc vội vã quay về nhà. Tháng Mười một rồi, cô nghĩ, có gió cũng là bình thường thôi. Luồng gió buốt giá kéo theo cơn bão, thật đột ngột và dữ dội. Trong trang trại, Vicky thiếp đi cùng với cơn đau đầu, tay ôm chặt con bên ngực. Cô cứ trở mình mãi cho đến khi cả hai choàng tỉnh bởi một tia chớp đánh thẳng xuống cánh đồng. Vicky ngồi bật dậy còn Alexander òa lên khóc. Cô mặc vội quần áo rồi chạy về phía rìa vách đá, để em bé lại cho cô giúp việc trông. Vicky đảo mắt suốt dọc chân trời để tìm chiếc thuyền bé nhỏ của chồng. Chẳng có gì ngoài nước biển xám xịt đang cuộn lên giận dữ. Ít phút sau, một người tá điền ra đưa Vicky vào nhà, e ngại cơn gió mạnh có thể kéo cả cô bay khỏi rìa vách đá. Dưới đáy vực là những tảng đá sắc nhọn có thể xé toạc một con người. Khi Vicky đã ở yên trong nhà, họ cố trấn an cô. “Anh Wennington là một thủy thủ giỏi. Anh ấy sẽ tìm được chỗ trú trong một cái vịnh nhỏ và ngồi ở một nơi an toàn đợi cơn bão qua đi. Anh ấy sẽ trở lại khi bão tan thôi.” Vicky gật đầu cho qua chuyện, mong muốn tin đó là sự thật. Đó là cơn bão khủng khiếp nhất trong ký ức của những người còn sống và nó gào thét trong suốt ba ngày liền. Vicky dật dờ đi từ nhà ra vách đá, đứng mãi cho tới khi có một người tá điền đến nói với cô là Alexander đang khóc và cần được chăm sóc. Cơn bão cuối cùng cũng qua đi. Bầu trời u ám rạng dần và ánh mặt trời chiếu rọi qua khe hở giữa các đám mây. Vicky lại quay về chỗ của mình trên rìa vách đá, và cô đứng đó cả ngày liền, đợi người chồng trở về. Nhưng anh vẫn không xuất hiện. Ngày tiếp theo cô tổ chức một đội cứu hộ. Tom được mọi người yêu quý hết mực và tất cả những chiếc thuyền có thể sử dụng được đều bơi xuôi ngược bờ biển để tìm anh. Không có chút dấu hiệu nào của Tom. Không có dấu hiệu của bất cứ cái gì. Chỉ có những con sóng cô đơn, trải dài. Cứ như đại dương đã xóa bỏ mọi chứng cứ về sự tồn tại của anh. Sau ba ngày tìm kiếm, những người đánh cá ngại ngần từ bỏ mọi nỗ lực. Họ cũng phải nuôi sống gia đình mình. Họ hứa với Vicky là sẽ tiếp tục để mắt tới mọi dấu hiệu. Cô không từ bỏ - không thể từ bỏ dễ dàng thế được. Cô thuê một thủy thủ kèm theo thuyền, và hai người cùng nhau tìm kiếm thêm sáu tuần nữa. Vicky dần trở nên thân thuộc với tất cả những rìa đá nhấp nhô nơi bờ biển. Tuy nhiên, đến giữa tháng Mười hai, những cơn gió lạnh như băng đã thổi Vicky và người làm thuê ra khỏi biển cả. Đã đến lúc phải quay về từ chuyến đi tìm người mất tích để quan tâm chăm sóc đến những người còn sống. Bé Alexander cần mẹ nó. Những người tá điền vẫn tiếp tục công việc của mình nhưng thiếu đi sự chỉ dẫn của Tom. Điều duy nhất làm họ cảm thấy nhẹ lòng là vụ gặt đã xong trước khi cơn bão ập tới. Giáng sinh là một sự kiện thật thê thảm, không một cây thông được dựng lên, không một con ngỗng nào được chế biến. Năm đó, bắt đầu thật hứa hẹn với sự ra đời của Alexander vào mùa xuân, đã kết thúc trong đau buồn. Dần dần, Vicky trở lại cuộc sống vốn có của mình nhưng cô vẫn chỉ vận toàn đồ đen. Người trong vùng gọi cô là Góa phụ Wennington. Cô nhận được vài lời trả giá khá hời cho trang trại, nhưng cô cương quyết không bán. Thật không đúng khi từ bỏ mảnh đất đã thuộc về gia đình Tom hàng bao thế hệ, và cô cũng không muốn từ bỏ ngôi nhà nơi cô đã yêu và được yêu mãnh liệt. Hơn nữa, cô cũng không muốn quay trở lại xã hội London. Móng tay cô đã dính quá nhiều đất rồi. Nhưng hơn tất cả, mảnh đất là tất cả những gì Alexander biết về cha mình. Mảnh đất này là Tom. Trong suốt mùa đông cô đơn đầu tiên, Vicky nghiên cứu cách điều hành trang trại, học tất cả những gì cô có thể, vì người chồng mất tích và đứa con thơ dại của họ. Cô cần phải làm một cái gì đó, bất cứ cái gì, để hạn chế tối đa những suy nghĩ về sự đánh cắp Tom trắng trợn của biển cả. Nhưng mỗi buổi sáng, khi mặt trời mọc, Vicky lại đứng bên rìa vách đá một tiếng đồng hồ. “Tom đã chết rồi,” người dân trong vùng nói. “Sao cô ấy lại không thể chấp nhận điều đó chứ? Thật tội nghiệp!” Khi mùa xuân đến, Vicky bắt đầu điều hành trang trại. Lúc đầu các tá điền khá e dè tuân theo chỉ dẫn của cô nhưng khi thấy rõ ràng là cô biết mình đang làm gì, họ thôi không xì xào nữa. Họ kết luận rằng tiền nhà Wennington vào tay Vicky cũng tốt như khi ở trong tay Tom. Cô làm việc rất chăm chỉ để chứng tỏ bản thân, và dù vụ mùa không thành công bằng năm trước đó, nó cũng không đến nỗi nào. Vào lễ tưởng niệm đầu tiên sự kiện Tom mất tích, Vicky đã tháo bỏ khăn tang, nhưng mỗi sáng cô vẫn luôn đi đến rìa vách đá. Đó không phải điều cô có thể lý giải cho người khác, nhưng cô tin rằng bằng cách nào đó những đợt thủy triều sẽ mang tình yêu của cô đến với Tom. Năm tháng qua đi, trang trại ngày càng trở nên giàu có. Vicky đã được biết đến như một nông dân giỏi và một nữ doanh nhân tài ba. Cô có những nhân công tốt nhất vì cô luôn trả lương hậu hĩnh nhất. Cô luôn trả lương hậu hĩnh nhất vì cô luôn thu được nhiều nhất. Cuối cùng cô bắt đầu mua những trang trại láng giềng, với giá cả hợp lý, và khi cô quản lý những mảnh đất mới này, chúng đều gia tăng sản lượng thường xuyên. Trong suốt hai mươi hai năm, Vicky miệt mài làm việc. Bà trở thành người chủ đất giàu có nhất trong cả vùng, còn Alexander trở thành một thanh niên khỏe mạnh, cả về thể chất lẫn tinh thần, và giỏi giang. Rồi một ngày, cậu gặp một thiếu nữ thông minh, mạnh mẽ đến từ một thành phố gần đó. Cậu yêu cô, cầu hôn và được chấp nhận. Vicky biết rằng con trai mình sẽ hạnh phúc. Trong suốt hai mươi hai năm, sáng nào bà cũng dành một giờ đứng trên vách đá nhìn xuống những ngọn sóng quằn quại mời gọi phía dưới. Ba trăm sáu mươi lăm ngày một năm. Tất cả mọi người đều biết bà đang đợi chồng mình trở về. Tám nghìn ngày. Mưa, gió, mưa tuyết, tuyết, nắng nôi cũng không ảnh hưởng gì đến Góa phụ Wennington. Tám nghìn giờ. Không một lần bà rời bỏ chỗ đứng cô đơn của mình bên rìa thế giới, nơi mặt đất hòa vào biển cả. Vào mùa thu sau lễ cưới của Alexander, đã có một trận bão khủng khiếp. Đó, thực sự, là trận bão tệ nhất từ sau trận bão đã cướp Tom đi. Thật lạ lùng, bão đến vào đúng tuần lễ đó, vào đầu tháng Mười một, khi bà mất ông. Gió thét gào, nhưng thậm chí một cơn bão hung bạo cỡ đó cũng không đủ sức khiến Vicky rời khỏi vách đá. Thật ra bà thích những ngày bão tố nhất, vì chúng làm bà cảm thấy mình được đến gần bên người chồng đã mất tích nhất. Vicky đứng hai tay dang rộng, ôm lấy cơn mưa khi nó ập xuống da thịt mình. Bà thì thầm tên ông. “Tom, Tom, Tom, Tom…” Tóc bà tung bay, và rồi bà thét vào trận bão. “Em yêu anh, em yêu anh, em yêu anh, em sẽ luôn yêu anh.” Alexander đứng nhìn từ phía trang trại, vừa phấn khích vừa lo lắng. Anh chấp nhận nghi lễ của mẹ mình vì anh biết nó là một phần không thể thiếu, nhưng lần này thì khác. Bình thường, mẹ luôn yên lặng và đăm chiêu nhìn ra xa; ngày hôm ấy, mẹ giật lên như thể là con rối của trận bão. Alexander chạy vội ra ngăn mẹ lại. “Mẹ! Con chưa bao giờ cản mẹ. Nhưng giờ mẹ phải vào đi, ngoài này quá nguy hiểm.” Vicky gào lên trong cơn bão. “Không!” Alexander dốc hết sức chống lại cơn bão. Chống lại mẹ mình. “Mẹ có đứng nhìn bao lâu đi nữa cũng chẳng có kết quả gì đâu.” Vicky lắc đầu. “Hiển nhiên là có chứ.” Alexander siết chặt cổ chiếc áo mưa. Anh gào lên dưới lần mũ áo mưa cao su màu vàng. “Không ai nghi ngờ tình yêu của mẹ cả.” Vicky quay mặt khỏi con mình, hướng về phía biển. Bà nói thật nhẹ nhàng, nhẹ nhàng đến mức con mình không thể nghe thấy. “Mẹ chỉ muốn nhớ về ông ấy.” Cơn mưa như trút đã xói đất thành những rãnh nước nhỏ quanh chân bà. Đất bắt đầu long ra và Alexander cảm thấy nó đang dịch chuyển. Một vết nứt toác hiện ra giữa họ: hai mươi hai năm đứng suốt tại một vị trí đã làm mòn nền đá. Alexander hoảng loạn với tay về phía mẹ mình, mắt anh mở to vì hoảng sợ. Anh gào lên bắt mẹ nắm lấy tay mình. Vicky đưa tay về phía con trai nhưng khi tay gần như đã ở trong tay con, bà dừng lại. Bà không còn sợ hãi nữa và mỉm cười. Bà để tay mình buông thõng bên sườn. “Vì Chúa, mẹ ơi!” Alexander không thể nói thêm được gì nữa. Tiếng gió mưa gầm rú và tiếng sấm nổ chớp giật ầm ầm khắp nơi, nhưng anh chưa bao giờ thấy mẹ mình bình thản và đẹp đến vậy. Như thể bà đã chờ đến lượt mình, và cuối cùng giây phút đó cũng tới. Đất sụt dưới chân bà và anh đứng nhìn mẹ mình biến mất cùng rìa vách đá vỡ vụn. Thi thể của bà không bao giờ được tìm thấy. Tất cả dân làng đều nói rằng cuối cùng bà đã trở lại bên Tom yêu dấu của mình, dưới những con sóng đại dương.