hân lúc ở nhà một mình khi Marianne Engel đi chợ mua tạp phẩm, tôi quyết định dành trọn buổi chiều để đọc tác phẩm Ân điển-cuộc đời. Tôi đang ngồi đọc trong nhà bếp thì nghe tiếng ai đó đi qua cổng chính pháo đài, bước những bước chân như của một con tê giác mẹ hùng hục đi tìm con. “Marianne?” Giọng một phụ nữ bắn những âm tiết như một khẩu súng khạc ba viên đạn một lúc. Vừa xuất hiện trước cửa phòng ăn, bà lùi ngay lại trước sự hiện diện của tôi. “Anh là người đó hả? Lạy Chúa tôi! Thế này còn tệ hơn tôi tưởng.” Thấp, nhưng thấp kiểu Napoleon; cái kiểu thấp mà luôn kiễng chân lên để cố trông có vẻ cao hơn. Mập, nhưng mập kiểu một quả bóng nước; da thịt không nhão nhoét, nhưng cứ tròn ung ủng như đang tìm chỗ để nổ tung lên. Tuổi tác sao, năm mươi chăng? Rất khó nói chính xác, nhưng có lẽ vậy. Bà chưa có nếp nhăn; khuôn mặt quá tròn mà. Tóc ngắn cũn, má hồng rực; bộ âu phục đen với áo sơ mi trắng, ve áo rộng hất ra phía trước; giày đánh xi bóng lộn; tay chống hông. Mắt bà đầy vẻ hiếu chiến, như thể đang thách tôi đập một cú vào cằm bà ấy. Bà nói, “Anh đúng là một đống bầy nhầy không hơn không kém.” “Bà là ai?” “Jack,” bà trả lời. Cuối cùng tôi đã đứng trước mặt người đàn ông luôn làm tôi cảm thấy bất an, chỉ để thấy rằng đó là một người đàn bà. Nhưng rõ ràng Jack Meredith trông cũng chẳng khác típ phụ nữ luôn mong mình là đàn ông. “Người môi giới của Marianne phải không?” “Anh cứ yên tâm là không bao giờ sờ được một xu nào của cô ấy đâu.” Bà một tay tự pha cà phê cho mình, một tay cứ không ngừng xỉa xỉa vào tôi. “Cô ấy nói anh được sống ở đây hả?” Có vẻ như Jack biết câu trả lời rồi, vì bà chẳng thèm cho tôi cơ hội trả lời. “Cô ấy định chăm sóc anh kiểu gì? Nói tôi nghe coi!” “Tôi không cần cô ấy chăm sóc mình,” tôi nói, “và tôi cũng chẳng quan tâm gì đến tiền bạc của cô ấy.” “Thế thì là gì? Tình dục à?” Bà bật ra cái từ đó đầy khinh khi để tôi hiểu rằng bà coi tình dục chẳng là gì ngoài một cuộc vật lộn ghê tởm giữa hai cơ thể khác biệt. “Tôi chẳng có cái ấy đâu.” “Ồ, ơn Chúa vì chuyện đó.” Bà bỏng cả môi khi nhấp ngụm cà phê đầu tiên. “Chúa rất yêu những kẻ khờ.” Bà vớ lấy một nắm giấy ăn để lau vệt cà phê dây ra cằm, vừa làm vừa soi tôi với vẻ coi khinh xen lẫn tò mò. “Thế thực ra là đã có chuyện gì xảy ra với anh?” “Tôi bị bỏng.” “Ồ, tôi có thể thấy thế mà, anh tưởng tôi ngốc chắc?” Bà vo tròn mấy tờ giấy ăn lại rồi ném thẳng vào thùng rác. Bà ném trượt và bực tức với bản thân vì chuyện đó, bà bước vài bước cần thiết để nhặt cục giấy ăn lên thả vào thùng. “Bị bỏng hả? Tệ quá.” “Bà lúc nào cũng cứ thế mà đi thẳng vào nhà à?” “Tôi đã vào cái nhà này từ khi anh còn là một thằng nhóc ăn trộm đồ uống ở các buổi khiêu vũ trung học cơ,” Jack quát ầm lên, “và tôi cũng chẳng thích thú gì cái việc anh ở lại đây cả. Anh có thuốc lá chứ?” “Tôi không hút.” Bà với lấy gói thuốc lá Marianne Engel để trên quầy. “Trong tình trạng anh hiện nay thì đó có vẻ là một ý hay đấy.” “Thế bà là người môi giới của Marianne à?” Tôi vẫn chưa có được câu trả lời cho câu hỏi lúc đầu. “Thế và hơn nữa, cậu trai, nên hãy cư xử cho cẩn thận.” Jack hít một hơi thật sâu rồi chĩa điếu thuốc về phía tôi vẻ buộc tội. “Cái kẻ chẳng biết gọi là gì này, anh sống ở đây à, thật là một ý tưởng siêu tồi tệ. Tôi sẽ thuyết phục cô ấy bằng được, đồ quỷ nhỏ.” Có lẽ bạn cũng có thể đoán được là tôi rất thích Jack Meredith. Trước hết bởi bà là người duy nhất nói đủ to để tôi không phải bảo bà lặp lại cho tôi nghe. Nhưng hơn thế, tôi đã bị hớp hồn bởi cá tính mạnh bạo của bà: bà cứ như một con gà tây béo tròn nhân hóa được chọn làm nhân vật chính cho tiểu thuyết trinh thám kỳ bí của Raymond Chandler vậy. Tuy nhiên, điểm làm tôi cảm kích bà nhất là bà chẳng có chút cảm thông nào với bệnh nhân bỏng. Chúng tôi nhìn nhau vài phút qua cái bàn. Bà vừa cuộn điếu thuốc lá giữa ngón cái và ngón trỏ vừa nheo nheo mắt, vẻ rất khó chơi, trước khi nói: “Cậu nghĩ mình đang nhìn cái quái gì đấy hả, đồ Khoai Tây Chiên?” Vài ngày sau, Marianne Engel và tôi ngồi ở hiên sau nhà đợi người ta chở một chuyến đá phiến mới đến, cô bảo với tôi rằng cô đã nhờ Jack lập một tài khoản ngân hàng cho tôi. Khi tôi nói tôi chả tưởng tượng được Jack lại vui vẻ chịu làm việc ấy, Marianne Engel nói, “Bà ấy sẽ làm những gì được nhờ thôi. Jack chỉ giỏi dọa chứ không làm gì đâu.” TA BIẾT CHÚNG TA CÓ THỂ LÀM ĐƯỢC NHỮNG GÌ VỚI MỘT CÁI THẺ TÍN DỤNG ĐẤY. Cuộc nói chuyện của chúng tôi lan man đôi chút, trước khi tôi quay lại hỏi cô về đoạn kết câu chuyện của chúng tôi: Tôi muốn biết áo tơi là cái gì. Marianne Engel giải thích đó là một loại áo mưa mà các tu sĩ hay dùng, được trang trí với những cảnh trong kinh Tân ước. Tôi lại hỏi thế áo mưa của cha Sunder có hình gì không. Cô xác nhận là có. “Và tôi sẽ nói cho anh biết đó là hình gì,” cô ngập ngừng nói như trêu ngươi, “khi câu chuyện tiếp tục.” Khi xe tải đến nơi, cô vỗ tay cuồng nhiệt như một đứa trẻ được đi dự hội và chạy biến ra chỗ cửa tầng hầm để tra chiếc chìa khóa to tướng vào ổ khóa khổng lồ. Cô đặt những con lăn sắt xuống đất để đẩy đá vào nhà. Nhìn những tảng đá biến mất qua khung cửa, tôi lại liên tưởng đến một giáo dân đói khát đang ngửa tay ra nhận cứu trợ. Cô đứng lùi sang một bên, khẩn khoản nhắc mấy người vận chuyển nhẹ tay với những bạn nhỏ của mình. Họ nhướng mắt nhìn như thể cô là kẻ điên nhưng vẫn tiếp tục công việc. Ngay khi họ đi khỏi, cô nhanh chóng cởi quần áo rồi thắp nến. Sau khi bật một đĩa thánh ca do nhóm Gregorian trình bày, cô nằm dài ra trên một phiến đá mới và chìm vào giấc ngủ mê mệt đến tận sáng hôm sau. Cô ào vào phòng tôi, miệng toe toét cười và tuyên bố đã nhận được những chỉ dẫn tuyệt vời, nhưng cô sẽ tắm cho tôi đã rồi mới bắt tay vào việc. Khi cô kỳ cọ cho tôi, tôi có thể cảm nhận cô chẳng có chút hứng thú nào - ngón tay cô muốn những phiến đá, chứ không phải da thịt - nhưng cô vẫn thấy cần phải làm vì đó là nhiệm vụ của mình. Vừa tắm cho tôi xong, cô liền chạy ngay xuống tầng hầm. Tôi ngồi trong phòng khách ở tầng giữa ngôi nhà, cố tập trung đọc sách, nhưng bị phân tán bởi tiếng đục đẽo của cô. Tôi chuyển lên tháp chuông để nghiền ngẫm những thứ khác - video, đọc sách, trêu con Bougatsa với cái khăn treo trên dây - nhưng chỉ được vài tiếng, nỗi tò mò của tôi đã trở nên quá lớn rồi. Tôi mở cửa dẫn xuống tầng hầm và nhón vài bước xuống cầu thang để rình Marianne Engel. Tôi không cần lo lắng cô sẽ phát hiện sự xuất hiện tự tiện của tôi, vì cô chăm chú làm việc đến mức chẳng nhận ra tôi có mặt ở đó. Trước sự ngạc nhiên của tôi, cô ở trần mà tạc tượng; tôi cảm thấy hơi bối rối khi nhìn cô tạc tượng thoăn thoắt với những dụng cụ kim loại sắc nhọn. Đống dụng cụ giận dữ lướt qua lướt lại nhưng đôi tay cô vẫn trông thật chắc chắn, tôi cứ ngồi đó ngơ ngẩn trước vũ điệu của kim loại, của đá, và của da thịt. Nói Marianne Engel “tạc” thôi vẫn chưa đủ: còn nhiều hơn thế nữa kia. Cô cứ vuốt ve tảng đá cho tới khi nó không thể chịu hơn được nữa và phải nhả con grotesque ở bên trong ra. Cô đã dụ dỗ những gargoyle ra khỏi hang đá của chúng. Cô yêu việc đưa chúng ra khỏi đá. Khi đã hàng giờ trôi qua mà cô vẫn không hề để ý đến tôi, tôi càng lúc càng ngạc nhiên trước sự bền bỉ của cô. Cô vẫn tiếp tục làm việc cho tới tận lúc tôi đi ngủ, và còn làm xuyên đêm. Ngày tiếp theo cô cũng làm việc như vậy, cũng đẽo tạc thâu đêm. Tổng cộng, cô đã lao động hơn bảy mươi tiếng đồng hồ, uống hàng lít cà phê, hút hàng trăm điếu thuốc lá. Đây chính là phong cách làm việc mà cô từng nói - tạc không ngừng nghỉ suốt mấy ngày liền - nhưng tôi chưa bao giờ tin cô có thể làm được như thế. Tôi đã nghĩ đó chỉ là lời nói phóng đại về cách làm việc nghệ sĩ của cô mà thôi. Nhưng không phải thế. Kẻ đa nghi có thể nghĩ rằng cô chờ tôi đi ngủ rồi tự cho mình đánh một giấc, nhưng những tiếng búa đập liên hồi của cô đã làm tôi trằn trọc suốt đêm. Vào buổi sáng đầu tiên, cô cũng cố ép mình rời khỏi công việc một lúc để tắm rửa cho tôi, nhưng tôi có thể thấy - có thể cảm nhận cô chỉ miễn cưỡng làm việc đó. Mắt cô ánh lên nét lo lắng bồn chồn, gần như điên cuồng, khi cô chà miếng bọt biển lên người tôi. Khi đã làm việc được khoảng sáu mươi tiếng, cô nhờ tôi đặt hai cái pizza chay cỡ lớn. Bình thường thì cô cũng chẳng phản đối việc ăn thịt, nhưng tôi nhanh chóng nhận ra khi đang đục đẽo, cô sẽ điên cuồng từ chối món thịt. “Không thịt! Không động vật!” Khi tôi mang mấy chiếc pizza xuống, cô lại đi về phía góc phòng để xin phép Ba Vị Chủ Nhân của mình - “Jube, Domine benedicere” - và không chịu ăn cho đến khi họ cho phép. Cô ngồi vắt vẻo giữa đống đá vụn và ngốn ngấu như một con quái thú, hầu như chẳng để ý gì đến sự có mặt của tôi. Một vệt pho mát chảy dài từ miệng cho tới ngực trái cô, và tôi thực sự muốn lướt tay như một lính đặc công pho mát để cào cấu bộ ngực đáng yêu của cô. Ánh nến nhảy nhót trên làn da trắng như trứng gà bóc, làm ánh lên những dòng mồ hôi chảy xuống những hạt bụi đá phủ đầy đôi cánh thiên thần trên lưng cô. Sự hòa quyện của những hình xăm và vẻ xuất thần của cô làm cô nửa giống nữ tu thông thái Hildergard von Bingen, nửa chẳng khác gì mafia Nhật. Cái đài của cô hàng giờ qua chơi đủ mọi thể loại, từ những tác phẩm của Carl Orff; Symphonie Fantastique của Berlioz, tổ khúc giao hưởng thứ chín của Beethoven; Poe (ca sĩ Poe, chứ không phải nhà văn Allan Poe đâu nhé); album đầu tay của Milla Jovovich; toàn bộ album của The Doors; nhạc của Robert Johnson; Cheap Thrills của Big Brothers và ban Holding Company (chơi tới bốn lần một lúc); và tuyển tập ca khúc của Bessie Smith, Howlin’ Wolf và Son House. Thời gian cứ thế trôi, nhạc cứ thế to lên và càng lúc cô càng lựa chọn những giọng ca trầm đục hơn. Dù tai tôi chẳng còn thính nhạy, cuối cùng tôi cũng phải thoái lui về cái tháp chuông nhà thờ với đôi bông bịt tai. Khi xong việc, cô hầu như không đứng nổi. Con quái vật vừa được hoàn thiện là một cái đầu người có sừng, đặt trên thân một con rồng đang quỳ, thế rồi cô hôn đôi môi lạnh lẽo của nó trước khi bò lên cầu thang rồi đổ ập xuống giường, người vẫn đầy bụi và mồ hôi. “Ồ, rõ ràng khủng hoảng tinh thần là bệnh thường gặp của các nghệ sĩ,” Gregor vừa nói qua bàn vừa rót một ly bourbon ông ta mới mua cho chúng tôi. Mặt trời đang lặn dần và chúng tôi ngồi trên hiên sau; Marianne Engel vẫn đang ngủ cho lại sức. Sau khi đã nhắc đi nhắc lại rằng ông ta không thể tiết lộ bất kỳ điều gì cụ thể về việc điều trị trước đây của cô, ông ta cũng nói mình rất vui nếu được trả lời những câu hỏi chung chung. “Sau khi đọc hết chỗ sách ấy,” tôi nói, “tôi đã rút ra một kết luận rằng những triệu chứng của cô ấy có vẻ giống của người bị bệnh tâm thần phân liệt hơn là của người bị khủng hoảng tinh thần.” “Ừm. Có lẽ. Có thể cả hai ấy.” Gregor trả lời, “hoặc không cái nào cả. Tôi chẳng biết được. Có lẽ đó là hội chứng rối loạn thần kinh chức năng. Cô ấy có bao giờ nói vì sao mình phải làm liên tục đến mức thế chưa?” “Cô ấy nghĩ mình đang làm theo những chỉ dẫn của Chúa. Cô ấy nghĩ cô ấy đang trao những trái tim còn thừa trong ngực mình cho chúng.” “Ồ, thật là kỳ lạ.” Gregor nhấp môi. “Ê, cái này hay đấy. Nó cho tôi hiểu thêm về tình trạng của Marianne.” “Không phải việc của ông là biết những thứ này sao?” Gregor nhún vai. “Những điều tôi không biết có thể chất đầy cả một cái nhà kho to đùng. Cô ấy có uống thuốc không?” “Không. Cô ấy ghét thuốc còn hơn ghét bác sĩ ấy. Không có ý gì đâu nhé.” Tôi hỏi xem liệu cô có thể bị ép uống thuốc bởi một quy định gì đó không. Gregor giải thích chỉ người giám hộ hợp pháp mới có thể sử dụng biện pháp đó. Tôi gợi ý Jack, người tôi mới phát hiện vừa là bảo hộ vừa là quản lý cho cô, nhưng Gregor giải thích người bảo hộ thì chỉ có quyền hạn với tài sản của cô, chứ không có quyền gì với các quyết định tự thân của cô cả. Không ai có thể bắt một bệnh nhân phải vào bệnh viện trừ quan tòa, Gregor nói, và cũng chỉ được trong vài ngày thôi. Tôi cắt ngang là tôi không hề muốn cô phải vào viện, tôi chỉ muốn cô dùng thuốc thôi. Gregor nói rằng tất cả những gì tôi có thể làm là nhã nhặn đề nghị cô thôi. Rồi ông ta hỏi tôi xem liệu chúng tôi có thể ngừng nói về bệnh trạng của cô được không; dù ông ta thấy mình vẫn chưa xâm phạm quyền bảo mật của bệnh nhân, nhưng rõ ràng ông ta lo ngại mình đang tiến quá gần lằn ranh đó. Chúng tôi đã bỏ dở chủ đề đó như thế. Tôi hỏi ông ta về Sayuri và ông ta kể với tôi rằng hai người họ ngày càng gặp nhau nhiều hơn. Mới có một cuộc hẹn tối qua, nói thật là thế. Rồi ông ta phản pháo rằng sao tôi cứ tọc mạch chuyện tình cảm của ông ta, trong khi chẳng bao giờ hé lộ chuyện riêng. Tôi cười xòa - Chuyện tình cảm nào chứ? - nhưng ông ta đã trả đòn. “Anh chẳng lừa được ai đâu.” Một khoảng lặng xen vào cuộc chuyện trò, nhưng đó là một khoảng lặng giàu ý nghĩa. Gregor lại uống một ngụm bourbon nữa và chúng tôi cùng nhau nhìn về phía mặt trời lặn. “Một đêm đẹp nhỉ,” ông ta nói. “Cô ấy chạm vào tôi,” tôi bật ra. Điều này làm Gregor bất ngờ. “Anh nói thế là ý gì?” “Lần đầu tiên khi cô ấy tắm cho tôi và nhìn thấy… háng của tôi” - Gregor, nhờ vị trí của ông ta ở bệnh viện, đã biết về mất mát của tôi - “cô ấy kiểm tra nó. Lướt những ngón tay của mình lên khắp chỗ sẹo.” “Cô ấy đã nói gì?” “Rằng cơ thể tôi có thế nào cũng không ảnh hưởng gì đến cô ấy.” “Anh có tin cô ấy không?” ông ta hỏi. “Tôi không biết.” Tôi lắc lắc chỗ rượu bourbon trong ly của mình. “Dĩ nhiên là có ảnh hưởng chứ. Nó có còn nữa đâu.” Gregor chau mày. “Tôi thất vọng đấy.” Giờ ông ta lại làm tôi bất ngờ. “Vì cái gì chứ?” “Câu trả lời của anh,” ông ta trả lời. “Vì tôi tin cô ấy, và tôi nghĩ anh cũng nên thế.” Lại một khoảng lặng nữa trong cuộc đối thoại, lần này người phá vỡ lại là tôi. “Đêm đẹp nhỉ?” Ông ta gật đầu. Tôi đã không nói với ông ta rằng nhãn rượu bourbon Gregor mua cùng loại với chai rượu đã đổ lên đùi tôi, lấy mất cái vật đang là chủ đề nóng hổi hiện tại. Gregor mang rượu đến làm quà là có ý tốt, thế nên ích lợi gì đâu nếu làm ông ta phải nghĩ ngợi vì chuyện đó cơ chứ? Tôi đã tưởng tượng cốc rượu bourbon đó sẽ chất đầy vị của những ký ức tồi tệ; ngược lại, nó chỉ có vị rượu ngon mà thôi. Và uống thật tuyệt: Marianne Engel cứ hay bám lấy cái suy nghĩ kỳ cục là morphine và bia rượu mà trộn với nhau thì thật tệ, nhưng tôi ngờ rằng Gregor đang cố cho tôi thấy con người hoang dại của ông ta bằng cách cho phép tôi làm một hai cốc. Vài ngày sau, khi cô đã hồi phục, tôi hỏi Marianne Engel tại sao cô nghe đài trong lúc tạc tượng. Cô nhắc tôi nhớ rằng thời gian tạc càng lâu thì những gargoyle càng gào thét dữ dội hơn, và bật nhạc to là cách hiệu quả để át đi tiếng thét của chúng. Cô giải thích rằng khi cô đẽo xuyên qua những lớp đá thừa để tìm hình dạng thật sự của gargoyle, cách duy nhất để biết cô đã chạm đến lớp ngoài của bức tượng hay chưa là cứ đẽo thẳng vào nó. Nếu gargoyle gào thét trong đau đớn. Marianne Engel sẽ biết là mình đã đẽo đủ sâu. Tôi hỏi liệu cô có sợ mình sẽ làm át cả những chỉ dẫn quan trọng của Chúa không. Cô cười trấn an tôi rằng trong cả thế giới này, chẳng đâu có được thứ âm nhạc đủ lớn để át những tiếng chỉ dẫn của Người cả. Vấn đề chủ yếu mà các bệnh nhân bỏng phàn nàn là phía bảo hiểm chỉ chi trả độc có một bộ quần áo tạo áp suất, bất chấp việc những bộ áo quần này tốn hàng ngàn đô la và phải mặc lên người suốt hai mươi ba tiếng mỗi ngày. Thời gian còn lại, người bệnh sẽ được tắm rửa, và nếu người chăm sóc đang bận tắm cho người bệnh rồi, thì làm sao người ấy có thể cùng lúc giặt cái bộ áo áp suất đó chứ? Đây là lý do tại sao bắt buộc phải có ít nhất hai bộ. “Nhưng giá cả!” những công ty bảo hiểm khóc thét lên khi họ từ chối chi trả. Hơn nữa, dù có được giữ gìn cẩn thận đến đâu chăng nữa thì những chất liệu tạo áp suất này cũng chỉ bền được độ ba tháng mà thôi. Những công ty bảo hiểm không thành vấn đề với tôi, vì mọi chi phí của tôi đã được Marianne Engel bao hết rồi. Nhưng tôi vẫn phải băn khoăn về va li tiền dưới gầm chiếc giường xương, làm sao cô có thể cáng đáng nổi tất cả những thứ này chứ? Cô luôn luôn trấn an tôi rằng khả năng tạc tượng tuyệt vời của cô đã nhận được những phần thưởng xứng đáng và rằng cô cũng chẳng muốn tiêu tiền vào việc gì cả. Tôi vẫn không thấy chắc chắn lắm, nhưng nếu cố tranh cãi thì tôi sẽ ra sao đây? Những vết thương của tôi sẽ không được chữa trị ư? Bộ quần áo và mặt nạ tạo áp suất của tôi cuối cùng cũng hoàn thành vào giữa tháng Ba. Khi Sayuri trao chúng cho tôi, tôi thấy cảm kích tức thì trước tâm sức của tất cả mọi người. Chiếc mặt nạ đã được đánh giấy ráp để có thể nhẹ nhàng bám lấy khuôn mặt tôi. Sayuri cũng cho tôi biết đám sinh viên thực tập đã nghiên cứu kỹ lưỡng những phần sẹo lồi trên mặt tôi, theo đó mà chuẩn bị tấm mặt nạ nhựa tương ứng. “Anh cũng cần dùng cả cái này nữa,” cô lôi một thiết bị kỳ cục có gắn lò xo ra. Tình trạng bỏng của khuôn mặt đã làm tôi trở nên cực kỳ nhạy cảm với khóe môi - mô sẹo quanh mép tôi - những phần ấy, nếu không được chú ý cẩn thận, sẽ làm tôi ăn nói khó khăn trong tương lai. Sau khi đặt cái banh miệng vết thương vào miệng theo đúng quy cách, tôi bắt đầu kéo mặt nạ lên mặt. Chiếc mặt nạ phải ở nguyên vị trí ấy mọi lúc mọi nơi, chỉ trừ khi tắm rửa và chăm sóc da, thậm chí cả lúc tôi ngủ. Tôi hỏi Marianne Engel trông tôi thế nào (trong lúc đó tôi phát hiện ra cái banh miệng vết thương đã làm chất giọng méo mó của tôi trở nên tệ hơn) và cô đáp tôi trông giống như một người đàn ông sẽ sống rất thọ. Tôi soi gương. Như thể một địa đồ sẹo chằng chịt trên khuôn mặt tôi vẫn chưa đủ, giờ tôi còn phải chịu cảnh địa đồ ấy bị chiếc mặt nạ nhựa trong đè dẹp lép. Vùng da bình thường đỏ tấy giờ đã chuyển trắng bệch dưới áp suất và cái banh miệng vết thương đã khiến miệng tôi vều ra thành một nụ cười gằn đáng tởm. Mọi khiếm khuyết đều được phóng đại tối đa, và tôi trông chẳng khác nào thằng con hoang của bác sĩ ăn thịt người Hannibal Lecter và Ma nữ trong nhà hát Opera. Sayuri trấn an tôi rằng phản ứng tiêu cực lúc đầu là rất bình thường, vì tất cả những bệnh nhân bỏng - gồm cả tôi nữa, dù đã được thông báo rõ ràng - vẫn cứ đinh ninh chiếc mặt nạ sẽ giúp họ che giấu khuôn mặt mình. Nhưng thực tế thì ngược lại. Nó sẽ không che chắn cho tôi và giúp tôi đối mặt với mọi thứ; nó là cái đĩa thí nghiệm dưới kính hiển vi của thế giới. Sayuri giải thích các trình tự chuẩn của việc mặc bộ quần áo tạo áp suất và chỉ cho Marianne Engel cách buộc các sợi dây lại với nhau. Trong khi họ đang rối rít với các chi tiết kỹ thuật, tôi một mình tận hưởng cảm giác mới lạ, như trượt vào nắm tay siết chặt của một vị thần cuồng nộ nào đó. Đó chỉ là vải thôi mà, tôi tự nhủ. Đó không phải là chính bản thân mình. Dù sao tôi vẫn thấy lạnh xương sống. DỄ CHỊU THẬT ĐẤY NHỈ? NHƯ THỂ NGƯƠI ĐANG BỊ CHÔN SỐNG VẬY. Con rắn sung sướng cười nhạo tôi. TA ĐANG TỚI ĐÂY. Tôi thấy Marianne Engel đang chờ mình ở phòng ăn, mặc một bộ kimono lụa màu xanh ngọc. Họa tiết thêu cảnh, đứng dưới cây anh đào nở hoa gần dòng sông cá chép tung tăng bơi lội, mũi thêu trau chuốt. Trên nền trời đầy sao của bộ áo ấy, ánh trăng tròn chiếu sáng đôi tình nhân như thể đó không chỉ là nguồn sáng mà còn là người bảo vệ tình yêu của họ nữa. Cô hỏi tôi đã sẵn sàng ăn chưa. Tôi trả lời rằng rồi. Tôi khập khiễng bước ra, phát hiện thực đơn hôm nay là món Nhật. “So desu ne.(26) Anh giỏi quan sát thật,” cô khẽ cúi xuống nói. Vẻ sóng sánh trên bộ kimono của cô tan vào chiếc khăn xanh da trời thắt ngang eo, được kết thành một cái nơ obi sau lưng. “Tôi đang đọc Makura no soushi.” “Ừm, tôi đã thấy nó trên giá sách của cô. Gối-cái gì đó, có phải không?” “Sách gối đầu giường của Sei Shounagon. Một tác phẩm văn học rất nổi tiếng của Nhật Bản, viết vào thế kỷ thứ mười, và cũng là cuốn tiểu thuyết đầu tiên trên thế giới. Hay ít nhất cũng là những gì họ nói, ai mà biết chắc được? Tôi đang tính làm gì đó với nó. Anh sẽ phải ngạc nhiên khi biết rằng rất nhiều tác phẩm vĩ đại của Nhật Bản không có bản dịch tiếng Latin chuẩn xác.” “Không, tôi chẳng ngạc nhiên đâu.” Marianne Engel nhanh nhẹn bước những bước ngắn vào trong bếp, cô thậm chí còn đi cả geta, guốc mộc truyền thống của Nhật. Cô trở lại với một khay sushi đầy màu sắc: những lát cá trắng (và cam và bạc) nằm gọn trên lớp cơm nắm; những hạt trứng cá đỏ rải trên lớp tảo biển; tôm hùm cuộn vào nhau; cứ như đang ôm nhau thắm thiết trong những giây phút cuối cùng trên trái đất ấy. Có cả inarizushi, cơm nắm được bọc trong lát đậu phụ vàng óng ngọt ngào. Gyoza, sủi cảo làm từ thịt bò hoặc thịt lợn, đẫm nước xốt đen tuyền cay nồng. Yakitori, những dải thịt gà và thịt bò nướng trên xiên gỗ. Rồi thì onigiri, cơm nắm hình tam giác gói trong tảo biển; mỗi nắm cơm, cô giải thích, lại có nhân khác nhau, rất ngon: mận chín, trứng cá, gà, cá ngừ hay tôm hùm. Chúng tôi lau tay với o-shibori, một loại khăn ướt, rồi cô đập hai lòng bàn tay vào nhau. Cô nói, “Itadakimas!” (câu mời trước khi ăn của người Nhật), trước khi khấn thêm bài kinh bằng tiếng Latin quen thuộc. Cô chỉ tôi cách khuấy xúp miso đúng kiểu và tuyên bố rằng ăn mì ramen thì phải xì xụïp to vào vì nó không chỉ làm mì nguội mà còn làm mì có vẻ ngon hơn nữa ấy. Dù cô uống rượu sake, cô cứ khăng khăng bắt tôi uống mỗi trà ô long; cô vẫn không bỏ được cái suy nghĩ là rượu và morphine không được uống cùng nhau. Cứ khi nào cốc của tôi vơi quá nửa, cô lại trang trọng nghiêng đầu đổ đầy cốc. Khi tôi cắm đôi đũa vào bát cơm để chúng có thể đứng thẳng như hai cái cây mọc trên đỉnh núi tuyết, cô ngay lập tức lôi chúng ra. “Như thế là không tôn trọng người chết.” Khi cuối cùng cũng ăn xong, cô sung sướng xoa hai tay vào nhau. “Tối nay tôi sẽ kể cho anh nghe câu chuyện về một người phụ nữ khác cũng tên là Sei, dù người này phải sinh sau cuốn Sách gối đầu giường hàng trăm năm cơ.” Chú thích
(26) Phải đấy (tiếng Nhật).
(26) Phải đấy (tiếng Nhật).