Chương 15

    
ừ trên cao, tôi có thể quan sát chung quanh. Tôi thấy Frank Penrose và John Rashleigh đang băng qua hoa viên, đi tới những cánh đồng ven bãi, mỗi người đi một ngã. Tôi chỉ sợ đứa bé bị chết đuối và đến khi thủy triều lên, người ta sẽ thấy xác nó trôi lềnh bềnh trên nước, dưới chân núi đá Polkerris. Chiếc ghe đã biến mất và có lẽ giờ này đang đi về hướng tây.
Matty đẩy xe tôi lăn qua lại ven đường đắp cao. Xung quanh không một bóng người. Chỉ có đàn bò đang gặm cỏ xa xa trên đồi và ngọn gió hiu hiu làm nhấp nhô đồng lúa tận chân trời.
Tôi sai Matty đi về lấy áo măng-tô cho tôi. Khi trở lại, cô ta cho hay rằng nhiều người tỵ nạn đang ở đầy ngoài hoa viên, phụ nữ, trẻ con, người già, tất cả đều đeo ba-lô trên lưng và đến xin tá túc. Dường như Truro đã bị cắt và quân phiến loạn đang xâm nhập khắp nơi. Chị Mary không biết phải làm sao vì nhiều người tỵ nạn đã tự ý đốt lửa ở sân nuôi thỏ và chuẩn bị chỗ ngủ đêm.
Khi nãy, lúc ra khỏi nhà, một cỗ xe kéo bởi bốn con ngựa dừng lại trên sân. Trong xe có một phụ nữ và mấy bé gái đến xin tá túc. Tôi nghe người đánh xe nói rằng họ đã đi trên đường suốt chín tiếng.
Tôi thầm cảm ơn Chúa đã soi sáng cho chúng tôi ở lại Menabilly và không hành động
Điên rồ như những người bất hạnh này.
- Em hãy trở lại nhà, Matty – tôi nói – Xem có giúp ích gì được cho chị Mary không. Các người hầu đều mất bình tĩnh cả rồi.
Matty rời khỏi chưa đầy mười phút, tôi gặp đằng xa có hai người đi về hướng tôi, băng qua cánh đồng. Một trong hai người thấy tôi đang ở trên đường đê, giơ tay vẫy, còn tay kia vẫn bám lấy áo người bên cạnh.
Chính là John Rashleigh đang đi với Dick.
Khi họ đến gần, tôi thấy quần áo đứa bé ướt sũng, mặt và bàn tay trầy trụa, rướm máu. Nó nhìn tôi vẻ thách thức.
- Cháu không đi – nó nói – Không ai ép cháu đi được. John Rashleigh gật đầu, nhún vai nói với vẻ nhịn nhục:
- Chúng ta không thể làm gì khác, thưa dì. Phải giữ nó ở đây. Bãi biển đã bị địch chiếm và cháu đã ra hiệu cho ghe ra đi, mang theo viên giám hộ Ashley. Cháu đã tìm thấy Dick ở lưng chừng núi đá, cách bãi biển một dặm. Nó đã ngâm mình dưới nước đến tận ngực suốt trong ba giờ. Lạy Chúa, ngài Richard sẽ nói gì khi biết được sự việc này?
- Điều ấy không còn quan trọng – tôi nói – Dì chịu trách nhiệm về việc này. Bây giờ thì
Dick phải đi theo dì về phòng để thay quần áo.
Con đường nổi này, như tôi đã mô tả, được đắp đất cao, và từ đó có thể nhìn thấy hướng đông cũng như hướng tây. Vào lúc đó, không biết tại sao tôi quay nhìn về hướng con đường ra biển. Tôi thấy một kỵ sĩ đang phóng ngựa một mình bên trên thung lũng. Những người khác cỡi ngựa chạy tới hợp thành một đoàn và đi theo người kỵ sĩ đầu tiên, tiến vào con đường nối liền Menabilly với bãi biển, John cũng nhìn thấy họ. Chúng tôi im lặng nhìn nhau, còn Dick cúi mặt, hàm răng run lập cập. Nhanh như chớp, tôi đã có quyết định:
- Cháu có giữ chìa khóa của cha cháu không? – tôi hỏi John.
- Thưa có.
- Tất cả chứ?
- Vâng, tất cả.
- Mang theo người?
- Vâng.
- Vậy thì, hãy mở cửa ngôi nhà nghỉ mát ngay.
Nó vâng lời, không hề hỏi lại tôi một câu. Cám ơn Chúa, cha nó đã dạy cho biết tuân thủ kỷ luật. Một lúc sau, chúng tôi đã đứng trước cánh cửa mở.
- Hãy lấy cái chiếu dưới bàn này lên – tôi nói – và nhấc tấm đan lên.
John sững sốt nhìn tôi và vâng lời, không nói một câu. Cầu thang bí mật hiện ra trước mắt.
- John, cháu đừng hỏi dì chi hết – tôi nói – Chúng ta không được phép mất thì giờ. Một con đường ngầm nối cầu thang này với ngôi nhà chúng ta đang ở. Cháu và Dick sẽ đi tới một căn phòng nhỏ, một xà lim thì đúng hơn, ở đó lại có một cầu thang khác dẫn lên phòng cạnh phòng dì. Nhưng cháu chớ có mở cửa nếu không có hiệu lệnh của dì.
- Căn phòng cạnh dì? – John nói – Phòng của bác cháu?
- Phải – tôi đáp – Hãy đưa chìa khóa cho dì. Nhanh lên.
Chúng tôi không phải bận tâm về Dick nữa. Nó đã cảm thấy nguy hiểm gần kề. Nó không tìm cách chạy trốn khỏi chúng tôi nữa. Nó chui ngay xuống hầm như một con thỏ nhỏ rút vào hang. Tôi nhìn John đặt tấm chiếu lên trên tấm đan, bước xuống sau Dick rồi đậy tấm đan lại chỗ cũ và cả hai biến mất. Tôi khóa cửa nhà nghỉ mát, cất chìa khóa vào túi áo. Nhìn về hướng đông, không còn thấy ai nữa. Có lẽ toán lính đang ở bên dưới. Có lẽ họ đang cho ngựa uống nước ở cối xay và sẽ có mặt ở Menabilly trong mười phút nữa. Mồ hôi đần đìa trên trán lạnh buốt của tôi, trong khi chờ Matty đến.
Rất xa, ở gần đài hải đăng, tôi thấy Frank Penrose vẫn đang loay hoay tìm kiếm Dick, trong khi đó, trên đồng cỏ, một cô gái ở nông trại đang gọi đàn bò trở về, không lo lắng gì đến toán lính đang lên đồi.
Vào lúc đó, Joan, con đỡ đầu của tôi chạy đến đưa tôi về. Khuôn mặt xinh đẹp của nó tràn ngập lo âu, mái tóc hiền dịu của nó tung bay trong gió.
- Chúng đến – Joan nói – Cháu đã thấy chúng từ cửa sổ. Chúng rất đông, tất cả đều đi ngựa và đang băng qua hoa viên.
Một tiếng nấc cắt ngang lời Joan.
- Cháu kiếm anh John ở khắp nơi, nhưng không thấy anh ấy đâu. Dì Honor ơi! Còn bọn trẻ! Chúng nó sẽ ra sao?
Tôi nghe những tiếng hò hét phía bên kia hoa viên và một tiếng vó ngựa phi dồn dập. Không phải là một toán quân, mà là một trung đoàn vì tiếng vó ngựa kéo dài liên tục trong âm thanh lanh lảnh của kèn đồng.
Cả nhà đang chờ chúng tôi. Tất cả đều nép sau các cửa sổ hành lang. Alice, Mary, gia đình Sawle, gia đình Sparke và hai đứa bé lạ mặt. Tôi nhớ lại khi nãy có người đàn bà đến xin tỵ nạn. Chợt tôi nghe một giọng nói khác:
- Nếu là hầu tước Robartes, tôi có thể đảm bảo với quý vị rằng không có điều gì xấu xảy ra đâu. Tôi quên biết ngài hầu tước từ lâu và có thể nói với ông ấy một tiếng.
- Cháu quên báo cho dì biết – Joan thì thầm – Người đàn bà ấy đã tới đây tỵ nạn cùng với hai bé gái, cách đây khoảng một giờ. Đường đi đã bị cắt đứt và bà ta không thể đi tiếp tới St Blazey. Đó là bà Gartred ở Orley Court.
Người đàn bà quay lại. Cũng vẫn cặp mắt đó, nhỏ thó, mí nặng trĩu, mái tóc vàng, vàng hơn xưa nhiều. Gartred giật mình khi thấy tôi, tỏ vẻ khó chịu trong chốc lát, đoạn mỉm cười, nụ cười thâm hiểm và giả dối mà tôi không quên. Gartred chìa tay ra cho tôi bắt.
- Thật là thú vị, Honor! Chị Mary không cho tôi biết rằng cô cũng có mặt ở Menabilly này.
Tôi làm như không thấy bàn tay giơ ra, bởi vì một kẻ tật nguyền như tôi ngồi liệt trên ghế có thể tự cho phép mình có một vài cử chỉ bất nhã theo ý muốn.
Tôi nhìn lại cô ta, theo cách của tôi, lòng vẫn còn ngờ vực. Tiếng kèn đồng vang lên. Bà Sawle đáng thương quỳ gối xuống, bọn kẻ khóc nho nhỏ, chỉ còn chị Mary của tôi thì ôm chầm lấy Joan và Alice. Chỉ có một mình Gartred vẫn điềm nhiên, bàn tay mân mê thắt lưng.
- Cứ cầu nguyện đi, bà Sawle – tôi nói – Những con diều hâu đang hội tụ với nhau đấy.