ừng đông vừa ló dạng, tôi đánh thức Dick đang tựa vào vai tôi ngủ như một bé thơ. Nó chớp mắt và tỉnh táo nhanh. Tôi ra lệnh cho nó thắp đền lên và trở xuống đường hầm. Tôi chỉ sợ John ngất đi vì thiếu dưỡng khí. Thể chất John không được khỏe lắm và mọi điều có thể xảy ra. Suốt mười lăm năm bại liệt, chưa bao giờ tôi thèm xử dụng đôi chân như lúc này, nhưng đành bất lực. Một lát sau, Dick trở lại, mặt tái xanh hơn trong ánh sáng màu xám của bình minh. - Anh ấy đã tỉnh – Dick nói – nhưng bệnh nặng lắm. Vậy là John còn sống. Tôi thầm cảm ơn Chúa. Nhưng, qua lời mô tả của Dick, tôi hiểu điều gì đã xảy ra. Chứng sốt rét từng hành hạ John từ lúc nhỏ, bây giờ lại tấn công nó dữ dội, đó là điều tất nhiên sau mười giờ ngồi trong hầm tối. Tôi quyết định thật nhanh. Tôi lăn xe đến sát cửa ăn thông với phòng của Joan và khẽ gọi Matty. Joan còn đang ngái ngủ lên tiếng ú ớ trong khi một đứa con của nó cựa quậy. - Không có gì đâu – tôi nói – Tôi muốn gặp Matty. Một hồi sau, Matty đã rời khỏi căn phòng nhỏ vào phòng tôi, mũ len còn trùm trên đầu, chưa kịp càu nhàu vì bị đánh thức dậy quá sớm, thì tôi để ngón tay lên môi. Tình thế quá nghiêm trọng khiến tôi thấy không cần thiết giữ lời hứa với anh rể tôi nữa. Không có Matty, tôi không thể làm gì hết. Khi nhìn thấy Dick, cô ta tròn xoe mắt lên, ngạc nhiên. - Em yêu ta chứ, Matty – tôi nói – ta sắp yêu cầu em chứng tỏ tình thương ấy đối với ta một lần nữa. Tính mạng của đứa bé này đang ở trong tay chúng ta. Matty trả lời tôi bằng cái gật đầu. - Dick và John đã lẩn trốn quân giặc từ tối hôm qua. Bên trong bức tường có một cái thang dẫn xuống một xà lim nhỏ. John bị bệnh nặng. Em hãy đi cứu John và mang cậu ấy về đây. Dick sẽ chỉ đường cho em. Dick vén bức trướng lên và lần đầu tiên tôi hiểu lối đi bí mật đã được vận hành như thế nào. Một khối đá với một diện tích hơn một mét vuông xoay quanh một trục, chuyển động nhờ cái đòn bẩy và một sợi dây thừng được kéo từ bên trong đường hầm. Cửa hầm vừa đủ cho một người bò bằng hai tay hai chân. Khối đá này khi khép lại, hợp với những khối đá khác thành một bức tường, và không ai có thể nhận ra được sự khác biệt. Đứng trong phòng này, không thể mở được cửa bí mật. Mười lăm phút sau, cả ba đã có mặt trong phòng tôi – tôi có cảm tưởng chờ hơn một giờ - và trong một khắc này, trời đang sáng dần, binh lính đi đi lại lại trên sân. John không bị mất trí nhớ như tôi lo sợ. Cám ơn Chúa, nó còn sáng suốt. Một cơn sốt nặng làm nó run rẩy toàn thân. Chỉ cần một thời gian tịnh dưỡng và được săn sóc, John sẽ hồi phục lại ngay. Sau khi hội ý với nhau, tôi quyết định không cho bất cứ một ai khác, kể cả Joan vợ nó, kể cả Mary, mẹ nó, biết được nó vào nhà bằng cách nào và cũng không cho ai biết Dick vẫn đang ở với chúng tôi. John sẽ phải bịa ra một câu chuyện, nói rằng đã tìm ra Dick và đưa Dick lên ghe, sau đó nó băng qua cánh đồng để trở về nhà, thì gặp lính đến, nên lẩn trốn bên ngoài đến khuya. Vì bị sốt nặng, nó đã quyết định bằng giá nào cũng trở về nhà và đã leo tường bằng cách bám vào ống nước bằng chì và bám vào những dây leo, để lên đến tận cửa sổ phòng của cha nó. Để cho phù hợp với lời nói, John phải vào phòng cha mẹ nó ngay, đánh thức Mary, kế mẫu nó dậy và kể cho bà ta nghe câu chuyện bịa đặt đó. Làm sao phải giải quyết ngay việc của John trước khi cả nhà thức dậy. Không phải một chuyện dễ, bởi vì vợ John đang ngủ ở phòng cạnh bên, và John phải băng qua đó để đến cánh nam của ngôi nhà. Nếu ra ngoài hành lang, nó có thể gặp phải một người hầu hay người lính nào đó. Matty đi trước mở đường. Cũng may, Joan và bọn trẻ không động đậy nữa. John lầm lũi theo sau Matty, vừa run lên vì sốt. Cảnh tượng khiến tôi nhớ lại trò chơi cút bắt khi còn nhỏ ở Lanrest. Nhưng lần này, cuộc chơi khá nguy hiểm làm chúng tôi đều toát mồ hôi. Matty trở lại báo tin John đã vào phòng cha mẹ nó một cách an toàn. Chúng tôi đã vượt qua phần đầu cuộc chơi. Bây giờ còn lại Dick, tôi phải tỏ ra cương quyết và nghiêmkhắc khác với thường ngày. Tôi chưa nói hết câu, Dick đã òa lên khóc. Nó thà chết còn hơn. Tôi hết sức bối rối, cả nhà bắt đầu thức dậy và đứa trẻ ở phòng bên đã bắt đầu lên tiếng. - Thôi được – tôi nói – Hãy mở cửa, Matty. Gọi lính đến đây. Nói với họ rằng con của Richard Grenvile đang ở trong phòng này. Kiếm của chúng rất sắc, người chết sẽ không đau lâu. Chúa hiểu lòng tôi nào muốn khủng bố tinh thần đứa bé này. Nhưng đó là cơ may duy nhất để cứu vãn tình hình. Nghe nói đến kiếm, đến máu đủ làm nó xanh mặt. Dick quay sang nhìn tôi bằng đôi mắt tuyệt vọng. - Thôi được. Cháu sẽ làm những điều dì muốn. Chính đôi mắt tuyệt vọng đó ám ảnh tôi luôn luôn cho đến chết. Tôi nói với Matty cuốn nệm và mền trên giường tôi, và bỏ vào đường hầm cho Dick. - Khi nào không có gì nguy hiểm, dì sẽ gọi cháu – tôi trấn an nó. - Nhưng làm thế nào cháu nghe được tiếng dì khi cửa hầm đã đóng? Tình trạng khó xử này, một lần nữa lại được đặt ra, không có thuốc chữa. Tôi cảm thấy nản lòng đến muốn phát khóc nếu không có Matty đưa ra ý kiến: - Nếu Dick đừng đóng chặt cửa hầm, nhưng để hờ một chút, khi cô Honor gọi, có thể nó sẽ nghe. Chúng tôi làm theo lời Matty. Chúng tôi nhận thấy rằng khi cửa hờ, chỉ cần tôi gõ xuống sàn bằng một cây gậy, Dick cũng nghe. Tôi dặn dò nó khi nghe gõ ba tiếng có nghĩa là nguy hiểm, phải đóng chặt cửa lại ngay. Khi tháp chuông đồng hồ điểm sáu tiếng, Dick đã trở vô đường hầm với nệm, mền và một khúc bánh mì do Matty khéo léo kiếm được. Mỗi lần nghĩ đến những ngày đầy lo âu này, tôi tự hỏi làm sao mà chịu đựng được nếu không có ơn Chúa. Tôi phải gìn giữ đứa bé không bị rơi vào tay quân thù, nhưng phải giấu mọi người trong nhà, kể cả Mary, Alice và Joan thường đến thăm tôi để khích lệ nhau, nhưng sự hiện diện của họ chỉ làm tôi thêm lo lắng. Tôi sẽ làm gì được nếu không có Matty? Matty thường đứng gác cửa và khi có Dick trong phòng, cô ta xua đuổi mọi người khách, nói rằng tôi đang mệt. Phần lớn thời gian trong ngày, đứa bé đáng thương ra khỏi đường hầm và ở trong phòng với tôi. Cũng may, vì lý do tật nguyền, tôi có quyền có những ngày “trở trời”, “khó chịu” và tôi yêu cầu được yên thân một mình không ai làm phiền đến tôi. Chuyện bịa đặt của John cũng được tin mà không bị nghi ngờ, vì trước mắt nó đang sốt thật sự. Nó được phép nằm dưỡng bệnh trong phòng cha mẹ nó, mà không bị canh giữ. Sau đó, nó phải chịu một cuộc hỏi cung rất khắc khe do chính hầu tước Robartes tiến hành. Và, cảm ơn Chúa, John không khai hớ hênh điều gì cả. Vả lại Robartes còn bận tâm đến nhiều mối lo khác thay vì cứ thắc mắc đến số phận đứa con của Richard Grenvile. Tôi còn nhớ câu hỏi của Matty đặt ra vào ngày đầu tiên, thứ sáu, 2 tháng tám. - Thưa cô, bọn chúng sẽ ở đây trong bao lâu? Khi nào quân đội của đức Vua mới đến giải cứu cho chúng ta? Lúc ấy, nghĩ đến Richard, đến lực lượng của đức Vua vào Launceston theo tin đồn, tôi trả lời là khoảng bốn ngày. Tôi đã lầm. Quân phiến loạn làm chủ Menabilly trong bốn tuần lễ. Đã mười năm trôi qua sau biến cố tháng tám 1644 này, nhưng mỗi ngày trong tháng bất hạnh đó được khắc đậm nét trong ký ức của tôi. Mỗi ngày một lần, chúng tôi được phép đi ra ngoài vườn trong khoảng ba mươi phút. Lấy lý do này nọ, tôi để Matty ở lại trong phòng. Alice đẩy xe cho tôi. Các cây thủy tùng đã bị bẻ gãy hết, hoa bị dẫm nát. Chúng tôi đi dạo qua lại trên lối đi bê bết bùn, dưới con mắt chế nhạo của lính gác và những sĩ quan phiến loạn đứng ở cửa sổ hành lang. Chúng tôi cảm thấy những tia nhìn cú vọ và thù địch cháy bỏng sau lưng. Tuy nhiên chúng tôi phải nén lòng chịu đựng. Không lần nào chúng tôi gặp Gartred, mặc dù hai đứa con gái của cô ta, được phép chơi ở một góc vườn biệt lập và dành riêng. Cả hai đứa đều không thừa hưởng được cái đẹp của mẹ chúng. Tóc chúng màu mâu và cứng như Antony Denys, người cha quá cố. - Cháu không biết phải nghĩ thế nào – Alice nói nhỏ vào tai tôi – Nhìn bên ngoài, cứ tưởng bà Gartred là tù nhân như chúng ta, nhưng lại không bị đối xử tàn tệ. Từ cửa sổ phòng, chính mắt cháu thấy bà ta đi dạo trong vườn kín, dưới ngôi nhà nghỉ mát, nói cười với viên hầu tước Robartes. Những người hầu nói rằng tối nào Robartes cũng dùng bữa chung với Gartred. - Bà ta hành động như bao phụ nữ thời chiến khác – tôi nói – và luôn tìm cách làm lợi cho mình. - Có phải dì muốn nói là bà ta làm việc cho phe Nghị viện – Alice hỏi. - Gartred chẳng làm lợi cho Nghị viện, lẫn đức Vua, nhưng chỉ làm lợi cho chính bản thân bà ấy – tôi trả lời – Em không nhớ câu tục ngữ “Gió chiều nào che chiều ấy” sao. Gartred sẵn sàng mỉm cười với Robartes, kể cả ngủ với hắn ta, nếu xét thấy có lợi. Hắn ta sẵn sàng tạo cơ hội cho Gartred đi khỏi nơi đây nếu muốn. - Vậy tại sao bà ấy không trở về Orley Court? - Đó là điều dì đang tìm hiểu – tôi trả lời. Và trong khi đi dạo dưới những con mắt thù địch của các sĩ quan phiến loạn gốc Luân đôn, tôi nghĩ đến bước chân trong hành lang lúc nửa đêm và bàn tay đặt trên nắm đấm cửa. Vì lý do gì Gartred muốn thám thính phòng tôi ở? Tôi phải đợi đến mười ngày sau mới tìm được câu trả lời. Ngày chủ nhật, 11 tháng tám, trời xấu. Mặt trời chiếu sáng yếu ớt trên bầu trời lốm đốm mây, còn ở phía tây nam mây giăng kín. Suốt ngày trong trại lính nhộn nhịp. Nhiều trung đoàn mới đến, mang theo những cỗ xe chở đầy lính bị thương rên rỉ kêu la thảm thiết. Lệnh lạc vang lên khắp nơi và tiếng kèn đồng vẫn không ngớt từ sáng đến chiều tối. Lần đầu tiên, khẩu phần ăn tối của chúng tôi có xúp và một mẩu bánh mì khô. Người ta không nói lý do, nhưng Matty, tay bưng mâm, đi một vòng quanh các bếp để dò la tin tức. - Hôm qua có đánh lớn ở Braddock Down. Bên phe phiến loạn, chết rất nhiều. – Matty nói nhỏ vào tai tôi. Tôi sớt một nữa phần xúp của tôi vào tô của Dick và nhìn nó ăn uống một cách ngon lành. - Đức Vua chỉ cách Lostwwithiel có ba dặm – Matty nói tiếp – Ngài đang phối hợp lực lượng với ông hoàng Maurice và cả hai đã lập tổng hành dinh ở Boconnoc. Ngài Richard với gần một ngàn quân từ Truro tiến về Bodmin. Một người lính phiến loạn đã nói với em, trong nhà bếp “Các bạn của cô mưu toan ép chúng tôi như ép trái chanh. Nhưng họ đừng hòng làm được điều đó.” - Thế em trả lời với họ ra sao? – tôi hỏi Matty. Cô ta cắt cho Dick một khúc bánh mì lớn nhất và mỉm cười nói: - Em nói rằng em sẽ cầu nguyện cho chúng nếu ngài Richard thắng thế. Sau bữa ăn trưa, tôi ngồi bên cửa sổ và nhìn những đám mây to lớn đang dâng lên. Trong chuồng gia súc, chỉ còn khoảng mười hai con bò và vài con cừu. Phần lớn đã bị thịt hết. Trong cánh đồng, không còn một bông lúa. Tất cả đã bị cắt. Cối xay đã bị phá hủy. Vườn cây ăn trái không còn một cây nào sống sót. Nếu tin tức mà Matty thu lượm được mà có thật, nếu đức Vua và Richard đang có mặt ở phía tây và phía đông Lostwithiel, trong trường hợp này bá tước Essex và mười ngàn quân phiến loạn của hắn đang lọt vào vòng vây, với con đường rút lui duy nhất là biển cả sau lưng. Việc tiếp tế lương thực hàng ngày cho một vạn quân không phải là chuyện dễ, nhất là mảnh đất họ đang chiếm đóng đã trở thành trơ trụi. Tối hôm đó, không còn tiếng cười, tiếng la trên sân, trong trại lính nữa. Chỉ còn một Đống lửa lớn soi sáng những khuôn mặt lo âu. Mưa bắt đầu rơi. Chợt tôi nghe có tiếng váy đầm sột soạt gõ cửa nhè nhẹ.