Dẫu mấy năm nay Ewa không đọc to Kinh thánh nữa, Chúa trời vẫn làm công việc tạo các thế giới của mình. Ngày nào cũng chan hoà ánh sáng, đêm và ngày tách biệt nhau, ánh sáng đã biết khúc xạ thành bảy sắc cầu vòng. Khi tạo ra muôn vậtở, Chúa Trời luôn luôn để mắt đến những món Quà của mình, những đứa trẻ ngài đã ban phát khắp trần gian, ngài gọi một số quay về, để trao cho chúng sự nhẹ nhàng của cánh bướm và sự khéo léo của vũ điệu. Ngài biết, nhảy múa là niềm vui của cuộc đời, là nỗi mừng của thế gian, là sự sung sướng của cơ thể mỗi con người – và Ngài đã ban cho chúng nỗi khát khao nhảy múa. Khát khao điều không thể có. Làm vậy là để chúng truyền nỗi khát khao sang mọi người. CÁI NÀY TỐT - Ngài nói giọng âm vang như sấm nổ, khi ngắm nhìn những đứa con của Ngài đang nhảy múa. Myszka ngồi trên nền tiền sảnh, thở phì phò, cố sức buộc quai giày. Mẹ bảo, con gái lên tám nhất thiết phải biết làm việc này. Mà việc này dễ như bỡn. Thế nhưng lúc này lại khó. Myszka thở phì phò như một chiếc đầu máy xe lửa nhỏ, từ cái miệng hé mở những dòng nước dãi chảy ra, bé đưa mép ống tay áo lên chùi theo thói quen. “ Mẹ bảo dùng khăn tay…” bé sực nhớ, thế nhưng ý nghĩ này ngay lập tức biến mất. Tất cả mọi ý nghĩ của bé đều vụt biến khỏi đầu, chúng nhanh, chúng trơn như nước đổ lá khoai, không thể nào kìm giữ được. Và thậm chí nếu Myszka có muốn nắm bắt một ý nghĩ nào đó thì chúng dễ dàng vụn nát thành nhiều mảnh như một bông hoa tàn, không còn biết làm gì được nữa. Những ý nghĩ của Myszka quay trở lại với mấy sợi dây giày kỳ cục, bướng bỉnh. Tiếc thay những ngón tay ngượng nghịu, không khéo léo, cũng không chịu vâng lệnh của cô bé, thêm nữa Myszka lại quên, phải xâu dây vào lỗ nào. Nước dãi chảy ròng ròng xuống áo lót của bé. Và lúc đó trong nhà có gì đó rền vang. “Radio…không, tivi..” – Myszka nghĩ, thế nhưng sau đó từ những loạt âm thang bé nhận ra giọng bố. Giọng bố thì bé không rành cho lắm, tuy nhiên bé luôn luôn biết phân biệt với gã jcg hạn của người đưa thư vẫn thường ấn chuông cửa và từ xa đã hô to, rành rọt: Hôm nay chỉ có báo thôi nhá! – cứ như những ngày còn lại thì có gì đó khác. Chỉ có bố mới nói nhanh, lưu loát và gắt gao, đến nỗi Myszka co rúm người lại, cảm thấy ý nghĩ của mình không bao giờ theo kịp lời bố nói. Mẹ nói du dương, nhỏ nhẹ, chậm rãi và không chút ưu phiền. Mỗi câu nói mẹ đều nhắc đi nhắc lại nhiều lần cho nên Myszka chẳng khó hiểu chút nào. Nhưng với bố thì ngược lại, nhất là bé lại ít được nghe. Bố thường chạy ngang qua bé, song im lặng. Thế nhưng lúc này giọng bố oang oang khắp nhà. Chẳng lẽ em không thấy điều này hay sao? – bố quát và giọng nói này, xoáy tròn, xuyên qua cửa và đâm vào tai Myszka như những chiếc kim nhỏ - Em không thấy đôi mắt nó nom y như mắt con vật hay sao? Em không thấy, ngay lập tức thiên hạ nhận ra nó tật nguyền hay sao? Và ngoài phố ai cũng trố mắt nhìn theo hai mẹ con em hay sao? Không phải ai cũng vậy đâu – mẹ cãi lại nhỏ nhẹ, giọng mẹ ca lên khúc nhạc mờ ảo, ưu phiền. Myszka được ban cho thứ giọng phì phò, chẳng ngân vang, nhưng bé rất nhạy cảm với nhạc điệu và âm vực khác nhau của lời nói, với đường âm thanh có trong những câu nói. Tiếng làu bàu của bé mà Ewa có cảm giác là những âm thanh ngẫu nhiên, đúng là tiếng hát. Myszka thích âm nhạc – thứ âm nhạc đôi khi vọng tới từ phòng bố và cả thứ âm nhạc bé nghe được từ radio và trên titi. Giọng người vang lên trong tai bé như những nhạc cụ có âm sắc khác nhau, bỉêu lộ tình cảm, nhịp nhàng. Và chính lúc này, giọng mẹ và giọng bố đang trình diễn hai thứ nhạc điệu khác nhau, bất hoà. Lúc nào cũng thấy nó há hốc miệng! Em không thể dạy nó ngậm miệng lại được hay sao? Rồi những động tác của nó! Cái bộ râu nước dãi này…lạy Chúa! – tiếng bố bỗng gắt gao, xoáy sâu vào hai lỗ taiMyszka như hai cái máy khoan. “Khăn tay”, Myszka sực nhớ, rút khăn ra khỏi túi áo và chùi miệng. Bé hài lòng, cất khăn vào túi. “con nhớ” bé cười toe toét. Mẹ thường xuyên khen con gái mỗi khi nó nhớ được một điều gì đó. Giọng nói của bố làm buốt đau, bé bịt hai tai lại, nhưng cũng chẳng có tác dụng gì. Giọng nói đó xuyên qua cửa phòng, rồi xuyên qua hai bàn tay nhỏ xíu của bé. Nó không bao giờ đếm được đến ba… Không thuộc các chữ cái…Không chuyện trò với những đứa trẻ khác…Nó không trả lời bất kỳ câu hỏi nào..Bởi đây không phải là một loại bệnh Down phổ biến, bình thường, mà là một loại bệnh Down ở mức độ nghiêm trọng! không điển hình! Ngay đến họ của mình nó cũng không nói nổi và ơn Chúa, đó là họ của anh. Của anh! Không, em không được gửi nó đến bất kỳ trường học nào. Con gái của anh sẽ không đến học ở trường dành cho những người ngu, còn vào trường khác thì không vào nổi! Sở giáo dục đã có thông báo rằng tất cả trẻ em… - giọng mảnh mai của mẹ ngân lên. Nó phải đi đến trại đặc biệt! có những trại như vậy. Anh đã thăm dò. Đó là những trại dành cho trẻ em khuyết tật nặng. Ở đó còn chỗ. Và em đừng có nghĩ là con bé phân biệt được học ở trường này hay trường kia! – giọng bố lửng lơ trong không trung, nhọn như chiếc bút chì màu mà mẹ đưa tận tay cho bé, thế nhưng bé chỉ biết dùng để làm rách tờ giấy khi ấn thật mạnh cây bút chì. Thảng hoặc bé cũng có vẻ như vẽ được một đường, nhưng cong ngoằn ngoèo, chạy qua tờ giấy, giống như bố, nhanh, chéo, đường ngắn nhất. Anh đã thăm dò cái gì hả? – giọng mẹ còn mảnh mai hơn khi ngân nga trả lời. Lặng im. Một sự lặng im chờ đợi, tột cùng căng thẳng, lan toả khắp nhà, xuyên qua thân người Myszka và bé không còn một chút thoải mái nào nữa sau những âm thanh như sấm nổ của giọng bố. Giọng bố tựa hồ âm thanh của một nhạc cụ mà bé không biết tên: puzon. Có khi lại như kèn đồng, giọng nói của mẹ du dương như tiếng vĩ cầm hoặc như tiếng sáo. Chẳng lẽ em đành chịu đựng cho đến hết đời những cái nhìn động lòng trắc ẩn như vậy hay sao? Chúng ta chẳng còn cơ hội có một cuộc sống bình thường hay sao? Em thích cái gì nào? – giọng bố chấn động như luồng gió gắt, ác hiểm trước cơn giông, thình lình đổi hướng – và im bặt. Em cũng chẳng biết em thích cai gì nữa – giọng mẹ ngân nga lên giai điệu buồn, âu lo. Đôi tai của Myszka không ưa thứ giọng gây chấn động, chát chúa, của bố, kể cả giọng buồn, buông trôi của mẹ. Myszka thích nghe mẹ cười như thế nào. Rất ít khi mẹ làm như vậy, nhưng những lúc như thế thì Myszka cũng cười và bắt đầu nhảy múa. Bé chỉ nhảy múa ở bên trong, trong lòng mình, mẹ không nhận ra điều này. Mẹ nói “Hay lắm, Myszka” – khi con gái biết đặt một vật nào đó vào đúng chỗ, vẽ bút chì màu qua trang giấy hoặc xếp thẳng đứng bốn thỏi xếp hình – thế nhưng mẹ chưa bao giờ nói “Myszka, con nhảy đẹp lắm…”. Và Myszka ngại rằng sẽ chẳng bao giờ mẹ khen mình như vậy. Chẳng lẽ em không thấy, nó chẳng khác gì một con nhộng hay sao? Nó không phải là đứa bé để xuất hiện hay sao? Không có bất kỳ chỗ nào để cho nó xuất hiện cả. Kể cả một ngôi trường như vậy – Myszka nghe giọng nói dữ dằn của bố. Không phải vậy! anh không biết con! Anh không hiểu con, anh không thấy thứ em nhận thấy được ở con. Con gái cảm nhận tất cả, hiểu tất cả, chỉ không biết chọn từ mà thôi – mẹ nói liền một mạch ra chiều xin lỗi. Giọng bố gây chấn động khi đáp lại. Không được làm cho người khác phát sợ vì nó. Em không biết, tại sao anh không thể cùng ăn với hai mẹ con hay sao? Em không thấy mỗi lần nhìn nó là anh lại không muốn ăn hay sao? Anh cút đi! – Myszka nghe tiếng mẹ, cũng gây chấn động bởi hàng trăm âm thanh gay gắt. Bé lại bịt hai tai lại thế nhưng giọng bố vẫn lọt vào, rõ ràng, rành mạch. Tại nó mà tình vợ chồng của chúng ta đang đổ bể. Chúng ta có thể ly dị… Em muốn thế!... – bố cười to – Em muốn thiên hạ người ta sẽ bảo là anh ruồng bỏ đứa con tật nguyền chứ gì! Sống với nó cũng dở mà bỏ nó cũng dở. Đúng như vậy đó, em biết mà – mẹ nói bằng thứ giọng khiến Myszka nhức nhối. “Chắc mẹ cũng nhức nhối vì điều gì đó” con bé nghĩ. Có những trại cứu tế đặc biệt phải đóng tiền. Chúng ta đủ khả năng chi trả. Anh nói chuyện này lần cuối cùng – bố nói tiếp. Em muốn đây là lần cuối cùng anh nói như vậy! – giọng mẹ ngân lên tựa tiếng sáo gắt gao, chát chúa, bàn tay của Myszka ấn mạnh đầu giây vào lỗ giày. Bé vụt đứng dậy sung sướng và chạy ra khỏi phòng. Đôi chân bé bỏng của bé nện lộp cộp trên nền tiền sành, thế nhưng cả bố lẫn mẹ đều không nghe thấy. Bé tạt vào phòng khách, hãnh diện giơ cao một chiếc giầy trong tay. Xâ..â…giao! – cô bé vui sướng nói lúng búng trong miệng, gí chiếc giầy vào sát mắt bố mẹ. Thế nhưng khi chạy, bé phải vung vẩy hai tay để giữ thăng bằng, thì sợi dây lại tụt ra khỏi lỗ giầy và lắc lư loạn xạ, điều chứng minh một lân nữa, Myszka không làm nổi việc gì. Tuuuu..dâââ… - cô bé mặt buồn thiu lẩm bẩm, dòng nước dãi chảy ra hoà lẫn cùng nước mắt. Con đừng khóc nữa, con làm lại một lần nữa đi. Làm dễ thôi mà – giọng mẹ ngân lên dịu dàng và điềm đạm. Một âm thanh dị thường thoát ra từ họng bố. Một thứ tiếng trống vang lên mạnh mẽ, bé không biết gọi tên, cho dù bé rất quen. Ngôi nhà đầy ắp tiếng nhạc hầu như ngày nào cùng vọng ra từ phía sau cánh cửa bọc da văn phòng của bố. Nhưng không ai chăm chú lắng nghe những tiếng nhạc đó bằng Myszka. Đối với Adam, âm nhạc là một trong những phương pháp tự cách ly mình, bức tường âm thanh làm át đi tiếng vợ và con gái. Nhất là tiếng thở mạnh, phì phò của con. Đối với Ewa, suất nhạcnghiêm túc nghe hàng ngày này la bằng chứng mách rằng chồng chị đang có mặt ở nhà – và cùng là nguyên do để chị bực mình. Ewa thích nhạc nhẹ, nhạc nhẹ làm nền cho chị làm những công việc hàng ngày. Chơi ở tiền sảnh, thỉnh thoảng Myszka nghe thấy, hai thể loại âm nhạc này va đâp vào nhua và đối chọi nhau như thế nào, giống như giọng bố và mẹ lúc này. Bỗng nhiên bố đấm mạnh tay xuống bàn rồi chạy biến. Dập cánh cửa đánh sầm. Mẹ giật nẩy mình. Còn Myszka cảm thấy mình có lỗi. Không phải chỉ vì chuyện chiếc dây giày. Nhôô…đââuu? – bỗng bé hỏi giọng run run, mắt quan sát căn phòng. Con nhộng mà bố đã nói có thể từ một chỗ nào đó bò ra bất kỳ lúc nào. Từ gầm tủ, từ phía đi văng, từ phía sau cánh cửa. Nhôô? – mẹ hỏi khi đó là từ mới. Ông… - Myszka nhắc. Ở đây không có con nhộng nào đâu – mẹ trả lời dịu dàng đoạn ôm con gái vào lòng. Myszka thở sâu, bé cảm thấy mình an toàn. Đêm nào Myszka cũng nằm mơ, thấy mình đang nhảy múa như một con bướm, bay lên cao, dù không bay cao được như những chú chim, chỉ cao hơn căn phòng nhỏ trên cùng chút xíu. “Mình bay lên chăng?” Myszka nghĩ, lấy làm ngạc nhiên. Bé không còn nhớ lần nằm chiêm bao thấy mụ phù nữa, người bất chấp những lời nói của mẹ đã đến thăm bé, chỉ có điều không ở trong nhà bếp, mà trong đêm, trên giường, để bảo rằng “Myszka ơi, đi lên trên cao…”. Mụ phù thuỷ không bao giờ quay lại nữa và có lẽ Myszka đã quên mất lời của mụ nếu không có chuyện từ ít lâu nay, hàng đêm, trong giấcchiêm bao, bé bay lên đâu đó ở trên cao. Một buổi sáng sớm nọ, khi bé mở mắt ra, nó ý thức rằng giấc chiêm bao sẽ lập lại, thế nhưng sẽ không phải là bay lên cao nữa. “Mình là cô bé vụng về, có gì đó níu giữ mình bám chặt mặt đất mạnh hơn những đứa trẻ khác” – bé nghĩ, liên tưởng tới cô bé của nhà láng giềng đi giày pa tanh. “Mình chẳng thể bay được. Mình có thể leo chăng?” Bao giờ Myszka cũng nghĩ được trọn câu. Những từ thoát ra được khỏi miệng bé một cách vất vả và bị biến dạng, phì phò, bị ngắt giữa chừng, thường chỉ giới hạn ở một chi tiết – trong đầu thì chúng được sắp xếp đều đặn, dẫu chậm rãi. Có khi rất chậm. Thế nhưng khi đã được sắp xếp xong xuôi thì chúng chảy như một dòng sông giữa đồng bằng: hiền hoà nhưng kiên định. Chỉ có điều, so với các trẻ em khác, những từ này thường nhanh chóng chạy đi đâu đó rất xa và mãi không thấy quay lại, đến nỗi cô bé quên biến. Lần này cô bé cân một vài giấc chiêm bao trọn vẹn trong đêm để hiểu, trong giấc chiêm bao bé chẳng bay lên mà cũng không nhảy múa (chính bé thường mơ thấy vậy) mà bé leo. Sau bữa sáng, khi đi qua tiền sảnh, lần đầu tiên đôi mắt của bé bắt gặp một cầu thang gỗ, hẹp, dẫn lên tầng áp mái. “Phòng áp mái!” bé liên tưởng trong đầu. “Mình leo lên đó. Nhưng chưa bao giờ tới nơi…”. Tầng áp mái là nơi bé Myszka đâu có biết. Mẹ phải phòng ngừa “những nơi nguy hiểm” đối với con. Cái giếng cũ ngoài vườn là nơi nguy hiểm, dẫu rằng bây giờ không sử dụng nữa và đã được bịt kín lại, bên dưới là một cái hố sâu hoắm, tít trong lòng đất. Không bao giờ Myszka ngó nhìn vào đó. Nơi cực kỳ nguy hiểm là tường rào nửa xây nửa gỗ, bên kia là đường phố, nơi tuyệt nhiên Myszka không được đi một mình. Bởi bé có thể bị lạc. Mà không chỉ có vậy. Cho dù mẹ không bao giờ nói ra điều này, nhưng Myszka cảm nhận, bên kia tường rào là cả một thế giới mênh mông và thế giới này có thể không thích bé. Nhà hầm cũng là nơi không kém phần nguy hiểm, mặc dù không lớn, thế nhưng mẹ bảo, bậc cầu thang dẫn xuống đó quá ngoằn ngoèo đối với đôi chân tật nguyền của bé, theo mẹ, không một bậc cầu thang nào an toàn đối với con gái cả. Hay hơn cả là con chỉ đi lại ở những chỗ phẳng phiu – mẹ nhắc. Tiếc rằng thế giới không phẳng phiu, không phẳng phiu dưới bất kỳ khía cạnh nào, cho nên Myszka chủ yếu ở nhà, chỉ ra ngoài khi nào mẹ mang con đi chơi, thí dụ như vào vườn bách thú (nơi mẹ không rời tay con gái dù chỉ giây lát và cũng chỉ đến vào ngày thường, không bao giờ đến vào chủ nhật, bởi chủ nhật thường quá đông người, còn mẹ, có lẽ mẹ không thích đông người). Thỉnh thoảng hai mẹ con đi cửa hàng. Nhưng cửa hàng cũng được liệt vào danh mục những nơi cực kỳ nguy hiểm, bởi Myszka có thể va đập vào các ngăn đựng hàng háo hoặc cầm hàng lên tay, khi đó là hàng hoá phát tín hiệu và mẹ phải trả tiền đên vì hàng bị hư hỏng. Có một lần Myszka làm đổ ngăn đựng hàng mọi thứ có trong đó, và thế là một thời gian dài Ewa không dám đi mua hàng nữa. Một ông người lạ mặt đi một chiếc xe màu sắc rực rỡ đến tận nhà, rồi sau đó đi mua hàng theo danh sách mà mẹ đưa cho ông ta cùng với tiền. Lúc đó Myszka thấy tiếc vì bé thích đi đến các cửa hàng. Ở đó, thiên hạ người ta chú ý đến hàng hoá nhiều hơn đến bé, cho nên cửa hàng biến thành một nơi an toàn với bé. Đến ngày nào đó con sẽ học và biết cái gì không nên bằng mẹ nói với niềm hy vọng, còn Myszka gật đầu. Bé hiểu rõ rằng, tất cả những gì bé thích nhất đều bị cấm đoán, cho nên bé không muốn học điều mẹ vừa nói. Các bậc cầu thang lên phòng Myszka rộng, thuận lợi, lại còn có tay vịn mà mẹ đã yêu cầu ông thợ mộc làm thêm. Thế nhưng cầu thang lên tầng áp mái hay xuống tầng hầm thì vừa chật lại vừa dốc. “Phòng áp mái” – bé lại nghĩ tới sau khi ngủ dậy được mấy giờ đồng hồ, khi bé đã ăn sáng xong, không còn ngồi bên chiếc đĩa và sau đó là những thỏi ghép hình nữa, khi dán mắt vào tivi một cách vô ích, đợi một người nào đó nhảy múa (đúng lúc tất cả mọi người hoặc đang đi hoặc đang ngồi), khi bé chơi trên nền tiền sảnh, đợi cho tiếng nhạc vọng ra từ phía sau cánh cửa phòng bố - thế nhưng bố vắng nhà và đàng sau cánh cửa kia hoàn toàn im ắng. Sau bữa ăn trưa Myszka lại quanh quẩn bên cầu thang dẫn lên tầng áp mái. Những ý nghĩ không ăn nhập gì với nhau thoảng qua đầu bé, có những ý nghĩ trôi đi nhanh hơn, có những ý nghĩ trôi đi chậm hơn, và có một ý nghĩ không để cho Myszka yên lòng. Me, amai – bé nói trước lúc ăn tối. Amai – Ewa nghĩ ngợi, cố đoán xem lần này con gái muốn nói gì. Mỗi từ mới đều khiến mẹ mừng, nhưng vẫn là một câu đố. “amai” là một câu đố khó đoán hơn những câu đố khác. Sau một thời gian Ewa đành chịu thua và chị bảo con gái hãy chỉ cho mẹ xem “amai”. Phòng áp mái hả? – người mẹ lấy làm ngạc nhiên. Trên đó có gì đâu. Chỉ một ít đồ cũ sau khi ông bà qua đời, một cái kho đồ cũ bình thường…. Khoooo – Myszka nói, khi từ mới này làm bé thích thú – Amai – bé nhắc lại một cách bướng bỉnh. Bướng bỉnh là một đặc tính bệnh hoạn của con gái. Ewa đã đọc được điều này trong một tác phẩm y học. Và cho dù tác giả không giải thích nguyên nhân, Ewa vẫn thấy rằng, bướng bỉnh là kết quả của việc thiếu tự tin của trẻ em bị bệnh Down. Càng không tự tin một cái gì đó thì trẻ em bị bệnh này càng bướng bỉnh. Chúng phải bướng bỉnh, đó là cuộc đấu tranh của riêng chúng với nỗi sợ hãi. Thôi được, sẽ có phòng áp mái – Ewa nói và chìa tay mình cho Myszka. thiết nữa. Miii..cooo.. – cô bé mừng rỡ. Tại sao lại chỉ mình con lên phòng áp mái? – mẹ hỏi. Khooo.. – bé trả lời đúng với sự thật, khi nó còn chưa nhìn thấy căn phòng này. Khi bật đèn, nhìn phòng áp mái chẳng có gì hay ho cả. Đây là một kho đồ cũ, toàn là bàn ghế từ thời ông nội, hư hỏng nặng, không sử dụng được nữa. Trong các thùng cạc tông chất đầy những đồ vật mà theo Ewa và Adam không thích hợp với ngôi nhà mới của họ. Có vài chiếc thùng đựng sách, sách rơi ra ngoài nằm lăn lóc trên nền nhà, là vì cách đây mấy năm, Ewa lục lọi tìm quyển Kinh thánh. Bây giờ một lớp bụi mềm phủ trên các cuốn sách này. Thay vào đó, trước khi có ánh đèn sáng, - ngắn thôi, chừng ba mươi giây, trước khi tay mẹ chạm được vào công tắc – phòng áp mái là một nơi phi thường. “Thì ra đây” Myszka nghĩ “Đây chính là trên cao”. Trong vòng ba mươi giây đó Myszka nhìn thấy một căn phòng rộng, trong đó màu đen có nhiều sắc độ - từ màu xám đen tổ nhện cho tới màu đen của lớp bồ hóng dinh đầy – khiến bé ngạc nhiên, căn phòng sao mà lắm sắc màu làm vậy. Cho đến nay màu đen chỉ có một: đêm đen không trăng sao, cánh quạ đen trên nền tuyết trắng hay lông mèo đen. Ở đây, trong phòng áp mái, có cảm giác màu đen tạ ora những tấm màn đa dạng, ngăn cách mình với những thế giới biến đổi. Còn mặt trời chiêu những tia nắng dài qua ô cửa nhỏ vào một vài trong những tạo vật đó và Myszka kịp nhìn thấy những quái vật óng vàng lạ lẫm,,múa may, được tạo nên bởi vô khối những hạt bụi xoáy tròn. Các quái vật này hình thù khác nhau và sống động. Tất thảy mọi thứ đó đều biến mất cùng với ánh sáng nhân tạo toả ra từ chiếc bóng đèn điện phủ đầy bụi và chỉ ở chỗ, nơi mái nghiêng của ngôi nhà gắn vào nền phòng, nơi chút màu đen còn lại ẩn náu, là còn lại cái gì đó của cuộc sống trọn vẹn kia của thế giới bí ẩn. Chỉ có ở đây vẫn còn tồn tại. Không biết là cái gì. Mẹ đi đi, mẹ đi đi – Myszka nói với Ewa. Mẹ phải đi chứ gì? Mình con ở lại đây hay sao? – Ewa ngạc nhiên. Miii..cooon.. – cô con gái gật đầu. Thoạt tiên Ewa thấy lo ngại. Nỗi lo vì đứa con tật nguyền muốn một mình ở trên phòng áp mái là có cơ “một chỗ nguy hiểm, một chỗ cức kỳ nguy hiểm”, Ewa nghĩ theo nhịp những lời nhắc nhở mà có thời gian cô thường hay nói với con gái. Thế nhưng ngay lập tức Ewa sực nhớ, đã đến lúc Myszka tự đi được rồi. Bé tuy chậm chạp, ì ạch, thế nhưng nó đã didc trên các bậc cầu thang một cách ngon lành. Trên phòng áp mái không có que diêm để bé có thể làm cháy cái gì đó, không có những vật quý để bé có thể làm hư hỏng, cũng không có cửa sổ để bé có thể bị ngã ra ngoài. Duy nhất chỉ có một ô cửa nhỏ, nhưng lại ở tít trên cao. Thay vào đó Ewa nghĩ, mình sẽcó được phút chốc tĩnh lặng, một khoảnh khắc dành cho bản thân mình, cái khoảnh khắc lâu nay Ewa thiếu thốn. Con gái bám mẹ cả ngày lẫn đêm. Chị bảo mẫu hay nữ y tá đều bất lực. Theo Ewa, họ không hiểu nổi Myszka. Thậm chí họ có thể vô tình xúc phạm con bé. Ngoài ra, theo bản năng, chị giấu kín sự tồn tại của Myszka. Chị giấu con trước các bạn đồng môn thời đại học, trước các bạn gái hồi còn học phổ thông, trước các bạn cùng cơ quan của Adam. Hễ hai mẹ co nó đi ra khỏi nhà là chị phải tìm những nơi hầu như tránh mặt được người quen. Có một hôm, khi Myszka xem các loài vật trong vườn bách thú vắng tanh (rất may là trời đổ mưa), bỗng Ewa phát hiện thấy một cô bạn trên lối đi và chị đã lại nấp sau một chiếc ghế đá, làm ngơ trước tiếng gọi não nùng của con gái. Và dù hổ thẹn vì phản ứng này, trước khi đi lại chỗ Myszka, chị đã chờ, đã trốn, cho đến lúc cô bạn khuất bóng khi rẽ lối. Xấu hổ có nhiều dạng khác nhau, nhưng dạng gì cũng làm chị đau lòng. “Phòng áp mái, sao lại không?” bây giờ Ewa nghĩ. Chị đã mệt lử. Chị mường tượng, lúc đó mình sẽ làm gì, một chiếc đi văng thuận tiện, lửa cháy trong lò sưởi, một cuốn sách hay, một tách cà phê – và sự tĩnh lặng. Một giờ, thậm chí hai giờ đồng hồ liền sẽ không có một giọng nhõng nhẽo nào, không ai đòi hỏi chị một cái gì cả, chi.có thể quên đi thế giới của Chúa. Sau chót, như các cuốn sách câm nang dành cho các bà mẹ có con khuyết tật viết, Myszka phải quen dần với việc tự lập. Chúng mình làm thế này – chị hồ hởi nói – Chúng mình sẽ gọi thợ làm cho một cái chuông đặc biệt, và rồi con có thể chơi ở trên này một mình. Lúc nào muốn xuống dưới nhà thì con bấm chuông. Còn bây giờ hai mẹ con mình đi xuống dưới. Myszka lắc đầu tiu nghỉu. Bé há hốc miệng, Ewa biết ngay là bé lại lên cơn điên không chịu nổi. Tiếng hét liên hồi, đứt đoạn, dữ tợn, khủng khiếp bay lên không trung. Thét lên như vậy là Myszka muốn thể hiện nỗi đau của mình trước thế gian. Trong cơn điên như thế này, bé cào cấu, bé đấm đá mẹ (“…trẻ em bị bệnh Down khi nỗi sợ hoặc sự thiếu tự tin tăng cao thường nổi cơn điên”, Ewa đã đọc được như vậy trong một cuốn sách. Lúc nào cũng vậy, hễ tìm được trong sách một đoạn mô tả có liên quan đến hành động không bình thường của Myszka là Ewa cảm thấy dễ chịu một cách lạ lùng. Quả là một nghịch lý, cái không bình thường trở nên bình thường, cho dù không kém phần nặng nề). Con đừng lo, mẹ hứa, ngày mai chúng mình sẽ làm một cái chuông, mẹ nói thật đó. Đã ngày mai rồi đó! – Ewa nói ngay để chặn cơn điên. Và thế là ổn. Hai mẹ con đi xuống dưới nhà. Thế nhưng trước khi lắp chuông (việc này không phải ngày hôm sau, mà bốn ngày sau mới làm được, và Ewa có thể nghe tiếng chuông cả ở trong nhà bếp, trong nhà tắm lẫn trong phòng ngủ và phòng khách, thậm chí ở phía trước nhà) Myszka quên khuấy phòng áp mái.bao giờ cũng vậy, bé rất chóng quên mọi chuyện. Chỉ có vài thứ còn đọng lại được trong đầu của bé. Mãi đến hôm ông thợ điện thử chuông, Myszka lại nhìn thấy phòng áp mái trong khoảnh khắc ngắn ngủi và diệu kỳ nọ trước khi mẹ bật đèn. Đêm hôm đó, trong giấc chiêm bao bé trèo lên cao, bé bay lên cao, rồi sau đó bé nhảy múa trong ngôi Vườn huyền diệu, giữa những lùm cây ngập tràn ánh nắng mặt trời. Sáng dậy, lúc ăn sáng bé nói một cách tự tin: Phòng áp mái. Sau bữa cơm trưa, hai mẹ con mới leo lên phòng áp mái. Ewa quan sát, con gái thực sự xúc động, chậm rãi leo lên cầu thang dốc, bám vào tay vịn. Ewa thở phào, mở cửa phòng áp mái rồi bật đèn. Tiếp đó mẹ chỉ cho Myszka chiếc chuông điện. Rồi chiếc tiếp theo, chiếc thứ ba và thứ tư. Trong trường hợp Myszka quê nthì đã có mấy chiếc chuông đặt ở nơi dễ thấy. Mẹ đi đi, mẹ đi đi, con một mình… - Myszka, vẻ sốt ruột, nói. Ewa thở dài lo ngại, đi xuống dưới nhà. Trời nhá nhem. Và buổi tối tiếp theo của ngày đầu tiên đã đến