- 8 -

Dịch giả: Khanh Khanh
- 1 -

    
ương mù phủ trên mặt Đại Tây Dương, dày như một biển bông xám trắng và chỉ loãng ra thành những vệt hơi nước nhợt nhạt bên bờ. Tiếng còi tàu trầm đục vẳng về từ rất xa. Tiếng nhạc rên rỉ phát ra từ ngôi nhà xây trước khách sạn, điếm gặp gỡ hàng đêm của đám trai trẻ trong vùng, điểm hội tụ của những phút giây nhảy nhót và vui nhộn.
Wilbur Staten giơ tay quệt mồ hôi lạnh trên trán. Những ngón tay run run khi anh cầm lấy va-li. Chốc chốc ánh mắt anh ta lại liếc thật nhanh về hướng cửa sổ. Một ánh mắt đầy kinh hãi. Wilbur Staten cố gắng làm chủ nỗi sợ đang dâng đầy trong tâm khảm, nhưng chỉ uổng công.
Có thể chúng không tới. Có thể chúng chưa phát hiện ra sự biến mất của anh. Có thể…
Ở đâu đó có ai khẽ cất tiếng hát.
Wilbur Staten giật mình. Dạ dày anh thít chặt. Người đàn ông đờ đẫn đứng lại, chỉ trong một giây đồng hồ toàn thân đã ướt đẫm mồ hôi, anh ta lắng nghe bầu trời đêm bên ngoài.
Tiếng hát ngưng một thoáng, rồi lại cất lên. Wilbur Staten biết giai điệu đó:
“Song of Death” (Bài ca cái chết).
Wilbur Staten biết cái giai điệu đang khiến cho đám trẻ con phát điên phát khùng lên trong các sàn nhảy từ vài tuần nay, anh thuộc cả lời bài hát quái gở. Và anh ta biết cả người đàn ông đang lẩm nhẩm bài hát đó một mình, lẩm nhẩm bất cứ nơi nào gã xuất hiện một cách không ngơi nghỉ, không mệt mỏi như muốn dứt đứt tới sợi dây thần kinh cuối cùng của người nghe.
Gã đến rồi.
Gã đã nhận được lệnh, đã tìm dấu vết và sẽ thực hiện công việc của gã.
Wilbur Staten run bần bật. Trong một thoáng, anh ta đã muốn với lấy điện thoại và gọi số cấp cứu. Nhưng anh ta biết giờ thì quá muộn rồi. Anh ta phải tự lo lắng lấy một mình, phải tận dụng cơ hội cuối cùng, phải chiến đấu.
Cố nén cơn run rẩy đang rung lắc cả người anh ta như một đợt sốt cao, Wilbur vội vàng mở va li ra, nâng nắp lên cao và gạt một vài áo sơ mi sang bên. Những ngón tay của anh ta bao quanh cán khẩu Beretta. Một món vũ khí tốt, đáng tin cậy và được chăm sóc hoàn hảo. Ra vẻ kiểm tra, anh kéo cần gạt. Anh ta chưa bao giờ sử dụng khẩu súng này. Anh ta sợ tới lúc phải nổ súng. Nhưng lần này anh ta không còn con đường nào khác, nếu anh ta muốn sống sót.
Hai làn môi mím chặt, Wilbur Staten nhỏm dậy, tắt ngọn đèn nhỏ trên bàn, lướt tới bên cửa sổ.
Vạn vật bên ngoài yên tĩnh. Chỉ có ngọn gió từ Đại Tây Dương rì rào khe khẽ trong bụi cây.
Với một cử chỉ uyển chuyển, nhanh nhẹn, Wilbur Staten nhào người lên trên bậu cửa số. Gương mặt người đàn ông có vẻ căng thằng, góc cạnh và tàn nhẫn, khi anh ta nhảy ra ngoài nền đất, lẹ làng không một tiếng động, rồi ngay lập tức dán lưng vào sát tường. Tư thế của anh ta bây giờ có nét tỉnh táo, căng thẳng, chăm chú như một người thợ săn.
Ánh mắt của Jenna Becks  rời chiếc đồng hồ treo tường lòe loẹt sang phía máy điện thoại. Những khuôn cửa kính phản chiếu rõ hình ảnh của cô: mái tóc để thẳng màu vàng, hai con mắt thẫm màu, một thân hình thon mảnh săn chắc trong quần jeans, áo T-Shirt và áo khoác bằng da màu đen. Jenna thoáng rùng mình. Trận mưa giông đã khiến không khí lạnh hơn. Ngoài ra cô cũng bị thấm nước mưa, cô sẽ cảm lạnh nếu không uống thuốc kịp thời. Đột nhiên, cơn giận dữ trong cô bùng dậy. Giận dữ Bernie, giận dữ người bạn lạ mặt của anh ta, giận dữ cái khách sạn tồi tệ này và giận dữ cả cái sáng kiến điên khùng mà bây giờ cô thấy chẳng còn thật sự hay ho như trước nữa.
Cô đã cân nhắc lâu rồi mà vẫn chưa quyết định xem có nên gọi điện cho người đàn ông béo phị bên dưới quầy tiếp tân, hỏi thăm tình hình của vị khách ở Bungalow số 9. Cô biết tên anh ta, nhưng không biết mặt. Rất có thể anh ta không tới. Rất có thể gã trai mà cô quan sát là một người khác, là một khách qua đường hoàn toàn bình thường, hiền lành. Và Bernie sẽ không phải là lần đầu tiên bỏ trốn trước chính sáng kiến của mình.
Mặc dù vậy, Jenna vẫn quyết định không gọi điện cho quầy tiếp tân. Cô không tin gã đàn ông béo phị đó. Hắn ta thuộc dạng người ở bất cứ xó xỉnh nào cũng sẽ rất thính nhạy đánh hơi ra ngay cơ hộte;o thật vắn tắt theo lối nghiệp vụ, về cái cảm giác nôn nao ngang trái trong tâm khảm.
Mr. High đồng ý kiến với tôi. Chúng tôi phải tính đến kỹ năng rằng đối phương đã thêm mảnh đất ở Farlund là đã trở thành quá nóng. Nhưng mặt khác, người ta không thể nhanh chóng dọn cả một xưởng in tiền giả chỉ trong vòng một tiếng đồng hồ từ nơi này qua nơi khác. Rất có thể chúng tôi sẽ còn cơ hội này  nếu bây giờ chúng tôi hành động nhanh.
Thực hiện cú ra quân đi, Jerry, - sếp quyết định sau một thoáng cân nhắc. – Anh chỉ huy tại trận. Trong thời gian đó tôi sẽ tìm cách xoay sở ra lệnh khám nhà Farlund Manor.
°°
°
Phil có cảm giác như muốn đập đầu xuống đất vì giận bản thân mình.
Lẽ ra anh có thể linh cảm thấy rằng “Cơn Ác Mộng” chính là cái địa chỉ mà bọn anh đang tìm? Rằng Arturo Pezzoli  chẳng phải chỉ là một người quen cũ của cả Wilbur Staten lẫn cả Bernie  Beck, mà là một nhân vật chính? Rằng công tác điều tra của FBI đã khuấy động phía bên kia, đến mức độ chúng phản công ngay bằng đại bác? Đi thẳng vào quán rượu đó, chìa chứng minh thư ra để rồi đặt những câu hỏi trực tiếp là một lỗi lầm trầm trọng. Giờ thì anh biết nhưng đã quá chậm! Anh đang bị trói cả chân cả tay và bị quẳng xuống một tầng hầm lạnh lẽo, chỉ nghe thấy từ phía xa xa một tiếng dập trầm đục, đều đặn, thứ mà anh coi là âm thanh của một cái máy in, và anh không biết làm cách nào để thoát ra khỏi cái bẫy này.
Ánh mắt anh dán chặt vào bốn tên gangster đang ngồi trước mặt anh.
Tay người gầy mảnh sang trọng Arturo Pezzoli  có làn da trắng gần bằng làn áo sơ mi Smoking của nó. Gã đàn ông cao lớn xương xẩu với mái tóc nâu cắt ngắn chính là kẻ đã dụ anh vào văn phòng của Pezzoli  tại bar rượu “Cơn Ác Mộng” và đánh gục anh từ phía sau lưng. Ngoài ra còn hai tay cận vệ trông có vẻ vai u thịt bắp mà đầu óc ngu si, được gọi là Ted và Larry. Bọn chúng đang chờ. Người đàn ông mà chúng chờ chỉ vài phút sau đó bước xuống căn hầm, và Phil biết ngay lập tức đây là sếp của nhóm băng đảng.
Một gã đàn ông cao và gầy trong một chiếc quần thẫm màu và một áo khoác mặc trong nhà làm bằng vải nhung màu đỏ sẫm. Cặp kính che đôi mắt của gã gần có màu đen, nhưng những cử chỉ rất chắc chắn cho biết gã chẳng phải kẻ mù. Chắc là gã đã từng trải qua một tai nạn khủng khiếp, và bị bỏng nặng. Ngoại hình của gã trông giống như nạn nhân của máy phun lửa: mặt và tay chằng chịt vết sẹo, khuôn miệng chỉ còn là một kẽ hở nhăn nhúm, đầu không một sợi tóc, trông như đầu ma.
Tâm trí Phil căng lên. Kể cả qua làn kính thẫm màu kia, anh vẫn cảm nhận được tia nhìn tựa tia lửa của gã đàn ông đang hướng về mình. Dĩ nhiên rồi, bọn này muốn biết làm cách nào mà FBI tìm ra dấu vết của chúng. Và gã đàn ông dửng dưng quái dị kia chắc chắn sẽ không chần chừ lấy một giây, sử dụng mọi công cụ bằng mọi phương cách để nhận được câu trả lời mà gã mong đợi.
Được thôi, - gã nói chầm chậm. – Tốt lắm! Giờ mày phải kể cho bọn tao nghe…
Tao không kể gì cả, - Phil nói khô khan.
Không hả? Có chắc không?
Rất chắc. – Chàng sĩ quan đặc nhiệm cười ngạo mạn hết mức của mình. Các bạn đồng nghiệp biết anh đi tới cái quán “Cơn Ác Mộng”. Mà đồi phương của anh rõ ràng cũng biết một sĩ quan đặc nhiệm nếu không bị thúc vào cảnh tận cùng sẽ chẳng bao giờ cung cấp những thông tin mà chúng muốn. Anh phải chơi trò chơi kéo dài thời gian. Mọi lời nói dối chỉ gây ấn tượng thuyết phục một khi đối phương đã phải nhọc công vắt ra nó.
Chắc là gã đàn ông đeo kính thẫm màu cũng biết điều đó.
Thôi được, - gã nhắc lại với giọng nói rên rít ghê người. – Được thôi, đặc nhiệm. Ted và Larry sẽ làm việc với mày nửa tiếng đồng hồ. Và trong nửa tiếng nữa, tao sẽ quay trở lại để nghe câu trả lời.
Vừa nói gã vừa xoay người đi. Gã còn mỉm cười – một nụ cười độc ác. Phil linh cảm rõ, nửa tiếng đồng hồ sắp tới sẽ rất trầm trọng.