Đang nói chuyện khu mật sứ Đồng Quán vâng mệnh thiên tử giữ chức đại nguyên suý thống lĩnh quân mã bèn trở về viện khu mật trù tính việc điều binh khiển tướng: lệnh cho tám lộ, quận, châu thuộc hạt Đông Kinh mỗi lộ điều một vạn quân, giao cho đô giám binh mã của bản châu chỉ huy, chọn lấy hai vạn trong đội quân ngự lâm ở Đông Kinh để đóng giữ trung quân, mọi việc ở khu mật viện đều uỷ cho phó khu mật sứ nắm giữ. Chọn hai tướng giỏi ở ngự doanh giao cho chỉ huy quân tả dực, hữu dực. Hạn định trong vòng mười ngày mọi việc chuẩn bị đều phải xong. Về việc tiếp ứng quân lương thì do Cao thái uý sai người đi vận chuyển. Kê tám lộ quân mã như sau:- Quân mã lộ Thư Châu do binh mã đô giám Đoàn Bằng Cử chỉ huy.- Quân mã lộ Trịnh Châu, do binh mã đô giám Trần Chử chỉ huy.- Quân mã lộ Trần Châu, do binh mã đô giám Ngô Bỉnh Di chỉ huy.- Quân mã lộ Đường Châu, do binh mã đô giám Hàn Thiên Lân chỉ huy.- Quân mã lộ Hứa Châu, do binh mã đô giám Lý Minh chỉ huy.- Quân mã lộ Đặng Châu, do binh mã đô giám Vương Nghĩa chỉ huy.- Quân mã lộ Như Châu, do binh mã đô giám Mã Vạn Lý chỉ huy.- Quân mã lộ Tung Châu, do binh mã đô giám Chu Tín chỉ huy.Hai viên tướng giỏi ở ngự doanh được chọn chỉ huy quân tả dực và hữu dực của đội trung quân là:- Ngự tiền phi long đại tướng Phong Mỹ,- Ngự tiền phi hổ đại tướng Tất Thắng.Đồng Quán làm chủ suý, nắm giữ trung quân. Lệnh cho ba quân sửa soạn đầy đủ mọi thứ cần thiết, sai quan giữ vũ khí phát khí giới cho quân sĩ. Mọi việc chuẩn bị đều đã xong xuôi, Đồng Quán chọn ngày tốt xuất quân. Cao thái uý và Dương thái uý mở tiệc tiễn Đồng khu mật lên đường. Triều đình giao cho trung thư sảnh lo việc ban thưởng ba quân tướng sĩ.Đến ngày đã định, sau khi lệnh cho đội tiền quân lên đường, Đồng Quán vào cung lạy chào thiên tử rồi lên yên ruổi ngựa qua cửa Tân Tào. Đến phong đình cách kinh thành năm dặm đã thấy hai thái úy Cao Cầu, Dương Tiễn dẫn đầu các quan chờ tiễn biệt.Đồng Quán xuống ngựa. Cao thái uý rót rượu mời Đồng Quán cạn chén, nói:- Khu mật tướng công đem quân đi chuyến này tất lập được công lớn với triều đình. Chúc tướng công sớm báo tiệp, đem quân về kinh. Bọn giặc cỏ lén lút trong chốn lau lách ao đầm, tướng công chớ nên coi thường, chỉ cần bao vây dựng đồn trại khắp bốn phía để cắt nguồn lương thảo, dụ cho quân giặc xuống núi mà đánh diệt. Tướng công nên sai quân đi trước do thám tình hình quân giặc rồi sau hãy tiến binh. Tướng công sẽ tung quân bắt sống hết bọn chúng, ngõ hầu không phụ lòng tin cậy của triều đình. Kính mong khu mật tướng công xét kỹ.Đồng Quán nói:- Đa tạ điện suý tứớng công tận tình chỉ giáo, hạ quan xin ghi tạc vào lòng.Đồng Quán và Cao Cầu cùng cạn chén. Dương thái uý cũng rót rượu nâng mời Đồng Quán:- Khu mật tướng công rộng đọc binh thư, hiểu sâu thao lược phen này đem quân đi diệt trừ bọn giặc cỏ tất dễ như trở bàn tay. Có điều bọn giặc cỏ này ẩn nấp ở chốn thuỷ bạc, địa thế khó khăn. Khu mật tướng quân đem đại binh đến đó sẽ xem xét kỹ để tìm kế sách thích đáng.Đồng Quán nói:- Hạ quan sẽ xin tuỳ cơ ứng biến, ắt phải có phép riêng.Hai thái uý Cao Cầu, Dương Tiễn đều nâng rượu:- Xa xôi ngoài chốn kinh đô, muôn trông tướng công sớm khải hoàn.Cuộc tiễn biệt đã xong, ai nấy đều lên ngựa.Hãy gác chuyện Cao Cầu, Dương Tiễn và các quan đi tiễn trở về. Một số đông quan lại cấp dưới còn theo tiễn chân thêm một quãng nữa rồi mới trở về, cũng không có chuyện gì đáng nói.Ba quân tứớng sĩ dưới quyền Đồng Quán rầm rập lên đường, đội ngũ nghiêm chỉnh, ai nấy đều hăm hở tranh lập chiến công. Tiền quân bốn đội do tướng tiên phong tổng lĩnh hành quân. Hậu quân bốn đội do tướng hậu quân đốc suất. Tám lộ quân mã tả hữu do các viên kỳ bài, vũ dực đốc suất. Đồng Quán nắm giữ trung quân thống lĩnh hai vạn quân vũ lâm mã bộ, đều là quân tinh nhuệ tuyển chọn trong quân ngự doanh. Đồng Quán cầm roi đốc thúc ba quân rời khỏi Đông Kinh. Đúng là đao thương cuồn cuộn như nước chảy, người ngựa như gió lướt nhanh. Quân lính đi đường cứ năm mươi dặm dừng nghỉ, ngày hôm sau đi tiếp, theo đường cái vòng vèo mà tiến lên. Một ngày kia đại quân đã đến phủ Tế Châu. Tri phủ Trương Thúc Dạ ra ngoại thành nghênh đón. Đại quân đóng trại ở ngoài thành, chỉ một mình Đồng khu mật dẫn mấy tên quân hầu cưỡi ngựa đi thẳng vào thành. Đồng khu mật xuống ngựa trước phủ đường chào hỏi các quan chức hàng phủ ra đón rồi lên sảnh đường. Tri phủ Trương Thúc Dạ đứng hầu ở phía trước. Đồng khu mật nói:- Bọn giặc cỏ lén lút trong bờ bụi, giết hại dân lành, cướp bóc khách buôn, gây ác không chỉ một bề. Từ trước đến nay quan quân nhiều lần đánh dẹp, nhưng vì chưa chọn được tướng tài để đến nỗi thế lực bọn chúng ngày một lan rộng. Nay ta thống lĩnh đại quân mười vạn người, chiến tướng hơn một trăm viên, định ngày tiến đánh quét sạch sơn trại, bắt sống quân giặc để yên lòng muôn dân.Trương Thúc Dạ nói:- Thưa khu mật tướng công, quân giặc ẩn nấp nơi thuỷ bạc, tuy là hạng cường khấu chốn sơn lâm nhưng trong đó cũng có nhiều người trí mưu dũng cảm. Tứớng công chớ quá tức giận đem quân tiến dài, tất phải dùng mưu sâu kế lạ mới lập được công tích.Đồng Quán nghe xong nổi giận mắng:- Chỉ vì bọn sất phu nhu nhược như ngươi, sợ kiếm tránh đao ham sống sợ chết làm lầm lỡ việc lớn của quốc gia, đến nỗi nuôi cho giặc đã khởi loạn. Ta đã đến đây, có gì mà sợ?Trương Thúc Dạ ngồi im không dám nói nữa, bèn sai dọn tiệc rượu tiễn đưa. Đồng khu mật dẫn quân rời thành Tế Châu, ngày hôm sau truyền lệnh tiến đến gần Lương Sơn Bạc hạ trại.Lại nói Tống Giang đã nghe báo trước mấy ngày, bèn cùng với Ngô Dụng bàn kế sách đối phó, trong ngoài giữ kín như bưng, tất cả đều đã sẵn sang chỉ chờ quan quân triều đình kéo đến. Tống Giang lệnh cho các tướng ai nấy phải tuân theo mưu kế đã định không được làm sai.Lại nói Đồng khu mật sai binh mã đô giám lộ Thư Châu là Đoàn Bằng Cử làm chánh tiên phong, đô giám Trịnh Châu là Trần Chử làm phó tiên phong, đô giám Trần Châu là Ngô Bỉnh Di làm hậu tướng, đô giám Hứa Châu là Lý Minh làm phó hợp hậu, đô giám Đường Châu là Hán Thiên Lân và đô giám Đặng Châu là Vương Nghĩa là tướng tả tiêu; đô giám Như Châu là Mã Vạn Lý và đô giám Tung Châu là Chu Tín làm tướng hữu tiêu; hai tướng ở ngự doanh là Phi long đại tướng Phong Mỹ và Phi hổ đại tướng Tất Thắng làm tướng vũ dực ở trung quân; Đồng Quán làm nguyên suý thống lĩnh đại quân. Đồng Quán nai nịt giáp trụ, đích thân đốc thúc ba quân tướng sĩ. Ba hồi trống trận nổi vang, các cánh quân cùng tiến. Đi chưa được mười dặm, bỗng thấy đất bụi cuốn tung rồi một đội quân Lương Sơn Bạc tuần tiễu phóng lên phía trước. Tiếng đạc ngựa mỗi lúc một gần, hơn ba mươi quân thám mã đầu chít khăn xanh, mặc chiến bào xanh, vai đeo cung tên, tay cầm thương dài cán nhỏ bịt vòng bạc trắng loá. Tất cả đều cưỡi ngựa chiến phủ lụa đỏ, hai bên hông đeo mấy chụ đạc đồng, sau đuôi buộc lông trĩ.Trên cờ hiệu của viên tướng phiêu kỵ đề rõ:"tuần tiêu đô đầu lĩnh Một vũ tiễn Trương Thanh". Đi cạnh Trương Thanh bên trái là Cung Vượng, bên phải là Đinh Đắc Tôn. Đội thám mã tiến lên cánh quân Đồng Quán hơn trăm bước thì quay lại. Hai tướng chỉ huy đội tiền quân không thấy lệnh của chủ suý nên không dám hành động, chỉ sai người về trung quân báo cho Đồng khu mật biết. Đồng Quán đích thân lên xem xét, chưa kịp nhìn kỹ thì Trương Thanh đã dẫn quân thám mã quay về. Đồng Quán định sai quân đuổi đánh nhưng tả hữu can rằng:- Viên tướng ấy bên yên ngựa có đeo túi đá, ném trăm phát trăm trúng, xin tướng quân đừng đuổi theo.Trương Thanh trở đi trở lại ba lần không thấy Đồng Quán đuổi theo, bèn dẫn quân về. Đi chưa được năm dặm, chợt nghe sau núi tiếng thanh la nổi lên vang trời. Rồi một đội năm trăm quân bộ tiến ra, bốn đầu lĩnh đi đầu là Hắc toàn phong Lý Quỳ, Hỗn thế ma vương Phàn Thuỵ, Bát tí Na Tra Hạng Sung, Phi thiên đại thánh Lý Cổn. Đội quân bộ năm trăm người dàn hàng ngang dưới chân núi, quân đao thuẫn chặn sát hai bên. Đồng Quán dẫn quân tiến bước, thấy vậy bèn vẫy cờ đuôi hoẵnng thúc quân mã xông lên. Lý Quỳ, Phàn Thụy chia quân bộ làm hai đường, tất cả đều nâng đao thuẫn trên tay, chạy men theo đường chân núi. Đại quân của Đồng Quán đuổi theo đầu núi, thấy thung lũng thoáng rộng liền cho quân mã dàn thành thế trận. Lúc ấy bọn Lý Quỳ, Phàn Thụy đã dẫn quân đi khuất vào rừng. Đồng Quán cho bắc gỗ dựng tướng đài ở trung quân, sai hai viên kỳ hiệu cầm cờ lệnh giơ trái vẫy phải truyền lệnh điều quân xếp trận. Thế trận vừa kịp dàn xong, bỗng nghe tiếng hoả pháo nổ vang sau núi, rồi một đội quân mã ào ạt xông ra dàn thế trận đối địch. Đồng Quán bảo tả hữu dừng ngựa, đích thân lên tướng đài xem xét. Vừa lúc ấy, từ phía đông lại một cánh quân mã tiến đến, đội đi đầu trương cờ đỏ, đội thứ hai trương cờ màu, đội thứ ba cờ xanh, đội thứ tư cũng trương cờ màu. Từ phía tây một cánh quân mã khác tiến đến: đội đi đầu trương cờ màu, đội thứ hai cờ trắng, đội thứ ba cờ màu, đội thứ tư cờ đen. Sau các cờ lớn, tất cả đều dùng cờ đuôi nheo vàng. Cả hai cánh quân tiến gấp vào dàn trận giữa lũng núi. Cánh quân mã từ phía chính nam tiến đến dùng một màu cờ đỏ lửa, tướng sĩ mặc chiến bào đỏ, khoác giáp đỏ, cưỡi ngựa thắng yên đỏ. Trên lá cờ đỏ dẫn quân đi đầu thêo chỉ vàng sáu ngôi sao Nam đẩu, sát dưới thêu hình chim Chu tước. Từ dưới lá cờ lớn đang lay động trong rừng cờ đỏ, một viên chiến tướng cưỡi ngựa xông ra. Cờ lệnh của viên tướng ấy thêu chỉ vàng:"tiên phong đại tướng Tích lịch hoả Tần Minh". Hai viên phó tướng bên trái là Thánh thuỷ tướng quân Đan Đinh Khuê, bên phải là Thần hoả tướng quân Ngụy Định Quốc. Ba viên chiến tướng tay nâng thương đao, cưỡi ngựa thắng yên cương đỏ đứng trước trận.Đội phía đông trương cờ xanh, quân sĩ mặc chiến bào xanh, cưỡi ngựa phủ yên xanh. Trên lá cờ xanh dẫn quân đi đầu thêu chỉ vàng bốn ngôi sao Đông đẩu, dưới thêu hình Thanh Long. Từ dưới lá cờ lớn đang lay động trong rừng cờ xanh một viên đại tướng cưỡi ngựa xông ra. Cờ lệnh của viên tướng ấy thêu chỉ vàng đề rõ:"tả quân đại tướng Đại đao Quan Thắng". Hai phó tướng, bên trái là Xú quận mã Tuyên Tán, bên phải là Tĩnh mộc hãn Hách Tư Văn. Ba viên chiến tướng tay cầm khí giới, cưỡi ngựa thắng yên cương xanh đứng trước trận.Đội quân mã phía tây đều dùng cờ trắng, mặc áo gáip và chiến bào trắng, cưỡi ngựa thắng yên cương trắng. Trên lá cờ lớn trắng dẫn quân thêu chỉ vàng năm ngôi sao Tây đẩu, dưới thêu hình Bạch Hổ. Dưới lá cờ lớn đang lay động trong rừng cờ trắng, một viên đại tướng cưỡi ngựa xông ra. Lá cờ của viên tướng ấy có thêu chữ vàng đề rõ "hữu quân đại tướng Báo tử đầu Lâm Xung". Hai viên phó tướng, bên trái alf Trấn tam sơn Hoàng Tín, bên phải là Bệnh uý trì Tôn Lập. Ba viên chiến tướng tay cầm khí giới, cưỡi ngựa thắng yên cương trắng đứng trước trận.Đội quân mã phía sau đều dùng cờ đen, mặc áo giáp và chiến bào đen, cưỡi ngựa thắng yên cương đen. Trên lá cờ lớn màu đen dẫn quân đi đầu thêu chỉ vàng bảy ngôi sao Bắc đẩu, dứới thêu hình chim Huyền vũ. Dưới lá cờ lớn đang lay động trong rừgn cờ đen, một viên đại tướng cưỡi ngựa xông ra. Lá cờ của viên tướng ấy có thêu chữ vàng đề rõ "hợp hậu đại tướng Song tiên Hô Diên Chước". Hai viên phó tướng, bên trái là Bách thắng tướng Hàn Thao, bên phải là Thiên mục tướng Bành Kỷ. Ba viên chiến tướng tay cầm khí giới cưỡi ngựa thắng yên cương đen đứng trước trận.Đội quân mã đứng dưới bóng môn kỳ đông nam trương cờ xanh, mặc giáp đỏ. Trên lá cờ dẫn quân thêu chỉ vàng sáu vạch quẻ Tốn, dươí thêu hình Phi Long. Từ dưới bóng cờ lay động, một viên đại tướng phóng ngựa xông ra. Trên lá cờ của viên tướng ấy có thêu chữ vàng đề rõ "hổ quân đại tướng Song thương tướng Đổng Bình". Hai viên phó tướng, bên trái là Ma Vân kim xí Âu Bằng, bên phải là Hoả nhãn toan nghê Đặng Phi. Ba viên chiến tướng tay cầm đao thương, cưỡi ngựa chiến đứng trước trận.Đội quân mã đứng dưới bóng môn kỳ tây nam trương cờ đỏ, mặc giáp trắng. Trên lá cờ dẫn quân đi đầu thêu chỉ vàng sáu vạch quẻ Khôn, dưới thêu hình Phi Hùng. Từ dưới bóng cờ lay động một viên đại tướng xông ra. Trên lá cờ của viên tướng ấy thêu chữ vàng đề rõ "phiêu kỵ đại tướng Cấp tiên phong Sách Siêu". Hai viên phó tướng, bên trái là Cẩm mao hổ Yến Thuận, bên phải là Thiết địch tiên Mã Lân. Ba viên chiến tướng tay cầm khí giới cưỡi ngựa chiến đứng trước trận.Đội quân mã đứng dứới bóng môn kỳ đông bắc trương cờ đen, mặc giáp xanh, trên lá cờ dẫn quân thêu chỉ vàng sáu vạch quẻ Cấn dưới thêu hình Phi Báo. Từ dưới bóng cờ lay động, một viên đại tướng xông ra. Cờ hiệu của viên tướng ấy thêu chữ vàng "phiêu kỵ đại tuớng Cửu văn long Sử Tiến". Hai viên phó tướng bên trái là Khiêu giản hổ Trần Đạt, bên phải là Bạch Hoa xà Dương Xuân. Ba viên chiến tướng tay cầm khí giới, cưỡi ngựa chiến đứng trước trận.Đội quân mã đứng dưới môn kỳ tây bắc trương cờ trắng, mặc áo giáp đen. Trên lá cờ dẫn quân đi đầu thêu chỉ vàng sáu vạch qủe Càn, ở dưới thêu hình Phi Hổ. Dưới bóng cờ lay động, một viên đại tướng xông ra. Cờ hiệu của viên tướng ấy thêu chữ vàng "phiêu kỵ đại tướng Thanh diện thú Dương Chí". Hai viên phó tướng, bên trái là Cẩm báo tử Dương Lâm, bên phải là Tiểu bá vương Chu Thông. Ba viên chiến tướng tay nâng khí giới, cưỡi ngựa đứng trước trận.Thế trận bốn phương tám hướng đã bầy kín chặt. Ở các cửa trận, quân mã quân bộ đứng riêng, ai nấy đều cầm thương dài búa lớn, cờ hiệu tề chỉnh, đội ngũ uy nghiêm.Giữa trung tâm bát trận là rừng cờ vàng cuồn cuộn, xung quanh trương đủ sáu mươi tư cờ lục thập tứ quái, cờ phương nào thêu vạch theo quẻ phương ấy. Xung quanh vòng cờ quẻ cũng chia làm tám cửa: cửa nam là trận quận bộ. Dưới bóng cờ vàng ở chính nam là viên chiến tướng cưỡi ngựa thắng yên cương vàng, tướng đứng trước là Mỹ nhiêm công Chu Đông, tướng đứng sau là Sáp sí hổ Lôi Hoành, quân mã trương cờ vàng, mặc chiến bào vàng, áo giáp đồng, cưỡi ngựa phủ yên cương vàng. Từ trung ương ra bốn cửa vòng trong phía cửa đông là Kim nhãn bưu Thi Ân, cửa tây là Bạch diện lang quân Trịnh Thiên Thọ, cửa nam là Vân lý kim cương Tống Vạn, cửa bắc là Bệnh đại trùng Tiết Vĩnh. Giữa vùng cờ vàng giương cao lá cờ lớn màu vàng hoa hạnh thêu chữ lớn: "thế thiên hành đạo". Trên cán cờ buộc bốn dây tua, mỗi tua do một tên quân tráng kiện cầm giữ. Tráng sĩ giữ cờ là Hiểm đạo thần Úc Bảo Tứ. Phía sau đội cờ vàng là quân pháo thủ, Oanh thiên lôi Lăng Chấn cùng hơn hai chục pháo thủ đứng vây xung quanh giá súng. Phía sau nữa là đội quân câu liên khí giới sẵn sàng. Tiếp theo là đội quân giương cờ màu xếp trong ngoài bảy vòng, xung quanh xếp hai mươi tám lá cờ thêu chỉ vàng hình chùm sao Nhị thập thát tú.Ở giữa lá cờ lớn thêu chữ "Suý" màu vàng lông ngỗng, diềm cờ thêu những vòng chân châu móc vào nhau, sát cán cờ treo chuông vàng, ngọn cờ cắm ngù lông trĩ. Tráng sĩ giữ cờ là Một diện mục Tiêu Đĩnh, hai tướng cưỡi ngựa hộ vệ cờ súy là Mao đầu tinh Khổng Minh và Độc hoả tinh Khổng Lượng, xung quanh là hai mươi bốn quân sĩ mặc giáp sắt cầm lang nha côn. Tiếp sau là hai lá cờ lĩnh chiến, dưới bóng mỗi cờ là hai mươi bốn quân sĩ cầm phương thiên họa kích. Trên lá cờ của viên tướng chỉ huy đội quân cầm phương thiên hoạ kích đứng phía bên trái đề rõ "tiểu Ôn Hầu Lã Phương". Trên lá cờ của viên tướng chỉ huy đội quân cầm phương thiên họa kích đứng bên phải đề rõ "trại Nhân Quý Quách Thịnh". Hai tướng đều cầm họa kích cưỡi ngựa đứng hai bên. Phía trong là quân bộ cầm đinh ba do hai viên kiện tướng quân bộ là Lưỡng đầu xà Giải Trân và Song vĩ yết Giải Bảo. Hai tướng cầm đinh ba xoè hình hoa sen, mỗi người chỉ huy một đội quân bộ bảo vệ trung quân. Theo sau là hai đầu lĩnh chuyên việc giấy tờ trông coi việc định công phạt tội. Phía bên trái là Thánh thủ thư sinh Tiêu Nhượng chuyên giữ việc văn thư của Lương Sơn Bạc, bên phải là Thiết diện khổng mục Bùi Tuyên chuyên quản nhân sự ở Lương Sơn Bạc. Đứng sau là hai mươi bốn viên quân sĩ mặc áo màu tím chuyên giữ việc quân pháp tay cầm đao Na Tra, hai đầu lĩnh chỉ huy mặc áo gấm thêu ba hình vòng xuyến là Thiết tí bác Sái Phúc và Nhất chi hoa Sái Khánh. Tiếp sau là đội quân thương vàng thương bạc, bên trái là mười hai quân sĩ cầm thương vàng, viên kiện tướng ngồi trên lưng ngựa là Kim thương thủ Từ Ninh, bên phải là mười hai quân sĩ cầm thương bạc, viên kiện tướng ngồi trên lưng ngựa là Tiểu lý Quảng Hoa Vinh. Quân sĩ cả hai đội đều chít khăn đen, bên mái tóc giắt cành hoa vàng lá xanh, đội quân cầm thương vàng mặc áo xanh, đội quân cầm thương bạc mặc áo tía. Tiếp theo là các hàng quân bộ áo gấm mũ hoa trương cờ đỏ, cờ trắng thêu búa vàng, hai mươi bốn đội quân sĩ cầm roi lệnh. Chính giữa là ba con tuấn mã thắng yên thêu đứng dưới ba chiếc lọng vàng. Đứng trước ngựa chiến ở chính giữa là hai tráng sĩ uy nghi lẫm liệt: phía bên trái là đầu lĩnh Thần hành thái bảo Đái Tôn tay cầm cờ thêu chữ "lệnh" màu vàng, chuyên lo việc đi lại phi báo truyền đạt mệnh lệnh trong quân. Phía bên phải là vị tướng đeo cung tên tay cầm gậy Tề mi. Đó là Lãng tử Yến Thanh, vị đầu lĩnh tài hoa thường giúp việc cơ mật ở trung quân. Phía sau là các tướng chỉ huy trung quân. Ngồi trên lưng ngựa yên thêu dưới lọng vàng phía bên phải là vị đạo sĩ có danh tiếng mặc áo lông chim, đó là Nhập vân long Công Tôn Thắng có tài hô gío gọi mưa, sai khiến quỷ thần. Công Tôn Thắng ngồi trên ngựa, lưng đeo hai thanh bảo kiếm, tay cầm cương ngựa đính ngù tơ màu tía. Ngồi trên lưng ngựa dưới lọng vàng phía bên trái là vị đầu lĩnh tay cầm chiếc quạt lông, bên lưng giắt hai thanh đồng giản. Đó là Trí đa tinh Ngô Dụng, vị quân sư tinh thông thao lược, giỏi dùng binh pháp. Chiếc lọng vàng ở chính giữa là của Đại nguyên suý thống lĩnh trung quân. Đó là Cập thời vũ Hô bảo nghĩa Tống Công Minh, vị thủ lĩnh Lương Sơn Bạc, đeo đai khoác giáp, tay cầm côn ngô bảo kiếm ngồi trên lưng tuấn mã trắng phủ yên vàng, dừng cương trước trận. Phía sau đại nguyên suý là ba mươi lăm viên phó tướng hàng ngũ chỉnh tề ngồi trên ngựa chiến, tay cầm thương đao, vai đeo cung nỏ. Tiế theo đó là đội hai mươi quân sĩ đeo tù và đứng bên cạnh đội trống nhạc. Sau trung quân là hai đội du binh đứng hai bên để bảo vệ trung quân.Hai đội tả hữu dực do hai tướng chỉ huy, bên trái là Một già lan Mục Hoằng cùng em là Tiểu già lan Mục Xuân chỉ huy một nghìn năm trăm quân mã bộ. Bên phải là Xích phát quỷ Lưu Đường cùng Cửu vĩ quy Đào Tông Vượng chỉ huy một nghìn năm trăm quân mã bộ. Tiếp nữa là đội quân do ba nữ tướng đầu lĩnh chỉ huy: giữa là Nhất trượng thanh Hổ Tam Nương, bên trái là Mẫu đại trùng Cố Đại Tẩu, bên phải là Mẫu dạ xoa Tôn Nhị Nương. Sát hậu quân là quân của ba đầu lĩnh, chồng của ba nữ tướng đứng trên: giữa là Nuỵ cước hổ Vương Anh, bên trái là Tiểu uý trì Tôn Tân, bên phải là Thái viên tử Trương Thanh. Dưới quyền sáu tướng là hai nghìn quân mã bộ.Khu mật sứ Đồng Quán đứng trên tướng đài giữa trận quan sát toàn bộ thế trận binh mã của quân Lương Sơn Bạc. Cả trận ấy chỉ trong chốt lát có thể chuyển thành trận Cửu cung bát quái. Quả là quân hùng tướng mạnh, khiến địch quân phải khiếp vía kinh hồn. Đồng Quán bất giác thốt lên:- Quân tướng bọn chúng hùng mạnh như thế, chả trách quan quân nhiều lần đánh dẹp đều phải thua bại mà về.Đồng Quán xem xét một lúc bỗng nghe bên trận quân Tống Giang chiêng trống vang lên, Đồng Quán vội xuống dưới tướng đài phóng ngựa lên phía trước hỏi các tướng:- Ai dám xuất trận đánh trước?Một viên mãnh tướng từ trong đội tiên phong thúc ngựa đến nghiêng mình thưa:- Thưa đại nguyên suý, tiểu tướng xin ra trước!Viên mãnh tướng ấy là đô giám Trịnh Châu Trần Chử. Trần Chử mặc chiến bào trắng khoác áo giáp bạc, cưỡi ngựa chiến phủ yên xanh tua cương đỏ, quen dùng đao lớn cán dài, giữ chức phó tiên phong. Đồng Quán sai nổi ba hồi trống trận, kỳ thủ đứng trên tướng đài liền phất cờ đỏ đốc chiến. Trần Chử từ dưới môn kỳ phóng ngựa ra trước trận. Quân hai bên hò reo trợ chiến. Trần Chử dừng ngựa, cầm ngang trường đao, cất tiếng quát to:- Quân thiên triều đến đây, bọn giặc cỏ sao không sớm quy hàng? đợi khi thịt nát xương tan còn hối sao kịp?Bên quân Tống Giang, đầu lĩnh tiên phong là hổ tướng Tần Minh từ phía chính nam thúc ngựa ra trước trận. Tần Minh không thèm đối đáp, bèn múa lang nha côn xông vào đánh Trần Chử. Hai ngựa quần nhau, lang nha côn và trường đao vung múa qua lại vun vút. Hai tướng đánh trên hai mươi hiệp, Tần Minh đánh dứ một đường. Trần Chử xông vào đánh hụt, Tần Minh liền đánh xuống một gậy đúng giữa đỉnh đầu, Trần Chử lăn nhào chết ngay dưới chân ngựa. Hai phó tướng của Tần Minh là Đan Đình Khuê và Nguỵ Định Quốc liền phóng ngựa tới bắt lấy tuấn mã của Trần Chử dẫn về trận nhà.Song thương tướng Đổng Bình ghìm ngựa đứng dưới môn kỳ phía đông nam. Thấy Tần Minh lập được công đầu, Đổng Bình thầm nghĩ: "đại quân nhuệ khí đang hăng, không nhân lúc này bắt sống Đồng Quán thì còn đợi bao giờ?". Nghĩ đoạn, Đổng Bình hét to một tiếng như sấm động rồi hai tay cầm hai thương thúc ngựa xông đến đánh. Đồng Quán thấy tình thế bất lợi, liền quay ngựa chạy về trung quân. Dưới môn kỳ tây nam, phiêu kẹy tướng Cấp tiên phong Sách Siêu cũng thốt lên: "không bắt sống Đồng Quán thì còn đợi bao giờ?". Nói đoạn Sách Siêu bèn vung búa lớn thúc ngựa đến đánh Đồng Quán. Tần Minh ở giữa trận thấy Đổng Bình, Sách Siêu từ hai phía đánh vào, bèn vẫy hiệu cho đội quân mã cờ đỏ tiến ào sang đánh xáp với quân triều đình để bắt sống Đồng Quán. Đúng là:Một lần đã trót lỡ,Trăm họa đổ dồn ngay.Chỉ biết trước rằng:Mấy cặp diều đen bắt én tím,Một đàn hổ dữ nuốt dê con.Chưa biết tính mạng Đồng Quán ra sao, xem hồi sau sẽ rõ.