ẻ ngoài của Teleborian khiến người ta tin cậy khi ông ngồi vào khoang nhân chứng trong phòng xét xử, sáng thứ Sáu. Công tố viên Ekstrom hỏi ông trong chừng chín chục phút và ông trả lời từng câu với vẻ oai vệ bình thản. Nét mặt ông đôi khi e ngại, đôi khi thích thú.
- Tóm lại..., - Ekstrom nói, lật giở từng tờ trong thếp giấy của ông. - Là bác sĩ tâm thần lâu năm ông đã xét đoán Lisbeth Salander bị mắc tâm thần phân liệt hoang tưởng phải không?
- Tôi đã nói rằng đánh giá chính xác bệnh trạng của cô gái là cực kỳ khó. Như ông biết, trong quan hệ với bác sĩ và những người có quyền lực khác, người bệnh này gần như tự kỷ. Tôi khẳng định rằng cô gái bị rối loạn tâm thần nặng nhưng vào thời điểm đó tôi chưa thể cho ra một chẩn đoán đúng. Thiếu nghiên cứu mở rộng, tôi cũng không thể cả quyết bệnh tâm thần của cô ấy nó ở vào mức độ nào.
- Dẫu sao ông cũng không coi cô ấy là lành mạnh.
- Thật ra toàn bộ lý lịch cô ấy đã cho ra bằng chứng thuyết phục nhất là cô ấy không lành mạnh rồi.
- Ông đã được phép đọc cái mà Lisbeth Salander đặt tên cho là “tự thuật” và trình nộp cho tòa án quận. Ông hình luận như thế nào về cái đó?
Teleborian giơ hai tay lên, nhún vai.
- Ông sẽ xét đoán mức độ tin cậy của nó như thế nào đây?
- Không có độ tin cậy nào hết. Ðây là một loạt những khẳng định về nhiều cá nhân khác nhau, một câu chuyện hoang đường hơn mọi câu chuyện khác. Nhìn như một tổng thể thì lời giải thích thành văn của cô gái đã xác nhận các mối nghi ngờ của chúng tôi từng cho rằng cô ấy mắc chứng bệnh tâm thần phân liệt hoang tưởng.
- Ông có thể cho một thí dụ không?
- Ðiều lộ liễu nhất dĩ nhiên là mô tả cái việc mà cô ấy cho là bị luật sư Bjurman, người giám hộ của cô ấy cưỡng hiếp.
- Ông có thể nói rộng hơn nữa về chỗ này không?
- Mô tả cực kỳ là chi tiết. Ðây là thí dụ kinh điển về kiểu hoang tưởng lố lăng mà trẻ con thường có khả năng làm nổi. Có nhiều thí dụ tương tự của các vụ loạn luân gia đình trong đó đứa trẻ kể ra một câu chuyện không đâu đến đâu vì tính chất hết sức phi lý của nó, do đó không thể có bằng chứng pháp y. Đấy là những hoang tưởng dâm ô mà ngay cả những đứa trẻ ít tuổi cũng có thể có được... Gần giống như chúng đang xem một bộ phim kinh hoàng ở trên tivi vậy.
- Nhưng Lisbeth Salander không là một đứa trẻ mà là một phụ nữ trưởng thành, - Ekstrom nói.
- Đúng thế. Tuy nhiên vẫn cứ cần nhìn nhận chính xác xem mức độ bệnh tâm thần của cô ấy là có thể đến đâu. Nhưng về cơ bản ông nói đúng. Là một phụ nữ trưởng thành, cô ấy chắc phải tin vào câu chuyện cô ấy trình bày.
- Vậy mà ông lại nói tất cả đều là dối trá.
- Không. Nếu cô ấy tin vào những cái cô ấy nói thì đó lại không là dối trá. Ðây là câu chuyện kể cho thấy cô ấy không phân biệt được hoang tưởng với thực tế.
- Vậy là cô ấy không bị luật sư Bjurman cưỡng hiếp phải không?
- Không. Xem ra ở tất cả điểm này không có một chút nào như thế hết. Cô ấy cần được chăm sóc chuyên môn.
- Bản thân ông cũng xuất hiện ở trong chuyện kể của Lisbeth Salander...
- Vâng, và thế mới đủ kích thích sự tò mò. Nhưng xin nói lại, mẩu bịa đặt này là do cô ấy tưởng tượng ra. Nếu chúng ta phải tin cô gái tội nghiệp ấy thì tôi đã là một thứ gì đó ngang hàng với một tên mắc bệnh háo tính dục với trẻ con mất rồi...
Ông ta mỉm cười, đoạn nói tiếp.
- Nhưng tất cả đây chỉ là một biểu hiện khác nữa của điều tôi đã nói đến trước đây. Trong bản tự thuật, Lisbeth Salander viết rằng do buộc phải sống giam hãm lâu dài ở bệnh viện Thánh Stefan nên cô ấy đã bị lạm dụng. Rằng ban đêm tôi đã vào phòng cô ấy. Ðây là biểu hiện kinh điển về chỗ cô ấy không có khả năng diễn giải thực tế hay đúng hơn, cô ấy mô tả hiện thực theo cách hiểu của cô ấy.
- Cảm ơn ông. Tôi nhường lời cho bên bị, nếu như bà Giannini có điều gì cần hỏi.
Do trong một hai ngày đầu của phiên tòa Giannini không hỏi hay phản đối nên những người trong phòng xét xử đã chờ chị sẽ lại hỏi vài ba câu cho phải lệ một lần nữa rồi buổi chất vấn sẽ kết thúc. Bên bị đúng là đang cố gắng nhưng hụt hơi nên đâm ra lúng túng rồi đây, Ekstrom nghĩ.
- Vâng, tôi hỏi, - Giannini nói. - Thực ra tôi có một số câu hỏi và cần kha khá thời gian. Bây giờ là 11 rưỡi. Tôi có thể đề nghị chúng ta hãy nghỉ giải lao ăn trưa rồi sau đó tôi được phép tiến hành hỏi chéo luôn không cần nghỉ nữa không ạ?
Thẩm phán Iversen tán thành tòa nên ngừng để ăn trưa.
*
Có hai sĩ quan đồng phục đi bên khi Andersson đặt bàn tay đồ sộ của ông lên vai sĩ quan cảnh sát cao cấp Nystrom ở ngoài nhà ăn Master Anders trên đường Hantverkargatan đúng giữa trưa. Nystrom ngạc nhiên ngước nhìn người đang chìa thẻ cảnh sát ra trước mũi ông.
- Chào. Ông bị bắt, nghi can đồng phạm giết người và mưu toan giết người. Tổng công tố viên sẽ nói rõ với ông những lời buộc tội trong buổi xét xử chiều nay. Tôi gợi ý là ông nên yên lành đi theo chúng tôi, - Andersson nói.
Nystrom có vẻ không hiểu lời lẽ Andersson nói nhưng có thể thấy rằng ông này là người mà bạn cứ việc mà đi theo thôi chứ đừng phản đối.
*
Đúng giữa trưa, khi được Stefan Bladh chấp nhận, thanh tra Bublanski có thanh tra Modig và bảy sĩ quan đồng phục đi cùng đã bước vào khu vực khóa kín là cơ ngơi của Cảnh sát An ninh ở Kungsholmen. Họ theo Bladh đi qua các hành lang cho tới khi ông ta dừng lại chỉ vào một cửa văn phòng. Trợ lý của Chánh văn phòng ngước lên, rất ngơ ngác khi Bublanski chìa thẻ cảnh sát ra.
- Ở đâu thì ngồi yên đấy. Đây là cảnh sát đang làm việc.
Ông đi vào cửa trong. Chánh văn phòng Albert Shenke đang nói điện thoại.
- Gì mà xộc vào thế hả? - Shenke nói.
- Tôi là thanh tra hình sự Ian Bublanski. Ông bị bắt vì vi phạm Hiến pháp Thụy Ðiển. Trong bản buộc tội có một danh sách dài những điểm đặc biệt, ông sẽ được giải thích về những điểm này chiều hôm nay.
- Thế này thì quá đáng quá, - Shania nói.
- Phần lớn chắc là thế, - Bublanski nói.
Ông cho niêm phong văn phòng của Shenke lại rồi đặt hai sĩ quan gác ở ngoài cửa, lệnh không cho bất cứ ai bước qua ngưỡng cửa. Họ được phép dùng dùi cui, thậm chí rút súng nếu ai đó cố dùng sức mạnh để vào trong gian phòng niêm phong.
Họ tiếp tục diễu hành xuôi hành lang cho đến khi Bladh chỉ vào một cánh cửa khác và thủ tục lại được làm lại với Chánh Thủ quỹ Gustav Atterbom.
*
Thanh tra Holmberg có đội phản ứng vũ trang yểm hộ khi vào đúng giữa trưa ông gõ cửa một văn phòng thuê tạm trên tầng bốn đối diện ngay với tòa báo Millennium ở trên đường Gotgatan.
Do không ai mở cửa nên Holmberg ra lệnh cảnh sát Sodermalm phá khóa, nhưng chưa đụng đến xà beng thì cửa đã hé mở.
- Cảnh sát, - Holmberg nói. - Giơ tay lên rồi đi ra.
- Chính tôi cũng là cảnh sát đây, - thanh tra Martensson nói.
- Tôi biết. Và ông có giấy phép dùng rất nhiều súng.
- Vâng, ờ... Tôi là sĩ quan đang thừa hành nhiệm vụ.
- Tôi thì không nghĩ thế, - Holmberg nói.
Ông bằng lòng cho các đồng nghiệp giúp xô Martensson vào tường để ông tịch thu súng công vụ của Martensson.
- Ông bị bắt vì tội nghe trộm phi pháp điện thoại, bỏ bê phận sự, đột nhập nhều lần nhà Blomkvist ở đường Bellmansgatan, và còn nhiều cáo buộc nữa. Còng tay ông ta lại.
Holmberg nhìn nhanh khắp gian phòng, thấy thiết bị điện tử ở đây đủ trang bị cho một phòng ghi âm ghi hình. Ông cắt cử một sĩ quan gác hiện trường, dặn anh ta ngồi yên trên ghế để không dây vân tay vào thứ gì ở đây.
Trong khi họ giải Martensson qua cửa trước tòa nhà, Cortez chụp liền một loạt hai mươi hai bức ảnh bằng chiếc Nikon của anh. Dĩ nhiên anh không phải là thợ ảnh chuyên nghiệp, chất lượng ảnh còn có chỗ chưa ổn. Nhưng ngay hôm sau một tờ báo chiều đã mua các bức đẹp nhất với một món tiền béo bở đến rùng mình.
*
Figuerola là sĩ quan cảnh sát duy nhất tham gia vào trận vây bắt ngày hôm đó mà gặp phải sự cố bất ngờ. Cô được đội cảnh sát Norrmalm và ba đồng nghiệp ở SIS yểm hộ lúc giữa trưa cô đi bộ qua cửa trước tòa nhà trên đường Artillerigatan rồi leo thang gác lên căn hộ tầng thượng được đăng ký với tên Liên doanh Bellona.
Kế hoạch trận đánh vừa mới được lập xong. Nhóm người vừa tập hợp ở ngoài cửa căn hộ, cô lập túc ra lệnh xông vào. Hai sĩ quan lực lưỡng của cảnh sát Norrmalm vung cây búa tán thép nặng bốn chục ký lên nhằm rất trúng phang cho hai cú và cửa mở. Mặc áo chống đạn và mang súng xung phong, nhóm của cô kiểm soát căn hộ trong vòng mười giây sau khi phá toang cửa.
Theo giám sát hồi sớm tinh mơ hôm ấy thì năm cá nhân được nhận diện là thành viên của bộ phận sẽ đến đây sáng nay. Nay cả năm đều đã bị bắt và còng tay.
Figuerola mặc áo chống đạn. Ði khắp hết căn hộ, nó là sở chỉ huy của Bộ phận từ những năm 60, cô lần lượt mở tung các cửa. Cô sẽ phải cần đến một nhà khảo cổ để chọn lọc xếp sắp hàng tập hàng tập giấy chất đầy trong các gian phòng.
Vào căn hộ được giây lát, cô mở cửa một gian phòng nhỏ ở phía sau nhà thì phát hiện ra đó là chỗ dùng để qua đêm. Cô đã mắt đối mắt với Jonas Sandberg. Trong buổi phân công phân nhiệm sáng nay, Sandberg đã là một dấu hỏi khi sĩ quan kiểm soát theo dõi hắn đã để mất dấu vết hắn từ tối hôm trước. Xe hắn đỗ ở Kungsholmen và suốt đêm hắn không có ở nhà. Sáng nay họ không ngờ lại tìm ra và tóm được hắn.
Chúng cử người ở đây qua đêm cho an toàn đây mà. Ðúng thế. Và sau ca trực đêm, Sandberg đã ngủ quên.
Sandberg chỉ có chiếc quần lót. Và hình như còn ngái ngủ. Hắn với lấy súng công vụ ở trên bàn đầu giường nhưng Figuerola đã cúi xuống gạt khẩu súng xuống sàn ra xa hắn.
- Jonas Sandberg... ông bị bắt vì là nghi can và đồng phạm của các vụ giết Gunnar Bjorck và Alexandre Zalachenko, cũng như là kẻ tiếp tay trong các vụ muu giết Mikael Blomkvist và Erika Berger. Bây giờ mặc quần vào.
Sandberg đấm Figuerola một quả. Theo bản năng cô đỡ cú đấm.
- Ông chắc định đùa đây, - Cô nói.
Cô nắm lấy cánh tay hắn rồi vặn mạnh đến nổi hắn buộc phải ngã xuống sàn. Cô hất hắn nằm úp sấp xuống, chẹn đầu gối lên eo lưng hắn. Cô tự còng tay hắn lại. Từ ngày vào SIS, đây là lần đầu tiên trong khi làm nhiệm vụ cô dùng còng tay.
Cô đưa Sandberg cho một người trong nhóm yểm hộ rồi tiếp tục đi soát hết căn nhà cho đến khi cô mở cánh cửa cuối cùng ở tận cuối nhà. Theo bản đồ nhà, đây là một gian xép nhìn ra sân. Cô dừng lại ở lối ra vào, nhìn một bộ mặt hốc hác cô chưa hề trông thấy. Không một giây lát nào cô nghĩ rằng đây là một người đang ốm sắp chết.
- Fredrik Clinton, ông bị bắt vì là kẻ tiếp tay giết người, mưu toan ám sát và vì một danh sách dài các tội ác khác, - cô nói. - Nằm im trên giường. Chúng tôi gọi xe cứu thương đưa ông về Kungsholmen.
Malm đỗ xe ngay ở ngoài tòa nhà trên đường Artillerigatan. Không như Cortez, anh biết cách dùng chiếc Nikon số. Anh dùng ống kính têlê chụp xa và các ảnh anh chụp có chất lượng tốt.
Chúng cho thấy các thành viên của Bộ phận bị dẫn từng người một qua cửa chính rồi vào xe cảnh sát. Cuối cùng xe cứu thương đến nhặt Clinton. Mắt ông ta nhìn lâu vào ống kính khi máy bấm kêu xẹt. Nom ông căng thẳng và bối rối.
Rồi sau đó người chụp ảnh đã được nhận Giải thưởng Bức ảnh đẹp nhất của năm.