- Cha ơi, cha!... cha!... Tiếng thét của một đứa bé khiến ông tỉnh giấc,và, dường như tức khắc, một cú đánh sau gáy khiến ông choáng váng mặt mày. - Cha ơi!....Cha!... Tiếng thét vọng từ dưới thung lên, âm vang láy vọng giữa các vách đá, lay động các vòm cây, tạo nên những đợt sóng vô hình làm xao động một không gian bao la lặng ngắt. Sau một lát định thần, ông hiểu rằng tiếng thét ấy là của một đứa trẻ khác: « Không phải nó, không phải thằng bé.... » Ông tự nhủ. Cảm giác đau nhói phía sau gáy cũng như cơn khắc khoải nguôi dần. Chủ tịch đứng dậy, bước ra khỏi phòng, hỏi người lính gác: - Có chuyện gì vậy? - Dạ....Có lẽ một tai nạn vừa xảy ra dưới thung lũng. Ai đó đã ngã từ ngọn cây hoặc mỏm đá rơi xuống vực. Đúng lúc ấy, tiếng còi báo động rú lanh lảnh trong khu đồn trú của đại đội bảo vệ bên dưới. Trời lặng gió nên ông nghe rất rõ tiếng lao xao của đám lính đang tập hợp đi cứu hộ. - Cha!...Cha ơi cha!... - Cha ơi!....Có ai cứu cha tôi?....Bớ làng nước ơi....Bớ làng nước ơi, cứu cha tôi.... Lần này, ông nghe tiếng kêu thảm thiết của đứa bé. Tiếng kêu của một đứa con trai đang vào tuổi dậy thì. Tiếng kêu ấy chung chiêng giữa sự thơ ngây với cảm thức của lứa thiếu niên đã quay đầu về phía con đường của tuổi trưởng thành. Trong tiếng kêu ấy, ông đọc thấy sợi dây của tình huyết mạch rung lên biết bao nhiêu làn điệu khác biệt. Cùng một khoảnh khắc, hiện lên chiều sâu thăm thẳm của những năm tháng cộng sinh, tình yêu và những giằng trói vô hình, nỗi đớn đau trước cuộc biệt ly không trù tính, sự kinh hoàng trước một tương lai vô định....Tất thảy những tình cảm ấy cùng phóng chiếu một lần, như những luồng ánh sáng khác chiều giao thoa trên một điểm. Cái tụ điểm ấy, ông hiểu rành rọt, là mắt xích cốt lõi nhất trong nhân thế, mối quan hệ có thể đi đến tột cùng sự thăng hoa cũng như chót điểm sự đồi bại, mối quan hệ làm đổ biết bao nhiêu mực trong lịch sử của con người. Đó chính là phức điệu của tình phụ tử, bản giao hưởng xa xưa nhất của thập loại chúng sinh. Thứ âm nhạc cổ lỗ mà ngọn triều thời gian đã huỷ diệt một cách hoài công. « Có lẽ nó cũng xấp xỉ tuổi thằng bé. Cùng một lứa tuổi nhưng ít may mắn hơn. » Ông thầm nghĩ, và hình dung gương mặt đứa con trai vào lúc này. Đứa con trai mà ông đã cố tình quên nhưng không khỏi nhớ. Đứa con trai mà ông đã tự ngăn cấm gần gụi suốt một thập kỉ nhưng giờ đây quay về ngự trị ngay giữa trái tim ông, nơi cư trú an toàn nhất cho nó và nơi mang lại sự bất toàn cho chính ông. Ở nơi ấy, hình ảnh của nó được thêu dệt mỗi ngày theo trí tưởng tượng cũng như theo nỗi sầu thương. Ở nơi ấy, sự hiện diện của nó đốt lên ngọn lửa hoả ngục, ngọn lửa ấy thiêu cháy ông mỗi ngày. « Nó giống ai bây giờ nhỉ? Nó giống nàng hay ta? Hẳn là nó phải có một gương mặt tuấn tú?» Đã bao nhiêu lần, ông tự hỏi. Bấy nhiêu lần, sự câm lặng đáp lời. Ông nhớ rõ rành khi mới lọt lòng đến sáu tháng tuổi, nó mang hình vóc người chị gái của ông, từ sống mũi, làn môi, nét đằm thắm khi cười, đặc biệt là những món tóc dày rậm phủ xuống hai bên thái dương và trước trán. Nhưng rồi từ tháng thứ bẩy cho đến một năm, mọi đường nét bỗng biến đổi và thằng bé trở nên giống mẹ nó một cách lạ lùng. Sự thay đổi này khiến tất cả mọi người đều ngạc nhiên, trước hết là ông, rồi đến nàng, và sau đó người chị lớn tuổi của nàng, Nàng Đông, thời niên thiếu đã nuôi em và đến tuổi ba mươi lại dang tay nuôi cháu. « Ồ...Nó đã đến tuổi dậy thì. Năm tháng trôi đi như tên bắn... » Bất giác ông buông tiếng thở dài, không để ý người cận vệ đã đứng sau lưng: - Thưa chủ tịch, người có chỉ thị gì không? - Chỉ thị? Ông hỏi lại rồi chợt nhận ra vẻ xao nhãng của mình: - Chú đã thấy anh em tập hợp bên dưới đi cứu hộ. Chỉ có tôi và chú đứng ở đây. Chúng ta là những người vô dụng. - Dạ, thưa chủ tịch.... Người lính ấp úng, cổ anh ta đỏ ửng lên. Rồi khuôn mặt và hai bàn tay cũng rần rần đỏ nốt. Anh ta lùi lại, nhìn ông với cặp mắt nhớn nhác, hoang mang. Ông chợt nhận ra sự hớ hênh của mình: - Ồ, tôi muốn nói rằng trong lúc này, chú và tôi là hai kẻ vô dụng vì chúng ta không thể chạy xuống thung lũng giúp đỡ nạn nhân. Nhưng ngoại trừ lúc này, chúng ta đều là những người hữu ích, ai gánh vác phận sự của người nấy.... - Dạ.... Anh lính cất tiếng thở phào. Gương mặt to béo vừa đỏ rực vừa bóng nhẫy mồ hôi. Chủ tịch vỗ vai chàng trai: - Tôi nói thế để đùa chơi. Đừng coi làm trọng. Đoạn ông mỉm cười chỉ sang bên chùa, nơi tiếng tụng kinh và tiếng gõ mõ vang lên không ngớt từ sáng sớm: - Chẳng có việc gì lúc này. Chú sang bên chùa ngồi chơi cho đỡ mỏi. Nói đoạn, ông quay lại phòng trong, gieo mình xuống gối. Ở phòng ngoài, chú lính béo cũng đã nhẹ nhàng đóng cửa rồi đi. Tiếng bước chân nện trên bậc tam cấp và trên sân chùa chìm dần trong nhịp gõ đều đặn của tiếng mõ. Tiếng mõ vang vọng giữa không gian, khiến ông nhớ lại tiếng nước nhỏ giọt trong một hang núi nhiều thạch nhũ. Ấy là tiếng trôi chảy của thời gian, thứ âm điệu vĩnh hằng. Sáng nay, từ lúc trời còn tối đen, ông đang nằm trên giường đã nghe tiếng thì thầm của sư nữ với hai chú lính gác ca đêm trước cửa: - Hôm nay nhà chùa phải đọc kinh sớm vì có chuyện cần thiết. Không hiểu điều đó có khiến chủ tịch phiền lòng hay không? - Ồ không! Dứt khoát là không. Phải để chủ tịch ngủ cho yên giấc. - Các chú thông cảm. Một năm có ba trăm sáu mươi nhăm ngày, nhà chùa chỉ dám phiền chủ tịch, đọc kinh bất cập lệ sớm nay thôi... Nghe tới đó, ông trở dậy khoác áo bông bước ra can thiệp: - Các chú cử để nhà chùa tụng kinh. Tôi thức dậy lâu rồi. - Mô phật, xin đa tạ từ tâm của người. Sư nữ chắp tay hình búp sen, cúi đầu thật thấp để tạ ơn. Rồi chị ta lùi lại, cầm cây đèn hoa kì đặt sát chân tường, quay về chùa. Trời còn tối đen, sương vây như khói, vạt áo dài nâu của người đàn bà tu hành bay lật phật trong sương gợi nên một cảm giác lạ lùng. Và cây đèn dầu di động trong đêm cũng nhắc nhở một hình ảnh đã từ lâu vùi lấp trong dĩ vãng. Ông không còn muốn nằm tiếp nên bật đèn ngồi đọc sách. Nhưng chẳng một con chữ nào lọt vào óc khi tai ông dỏng lên nghe kinh và tiếng mõ. Ngồi như thế giờ lâu, trong trạng thái hoàn toàn trống rỗng, ông lật những trang sách một cách máy móc và nghe thứ âm nhạc buồn bã, tẻ nhạt của nhà chùa vẳng đến như dòng chảy của một con sông lặng lờ, hoặc của một dòng mương khe khẽ rì rào giữa hai bờ cỏ. Sau cùng, ông hiểu rằng hình ảnh mà ông khổ công tìm kiếm chính là hình ảnh của mẹ ông, thời xa xôi. Vào một đêm đông giá buốt, mù sương, bà cũng cầm cây đèn dầu như thế đi qua sân, vạt áo dài của bà cũng bay lật phật trong sương đêm như vậy. Bà đi xuống chuồng trâu để bỏ thêm trấu vào đống dấm. Những đêm rét dữ, nếu không giữ được ngọn lửa âm ỉ để sưởi ấm, trâu dễ chết hoặc bị cước chân và không thể cầy ruộng. Ngày đó, ông trạc bốn hay năm tuổi, đang rúc trong nách mẹ ngủ thấy bà bỏ đi liền nhỏm dậy, ngồi thu lu trong chăn thò cổ nhìn theo. Hình dáng mảnh dẻ của người đàn bà thôn dã, vạt áo dài nâu mềm mại cuốn bay, cánh tay ấm áp và mùi thơm sữa mẹ....Hương vị của một quá khứ xa lơ xa lắc bỗng quay về. Một nỗi nghẹn ngào câm lặng dâng lên trong ông. Cùng với nó, mối sầu thương không thể cắt nghĩa. - Ồ, phi lý! Ông bật tiếng kêu. Đoạn cất cuốn sách đi, ông tìm đống báo để đọc tin tức. Nhưng tin tức ngày nào cũng giống ngày nào, ông biết từ lâu như vậy. Có nghĩa lý gì khi tiếp tục ăn một món ăn được xào nấu từ bàn tay một đầu bếp năm này qua tháng khác? Sự ngao ngán xâm chiếm cả óc não lẫn chân tay ông. Hình ảnh người đàn bà áo nâu lại quay về, để khêu gợi tuổi thơ xa xôi của ông. Rồi cái đứa bé năm tuổi ngồi trong giường nhìn theo mẹ lại kéo theo nỗi nhớ một thằng bé khác...Cứ như thế, ông quanh quẩn trong hoả ngục của trái tim mình. Khoảng chín giờ, ông cảm thấy như ngạt thở. Chờ cho cậu lính béo thu dọn ấm trà sáng, ông bảo: - Tôi muốn vào rừng dạo chơi một lát. Chú chuẩn bị trong mươi phút rồi ta đi. - Dạ, không được! Cậu lính hốt hoảng kêu lên tức khắc. Rồi nhìn vẻ mặt bất bình của ông, cậu ta hạ giọng phân trần: - Thưa chủ tịch, hôm nay không thể vào rừng được. Xin người thông cảm. Ông đáp lời, cố ngăn lại cảm giác bực dọc: - Trời tuy lạnh nhưng tạnh ráo. Tôi mặc áo bông là đủ. - Thưa chủ tịch, hôm nay là ngày hắc đạo. Chiều qua sư nữ bảo con như vậy. Ngày hôm nay là ngày xấu nhất trong cả năm. Sáng nay nhà chùa tụng kinh sớm là vì vậy. - Ra thế. Nhưng chú còn trai trẻ mà cũng tin mấy chuyện ấy sao? - Dạ.... Chàng lính ấp úng như gà mắc tóc, rồi sau một lát ngắc ngứ cậu ta bỗng nhiên trả lời một cách quyết liệt: - Con tin. Con không sợ cho con nhưng con có nhiệm vụ phải bảo vệ người. Chúng ta không thể vào rừng được. Lần đầu, ông thấy gã trai hiền lành này có một vẻ cương quyết dị thường như vậy. Ông mỉm cười im lặng. Sự im lặng do vì nể. Muốn hay không ông cũng phải thầm công nhận rằng gã trai béo tốt này là món quà hậu hĩnh trời cho. Tuy nhiên, ông không ngờ là những lo sợ phỏng chừng của anh ta lại trở thành sự thật: Kể từ ngày ông đến chùa Lan Vu, đã mười tám tháng tròn, hôm nay là lần đầu tai nạn xảy ra. Tai nạn của người cha. Và tiếng kêu khóc của đứa con dẫn ông quay lại địa ngục của mình: Nỗi thiếu vắng đứa con trai dội lên như cơn đau ác tính của chứng ung thư, hành hạ ông không thương tiếc. Tim ông giống như con chim non đỏ hỏn trần trụi rơi xuống bụi gai dầy. Nằm trên giường, ông lấy hai tay che mắt và thầm hỏi: ― Liệu mai đây, nó có khóc thương ta vào ngày ta chết? Nó có cất tiếng kêu thảm thiết như đứa bé dưới thung lũng kia? „ Một giọng khinh bạc cất lên tự nơi nào đó trong sâu thẳm tâm hồn, như giáng một cái tát tàn nhẫn vào giữa mặt: ― Thôi đi, nào ai cho nó biết cha nó là ai?....Làm sao nó có thể dò tìm được tung tích của mình, khi chính người cha xoá đi mọi dấu vết trên con đường tìm kiếm?...„ Ông cất tiếng nói với gã quan toà vô hình vô dạng kia, tự thấy yếu hèn trước mặt gã: ― Nhưng cùng thời gian. Tôi hy vọng rằng...với thời gian.‖ Gã quay lưng đi, ném vào ông sự im lặng đầy khinh bỉ. Bất giác, chủ tịch thốt tiếng rên và cảm thấy gương mặt mình đang biến dạng vì tủi nhục. Ông vội vàng úp mặt xuống gối, e ngại có kẻ bất đồ bước vào. Những cơn co thắt bỗng dồn dập kéo đến khiến ngực ông đau nhói từng hồi như bị nhào bóp bởi một bàn tay sắt. Và, bỗng nhiên, ông thèm muốn khóc. Một thứ khát vọng ông chưa từng biết từ thuở lớn khôn cho đến tận lúc này. Một thứ ước muốn lạ lùng nhưng thôi thúc dữ dội, si mê và đau đớn. Ước gì ông có thể khóc thật to, khóc giữa thanh thiên bạch nhật. Ước gì ông có thể khóc hả hê, khóc sầu thảm thống thiết, khóc thênh thang giữa trời thẳm đất dày, khóc miên man hờn tủi như một người đàn bà hay một đứa bé. Ước gì ông có thể thét lên giữa rừng giữa núi như đứa con trai kẻ xấu số vừa ngã xuống vực. Nhưng thay vì gọi: Cha ơi, ông sẽ gọi: Con ơi: - Con ơi! Con trai của cha ơi! - Con ơi! Giọt máu của ta, kẻ nối dõi tông đường của ta, khúc ruột của ta. Trái cây lạc mùa của mối tình đau đớn giữa ta với nàng.... Nhưng ông thể khóc vì đã có tiếng gõ cửa và tức khắc đội trưởng đội cận vệ Lễ bước vào: - Thưa chủ tịch, người không được khoẻ? - Tôi bị một cơn nhức đầu dữ dội. Ông đáp mà không thay đổi tư thế nằm. Giọng Lễ đều đều như tiếng nước nhỏ từ một chiếc vòi bị hở vang lên trong phòng, ông có cảm tưởng mỗi lời của anh ta như một nhát búa gõ vào gáy ông: - Thưa chủ tịch, trà đã pha. Mời người dùng cho nóng. - Chú cứ để đấy cho tôi. - Thưa chủ tịch, xin người cho phép gọi bác sĩ? - Không cần. Ai cũng có lúc phải đau đầu. Tôi biết rõ là không có triệu chứng huyết áp. - Thưa chủ tịch, người đang ở trong thời kì điều trị. - Tôi đã ngừng hai tuần rồi. - Thưa chủ tịch.... Ông buộc lòng phải quay đầu lại, rồi ngồi dậy. Đội trưởng đội cận vệ không hề tỏ ra nao núng, anh ta vẫn đứng sừng sững giữa nhà, khay trà trên tay. Ngày một lần, hoặc sáng hoặc chiều, đội trưởng đội cận vệ trực tiếp phục vụ ông để kiểm tra tình hình sức khoẻ hoặc giám sát các nhân viên dưới quyền mình. Một sự mẫn cán lạ lùng. Một sự chú tâm băng giá. Gương mặt anh ta tầm thường với những nốt tàn nhang to quá cỡ và nhiều cũng quá cỡ khiến màu da anh ta ngả sang nâu đậm khiến người ta lầm tưởng anh ta có gốc tích Ấn độ hay Ả Rập. - Thưa chủ tịch, tuần trà có kèm theo cao Linh-Chi và thuốc tim mạch. Bác sĩ dặn nhất thiết uống khi đang nóng. Vì lẽ đó chúng tôi phải ủ trà trong ấm đặc biệt. - Được rồi. Đặt xuống bàn cho tôi. Ông đáp và thầm nghĩ: « Khốn khổ cho thân ta ; không có một thời khắc nào tránh được những ánh mắt theo rõi... » Đội trưởng Lễ đặt khay trà lên bàn và nhắc lại: - Mời người dùng trà cho nóng. - Cảm ơn. Tôi vừa nghe tiếng thét của cháu bé nào đó dưới thung lũng. Những tai nạn như vầy xẩy ra có nhiều không?... - Không nhiều, nhưng dường như năm nào cũng có, theo như dân quanh vùng nói lại. Chủ tịch chẳng cần băn khoăn nhiều quá, bất lợi cho sức khoẻ. Tôi đã điều đại đội phó dẫn quân xuống núi cứu hộ rồi. - Chính quyền không làm được điều gì hữu ích để ngăn chặn những tai nạn kiểu này hay sao?... - Dạ...Nhưng.... Đội trưởng đội cận vệ đáp, vẻ ngạc nhiên. Rồi mắt anh ta ánh lên một thứ ánh sáng vừa ranh ma vừa xấc xược. Một lần nữa, ông hiểu rằng ông vừa buông ra một câu hỏi dại dột: - Tôi biết rằng thiên tai hay vận mệnh đều vượt quá sức người. Nhưng dẫu sao, chính quyền cũng nên làm điều gì đó. Ít ra là.... - Có chứ ạ! Lễ ngắt lời ông: - Chính quyền chắc chắn sẽ cử người tới giúp cáng bệnh nhân vào viện, bởi từ đây xuống huyện rất xa. Gia đình neo đơn không thể kham nổi. Rồi chính quyền sẽ giúp việc tang ma nếu người bị nạn không qua khỏi. Trước hết là đoàn thanh niên, rồi đảng uỷ xã. Sau đó là các đoàn thể khác. - Tôi muốn đến thăm gia đình người bị nạn. Ông nói. Và chính ông cũng kinh ngạc vì ý tưởng đột ngột của mình. Lễ đứng sững hồi lâu rồi cố gắng nở nụ cười, từ tốn đáp: - Thưa chủ tịch, người vừa qua giai đoạn điều trị, đang còn ở tình trạng phải theo dõi nghiêm nhặt diễn tiến của sức khoẻ. Đến thăm một đám tang vào lúc này là vô cùng bất lợi. Thêm nữa, từ đỉnh núi xuống thung trên ngàn mét. Lính trẻ đi cũng thấm mệt, huống chi... - Các chú đã đưa tôi lên đỉnh núi được? Hà cớ gì thoái thác đưa tôi xuống núi? Ông nhắc lại một cách lạnh lùng. Một lần nữa, đội trưởng đội cận vệ sững sờ vì phản ứng bất thường của chủ tịch. Anh ta đần mặt ra một lát rồi hắng giọng: - Báo cáo chủ tịch, khi đưa người lên núi phải huy động máy bay quân đội. Vào lúc này, mọi phi đội đều bị điều ra mặt trận để chở thương binh. - Sao? Ông cao giọng vặn lại Lễ, với sự tức giận không che giấu: - Tuần nào tôi cũng nhận báo cáo từ văn phòng trung ương đảng. Báo cáo nào cũng tràn ngập tin chiến thắng. Chú định nói gì với tôi? - Dạ... Lễ cúi đầu xuống. Khó mà đọc được những gì diễn ra phía sau vầng trán ngắn nhưng vuông và dựng thẳng lên như một vách đá, vầng trán nổi tiếng vì được coi là giống hệt trán Stalin. Lễ thường khoe khoang và răn đe đồng cấp: « Đừng động vào tao. Đã thấy vầng trán này đích thị kiểu trán Stalin vĩ đại hay chưa?... » Lúc này, đội trưởng đội cận vệ đang cúi gằm mặt xuống suy gẫm. Rồi sau một lát, anh ta khom lưng thật thấp mà nói: - Thưa chủ tịch, nếu người đã quyết, tôi sẽ báo cáo về Hà nội. Chủ tịch đứng lên, bước ra vườn, biết rằng gã đàn ông da nâu đã len lén lui ra. Bây giờ, cơn tức giận bóp nghẹt trái tim ông. Những con sóng nghẹn ngào trào lên họng, và đồng thời trong phổi ông dâng lên những luồng hơi nóng dồn dập. « Sao mà giống những làn hơi phả ra từ lò than của một con tầu.?... » Con tầu đưa ông rời xứ ra đi. Con tầu đưa ông trở lại. Cũng thứ lửa của con tầu ấy bây giờ thiêu đốt tâm can. Một cành mai đâm vào thái dương khiến ông vội vàng nhắm mắt lại. Chính khoảnh khắc ấy, tiếng khóc của đứa bé dưới thung sâu lại vẳng lên. Lần này, thằng bé đã thôi gào thét, tiếng khóc của nó chỉ còn là tiếng ỉ eo hoà cùng tiếng gió. Ông nghĩ: « Chắc đội cứu hộ đã tới rồi... » Ra khỏi vườn, ông nhằm phía cửa tam quan mà bước. Gió đã nổi lên bốn bề. Sau một khoảng thời gian ngưng lặng, gió ào ạt trườn qua các vách núi, dồn đuổi những làn mây sang một góc trời để vén lên một khoảng xanh lơ ngọt ngào trong suốt. Nhờ trời quang, chủ tịch nhìn thấy các cụm rừng bên dưới, khoảng trống giữa các cụm thông, khu nhà của đại đội cận vệ giống những bao diêm xếp thành hàng phía dưới các sườn đá lởm chởm và sát đó, trạm khí tượng xây bằng đá hộc từ thời thuộc Pháp. Thấp hơn nữa là những con đường ngoằn ngoèo dẫn xuống thung sâu, nơi tốp lính cứu hộ cùng dân sở tại đang võng người bị nạn trở về làng. Đoàn người nối nhau đi hàng một, nhỏ như những con kiến. Từ trên cao nhìn xuống, chủ tịch có cảm tưởng như trông thấy một đàn kiến cắn đuôi nhau bò trên ngọn cỏ lau. - Cha ơi cha! Gió đổi chiều, thốc từ dưới thung lũng lên tận đỉnh núi. Tiếng khóc của đứa trẻ xoáy lên theo, vang dội: « Nó khóc không ngừng...Có lẽ người cha không qua khỏi. Tội nghiệp cho kẻ xấu số và tội nghiệp cho cả đứa bé sắp phải trải qua kiếp mồ côi.... » Ông thầm nghĩ và bất giác nhắm mắt lại. Gió reo trong các rừng thông vi vút rồi ném thứ âm nhạc mênh mông của nó vào không gian mênh mông. Chủ tịch cảm thấy hơi gió tạt ngang qua mặt ông hơi ẩm lạnh của mùa xuân, của rừng già và của những loài hoa dại trên sườn núi.... - Cha ơi cha!... Đột nhiên, ông mở choàng mắt vì một câu hỏi ập tới: « Nếu ta chết, liệu thằng bé có khóc không? Liệu nó có thương ta như đứa con trai người tiều phu khóc thương cha nó?» Ý nghĩ đó khiến ông đứng sững như chôn chân trước tam quan, tựa hồ bị đập đầu vào tường đá hay bị trúng gió độc. Người lính trẻ vâng lời ông sang ngồi bên cửa chùa nhưng không rời mắt theo rõi chủ tịch. Cậu ta nhận ra vẻ mặt nhợt nhạt của ông, liền chạy bổ tới: - Thưa chủ tịch, mời người trở lại phòng. Ở đây dễ trúng gió độc mà cũng dễ trơn ngã. Từ sang đến giờ đất vẫn vẫn chưa thật khô. Đoạn, cậu ta ôm chặt vai ông, dìu vào nhà. Chủ tịch muốn hất tay cậu lính ra nhưng tay chàng trai ấm nóng. Tấm thân đẫy đà của cậu ta cũng ấm nóng và khi áp vào ông, làn hơi nóng truyền sang cơ thể ông cùng một lần ngọn lửa của sinh lực và sự nồng ấm của tâm hồn. Chỉ cần đứng bên cạnh con người này, là đủ cảm nhận được điều đó: « Một gã trai tốt lành » Ông thầm nghĩ và ưng thuận theo cậu ta vào phòng. Ở đó, trà đã bắt đầu nguội. Ông ngồi uống trà với niềm tin cay đắng: « Nó sẽ không bao giờ khóc ta cả. Bởi nó không thể biết nó là con ai. Mãi mãi không biết được sự thật ai là cha đẻ của mình. » Rồi ông tự riễu ông hàm hồ khi nghĩ rằng người tiều phu kia là kẻ xấu số: « Nào biết ai xấu số hơn ai? » Giờ, ông hiểu vì sao ông bỗng nhiên nảy ra ý định xuống núi thăm người bị nạn. Một niềm khao khát cay độc xen lẫn một sự tò mò bất khả cưỡng chế đã nảy sinh trong thâm tâm: Ông muốn tham dự lễ an táng người tiều phu kia bởi ông muốn biết tường tận đám tang của một người cha. Một người cha theo đúng nghĩa.