TRUYỆN XÓM TIỀU PHU (4)

Quý vội vã đi luôn vì nhớ ra cô gái già này thờ cúng cả chuyện tắm gội. Người ta nói rằng hễ Vui đang cần tắm gội mà ai phá đám là cô sẵn sàng nổi khùng lên, rượt đuổi họ tức khắc. Nước tắm gội của cô gồm lá bưởi vỏ bưởi, hương nhu, cỏ mần trầu, củ sả, hoa quế. Tất cả được trộn theo một tỷ lệ nhất định và được đun trong chiếc nồi đồng bẩy, nước bắt đầu sủi tăm là hương thơm toả nức xóm. Thêm nữa, mỗi lần tắm gội, cô lại còn thắp nhang trầm cho mùi hương huyền bí kia tẩm đượm vào tóc lẫn da, thành thử việc tắm táp của cô giống như việc tắm gội của các cung phi thuở trước. Chỉ có điều, các cung phi thuở trước chăm chút da thịt, nhan sắc là để gợi tình đức vua, còn cô, không hiểu ai sẽ là đấng quân vương mà cô thương trộm nhớ thầm? Thôi thì, đành phải chờ thời gian hoặc các bậc quỷ thần phân giải.
Ra đi nhưng dẫu sao ông chủ tịch cũng không cắt nổi cơn ấm ức:
« Hoá ra cái con gái già này chẳng nể nang ai... »
Anh ta vừa đi vừa rủa thầm, mặt nóng phừng phừng dù trời đang rét. Cố quên đi nhưng không quên nổi, cứ nghĩ lại cảnh bị đuổi, cun cút chạy ra khỏi nhà « con gái già » như bất cứ kẻ láng giềng nào thường đến cửa cô ta để xin đường, xin mỡ, vay tiền hoặc nhờ chạy máy nổ... là mạch máu Quý lại giật đùng đùng hai bên thái dương:
« Nó xem cá đối bằng đầu, xem cứt cũng như rươi. Con này mất dạy thật. Nó quên rằng chính mình là người đầu tiên gợi ý cho chi bộ cử nó làm chi đoàn trưởng. Cái quân ăn cháo đái bát. Không trách trời chẳng thí cho một tấm chồng! »
Anh ta đi hết một vòng quanh thôn Trung, gật đầu chào lại những người khác một cách máy móc mà chẳng phân biệt được ai với ai. Nỗi xốn xang đốt lửa đùng đùng trong dạ. Vào giờ này, mọi trách nhiệm với xã đã xong. Chuyện tết nhất, cúng bái trong gia đình xưa nay vợ con cáng đáng hết. Trong óc Quý chỉ quay cuồng một hình dáng, một cái tên, một màu áo xanh, một nụ cười lúng liếng....tất thảy những gì thuộc về: Con đĩ Ngân!
« Con đĩ Ngân, con đĩ Ngân, con đĩ Ngân... »
Anh ta thầm chửi. Nhưng trong lúc thầm chửi, anh ta vẫn hiểu rằng anh ta đang chửi người khác một cách vô chứng cớ, và điều cốt tuỷ với anh ta bây giờ là phải chứng minh bằng được:Con đĩ Ngân thực chính là con đĩ, một con đĩ trăm phần trăm...
Nhưng tiếc thay muốn chứng minh điều ấy lại phải nhờ tay con Vui, cái con gái già đồng bóng và hỗn hào kia, chính ả mới có thể cung cấp chứng cứ. Cùng là lũ đàn bà cả, mèo đói ắt phải tìm được cách cào cổ mèo no. Buộc con gái già này đi bới lông tìm vết con đĩ vú mẩy kia là thượng sách. Nhưng ngựa hay thường có tật, con Vui tháo vát nổi tiếng nhưng kiêu căng, ương ngạnh thì cũng chẳng ai bằng...Những ý nghĩ ấy đưa Quý theo con đường quen trở lại thôn Thượng. Anh ta chợt nhận ra rằng đã sắp đến nhà mình. Gió lạnh dọc đường chừng cũng làm nguôi đi cơn uất ức. Sau rốt, ông chủ tịch đành tự an ủi:
« Nhưng bây giờ, có ức nổ cổ nổ ruột cũng chẳng làm gì được nó. Chính nó mới là kẻ biết rõ ngọn ngành mọi chuyện chứ chẳng phải mình. Mà con gái già này không phải đứa dễ nghe ai. Thôi, đất chẳng chịu trời thì trời đành chịu đất. Ta phải xử nhũn với nó vậy »
Anh ta bước qua cổng, vừa lúc hai đứa con gái khiêng chậu quất từ vườn vào sân trong. Dưới bếp, nồi bánh chưng sôi lục bục, mùi bánh thơm dâng đầy không gian. Lác đác đã có tiếng pháo tép của trẻ trong thôn. Không khí tết xem chừng đang tràn ngập. Quý vào nhà, ném chiếc xắc-cốt da bò lên bàn rồi duỗi thẳng chân nằm dài trên tràng kỉ. Nhắm mắt lại, ông chủ tịch hình dung ra cảnh đêm mai: Đêm mai, sẽ là đêm tất niên chính thức, năm nay tháng chạp có ba mươi ngày. Đêm mai, sẽ là đêm cuối cùng của cái năm rủi ro này. Đội chèo huyện sẽ về đây diễn tích: Thị Mầu lên chùa. Chắc chắn ông Quảng và con đĩ Ngân sẽ ở nhà chứ không đi xem. Sự vắng mặt của họ sẽ là cái cớ tốt nhất để dân làng đàm tiếu và lúc ấy, con Vui sẽ ra tay. Chuyến đi của nó ắt phải đem lại thành công cho mình. Đêm mai, sẽ là đêm chiến thắng. Anh ta vuốt bụng, thở đánh ực một tiếng rồi quát:
- Đứa nào đun cho tao nồi nước lá mùi. Cả tuần rồi chưa được tắm!...

*

Công trường xây dựng của tỉnh luôn luôn có ba đội quân thường trực hành nghề, dưới sự cai quản của ba ông cai thầu, thường được gọi dưới cái danh mĩ miều: Cán bộ quản lý ngoài biên chế của tỉnh. Ông Quảng chính là người cai quản đội quân nề, mộc của tỉnh sở tại. Ông thứ hai dẫn quân lên từ tỉnh Hà Tây. Ông thứ ba là xếp sòng của đội quân Phú Thọ. Trừ cánh quân của ông Quảng, hai đội quân kia kèm theo rất nhiều đàn bà, con gái. Họ chính là dân cày cuốc bạo gan, sớm tìm cách kiếm miếng cơm ở xa nơi chôn rau cắt rốn.
Từ thuở sinh ra thị thành, đã hàm chứa một cách biệt định mệnh giữa cuộc sống của phố phường với cuộc sống nơi thôn dã. Sự cách biệt này chưa bao giờ được lấp đầy:
« Nhà giàu xứ quê không bằng ngồi lê thành phố. »
Kiếm được bát cơm nơi đồng làng vô cùng khó nhọc, ngoài cây lúa người ta chẳng thể tìm được nguồn sản sinh lợi tức nào khác. Ở những nơi nửa cận non, nửa cận ruộng như Xóm Tiều Phu, còn có thể nuôi bò nuôi trâu, nuôi ong, thả gà vịt...Nhưng nơi bình nguyên, cửa nhà chật hẹp, người sinh sôi đông đúc, những bờ cỏ hẹp như giải áo không mọc đủ cỏ nuôi trâu cày, huống chi tính chuyện chăn nuôi...Mọi sự trông vào cây lúa, mà cây lúa vốn còi cọc không thể gánh đủ thứ tiền chi tiêu: Tiền muối mắm, dầu đèn, tiền quà bánh lễ tết, tiền ma chay cưới xin, tiền thuế má, tiền quần áo tư trang, tiền học hành thuốc thang cho trẻ...Vì lẽ đó mà đội quân nề mộc của ông Quảng không có một ả nạ dòng, nhưng ở hai đội quân kia, đầy nhóc đàn bà lẫn con gái. Người ta vẫn gọi chung họ với một cái tên chứa ngầm sự khinh bỉ: Gái công trường...
Cụ thể hơn:
« Trai quán Nái, gái công trường ».
Quán Nái là nơi ngã ba đường, nơi những đoàn xe ngược xuôi khắp châu thổ sông Hồng thường dừng lại ăn uống, tắm gội, hoặc tìm những thứ nhu cầu khác trong bóng tối. Có cầu đương nhiên phải có cung, dù nhà nước ngăn cấm bằng mọi cách. Tàn đi phá lại thì sau rốt chính quyền cũng phải ưng thuận để dân phố Nái dựng lên một dãy dài những quán cơm, quán phở, nhà trọ bình dân, quán chè nước hoa quả, bánh trái và trăm thứ bà rằn khác. Trai quán Nái vốn có biệt tài buôn bán. Cũng từ lâu do rủng rỉnh tiền họ thường có thú trăng hoa, cờ bạc, mà ở nơi nào trò đỏ đen đã tồn tại thì những người bạn đồng hành với nó như lừa đảo, thanh toán ân oán giang hồ đều không thể thiếu mặt. Dưới con mắt người bình thường tuân thủ sống một cách nề nếp khuôn khổ, những cuộc ăn chơi long trời lở đất, cũng như những cuộc chém giết đẫm máu của lũ trai quán Nái giống một thứ bệnh dịch hạch, một cơn đậu mùa khủng khiếp mà thiên hạ phải tránh cho xa.
Xếp hàng thứ hai sau trai Quán Nái, là gái công trường, những thôn dân đã tháo cũi sổ lồng, những người được mệnh danh là: « bọn nhà quê học đòi » theo giọng lưỡi đỏng đảnh của đám dân đô thị hoặc là « bọn động cỡn » theo cái nhìn gờm gờm ngờ vực của chính dân quê. Dưới cả hai cái nhìn thù nghịch này thì những người hôm qua chân lấm tay bùn nơi ruộng sâu hay đất bãi, hôm nay còng cổ co vai khuân gỗ vác gạch nơi công trường là lớp người sỗ sàng, tự do quá trớn. Cuộc sống chung chạ giữa đàn ông đàn bà, trong khung cảnh tấp nập nhộn nhịp của việc xây dựng, cũng như những cuộc di chuyển không ngừng hết nơi nọ đến nơi kia ; trước con mắt những thôn dân suốt đời gắn bó với một mái nhà, một mảnh ruộng, tự che chắn đời đời kiếp kiếp sau một mái đình và những luỹ tre nghìn tuổi là một cuộc sống đáng hồ nghi về đức hạnh:
« Ăn đợ, ở tạm...lang thang như lũ phường chèo, như gánh hát rong... »
Thứ cuộc sống lạ lùng, bất yên như thế khiến họ nửa thèm thuồng nửa kinh hãi. Thói đời, cái gì đã khác ta, thì cứ nhổ vào nó trước đi đã...Nếu không tiêu diệt được, thì cứ ném một hòn đá lên cho chắc ăn.
Do hiểu được cái tâm lý đó, những người đàn bà vùng quê khi bứt áo ra đi, một bên vai mang nặng những gánh nợ của gia đình, vai kia chất chồng những sỉ nhục mà chính những dân quê ném lên họ, đâm ra liều lĩnh. Họ cố tình tạo ra một thái độ thách thức với xã hội, một vẻ bất cần, một thứ xuồng xã trong lối ứng xử, và coi sự phản kháng này là sức mạnh giúp họ đứng vững.
Vậy, cô vợ trẻ của ông Quảng là một trong số những người đàn bà như thế. Những cô phu hồ, những cô thợ quét vôi, những cô thợ xây...những người đàn bà gánh vác thứ công việc nặng nề mà thường chỉ đàn ông mới đủ sức vóc đảm nhiệm.
Một buổi sáng, ông Quảng mải mốt đi qua khu đất trống, nơi cắm một hàng rào tạm bợ bằng những cây cọc gỗ cao chưa đầy thước rưỡi làm ranh giới thi công giữa đội quân của ông và đội nề mộc tỉnh Hà Tây, chợt nghe tiếng cười ré lên từng hồi của đám con gái. Ngạc nhiên, ông quay lại nhưng rồi chẳng thấy một ai quen nên lại tiếp tục thẳng đường mà bước. Ngay lúc đó, ba bốn cô gái lên tiếng nheo nhéo gọi, với cái giọng Hà Tây không trộn lẫn được vào đâu:
- Này ông gì ơi...Này anh gì ơi...
- Này, ông anh « kháu lão » ơi, quay lại đây có đứa gọi..
- Ớ anh già bảnh trai, kháu lão ơi....Quay lại đây có ả muốn nói chuyện này...Ớ anh trai già...
Trong bụng hơi khó chịu nhưng ông Quảng nghĩ rằng nếu bỏ đi, họ tưởng ông là kẻ non gan và lần sau họ sẽ tiếp tục trêu cợt một cách sàm sỡ hơn...Ông quay lại, bước tới trước đám con gái lẫn nạ dòng, cả thảy hơn một chục người đang ngồi chen chúc ngay trên đống cốp-pha.
- Tôi đây.
Ông nói, nhìn khắp lượt những gương mặt bịt kín dưới các loại khăn chỉ còn ló ra đôi mắt đang tít đi vì cười:
- Tôi đây. Nào, ai muốn nói chuyện thì đứng lên. Tôi không quen ngồi xổm...
Đám đàn bà túm tít quay lại một cô áo xanh, khăn bịt mặt cũng màu xanh, và đôi mắt không còn cười mà đang chớp một cách bối rối:
-Ả ta đây. Chính thị đứa muốn gọi ông quay lại.
- Cô nàng Ngân, lên tiếng đi kìa...
- Chính cô ta đặt tên cho ông là « Anh già kháu lão » Bây giờ lại im thin thít như thịt nấu đông...
Tới đó ông Quảng cũng bật cười, đưa mắt nhìn cô gái bịt khăn xanh và nhận ra đôi mắt cô ta đẹp mê hồn, đôi mắt ông chưa từng thấy từ khi biết chú ý tới kẻ khác phái, nói một cách văn vẻ thì đó là « mắt đào hát ».
Không ai nói gì thêm nữa và ông thấy đám đàn bà sắp rơi vào cảnh bối rối nên quay đi.
Hai tháng sau, tàn bữa rượu với đám thợ, ông Quảng quay lại nơi nhà trọ trong thành phố. Lúc đó đã sắp nửa đêm, công trường tắt gần hết các ngọn điện chỉ còn để lại những ngọn đèn trên kho vật liệu hoặc những nơi xung yếu mà kẻ trộm có cơ đột nhập. Ông Quảng vẩy đèn pin bước qua những lối mòn do chân thợ vạch ra trên nền đất đá công trường. Chợt ông nghe tiếng đàn bà kêu thét phía sau một khu nhà vừa hoàn thiện phần cốt gạch, chưa trát vôi vữa. Tiếng kêu ấy là tiếng kêu của một người đàn bà tỉnh Hà Tây:
- Buông tôi ra!....Giời đất ơi!...
- Giời đất ơi!....Cứu tôi!...
Ông chạy về phía tiếng kêu cứu. Ánh đèn pin rọi vào hai bóng đen đang quần thảo quyết liệt. Người đàn bà tóc xoã tả tơi, quần lẫn áo rách tung từng mảnh. Gã đàn ông to lùn như con gấu ngựa, bận bộ đồ xám. Ném cây đèn sang một bên ông nhào vào táng hai cú đấm liên tục như búa tạ vào chính giữa mặt gã:
- Bắt nạt con đàn bà này!...
- Quân hãm hiếp đàn bà này!...
Một cú đấm nữa móc vào hàm. Rồi ông túm lấy tóc con mồi khi gã đang còn chưa định thần được kẻ tấn công gã là ai. Dùng sức lực toàn thân ông đập đầu gã vào tường tin chắc đó là cú đòn quyết định.
Cú đập đầu ấy đúng là cú đòn quyết định như ông dự tính. Gã đàn ông quỵ xuống, bật tiếng kêu của loài thú dữ trúng thương. Để chắc ăn, ông bồi cho gã hai cú đá nữa. Khi đã thấy gã không còn hy vọng gượng dậy được, ông mới nhặt cây đèn pin, rọi vào mặt cái thứ « quân hãm hiếp đàn bà... ». Một nỗi kinh hoàng tức khắc chạy qua như cơn chớp: Đó chính là gã phó quản trị văn phòng xây dựng của tỉnh. Gã không trực tiếp giao việc, định giá tiền công, lương thảo cho mấy ngàn con người trên công trường này nhưng gã là tay chân thân tín của con người quyền lực đó. Chính vì thế, vừa từ trường trung cấp xây dựng ra mới được hai năm, gã đã được ông ta bổ nhiệm làm phó phòng để tiện việc sai bảo.
Trong tình thế ấy, hoặc trời xui đất khiến, hoặc vị thần hộ mạng mách nước, nên ông đã hành động một cách khôn ngoan. Rút cây tù và vẫn đeo nơi cổ như một thứ bùa, ông thổi ầm ĩ khiến cả khu công trường đang im ắng bỗng nhiên vang động như xóm làng thời chạy giặc. Tiếng tù và lan đến khu lán trại thợ lẫn khu cán bộ quản lý công trường. Bao năm nay chưa từng có sự lạ lùng như vậy nên mọi người tay đèn tay đuốc lũ lượt chạy tới. Khi nghe tiếng chân người rầm rập sắp tới nơi, ông mới quay sang người đàn bà bị hại:
- Cô đứng yên, không được bỏ trốn nghe chưa. Giữ nguyên áo quần rách rưới, giữ nguyên cảnh giằng xé giữa thằng đàn ông kia với cô. Tình cảnh đã thế này, không việc gì phải xấu hổ. Cô mà bỏ trốn bây giờ là giết tôi. Hiểu chưa? Còn nếu người ta hỏi sao cứ đúng sự thực mà trình bày.
- Em rõ rồi ạ.
Người đàn bà đáp và ông chợt nhận ra một vẻ quen thuộc mơ hồ trong giọng nói của cô ta. Nhưng phải chờ đến khi đèn công trường bật sáng choang, khi đám đông đã vây kín họ, ông mới biết cô ta chính là cô gái áo xanh, kẻ đã đặt tên ông là « Anh già kháu lão »...Chính cô ta...Và như thế, dường như định mệnh đã liên kết họ...
Phần sau đó, không có gì nhiều nhặn. Một khi dưới ánh đèn sáng choang, phơi bầy cảnh một cô gái bầm dập, áo quần bị xé tả tơi, một gã đàn ông bị đánh gục trên sàn, mặt còn đầm đìa máu tươi, hơn thế nữa khuy quần đang còn cởi sẵn, ngay lập tức người ta hình dung ra mọi sự. Không cần quá nhiều lời bình phẩm. Tuy nhiên, bao nhiêu năm lăn lộn kiếm ăn, ông Quảng đã quá thuộc bài học:
« Bảo vệ uy tín đảng và nhà nước ».
Ông hiểu rằng người ta có thể lật lại nước cờ như trở bàn tay và lúc đó chính ông sẽ trở thành kẻ phải thí mạng trong trò chơi đường đột này. Vì vậy, ông nhất thiết yêu cầu ban quản lý công trường mời công an tới làm biên bản. Rồi tức khắc, ông vận động đám công nhân đòi ba lực lượng phải chính thức làm chứng nhân: chính quyền, ban đại diện công trường, công đoàn tỉnh. Dù đêm khuya, đại diện của cả ba tổ chức trên đành phải lần lượt kéo đến để kí xác nhận. Vốn là người có tài ăn nói, ông Quảng liền mượn dịp tuyên bố trước đám đông:
- Chúng tôi dẫn vợ con thiên hạ rời bỏ quê quán đi kiếm miếng ăn nơi đồng đất xứ người nên không thể để họ bị hà hiếp. Nếu chúng tôi làm không đủ phận sự, họ nhổ vào mặt chúng tôi. Nay là đàn bà Hà Tây, mai chưa biết chừng, là người Phú Thọ hay dân sở tại. Đối với ai, chúng tôi cũng yêu cầu nhà nước phải bảo vệ người vô tội và trừng trị kẻ côn đồ. Nếu kẻ côn đồ ấy mà chui vào hàng ngũ cán bộ nhà nước thì càng phải nghiêm minh.
- Chúng tôi đồng lòng với ý kiến ông Quảng!
Hai ông xếp của các đoàn nề mộc tỉnh bạn hưởng ứng tức khắc, họ nhìn thấy quyền lợi của chính họ được bảo vệ trong cơ hội này. Bởi sự việc xảy ra với ông Quảng « kẻ quen ăn sóng nói gió, tim rắn như gang, gân cứng hơn thép » chứ nếu xảy ra với họ, ắt chỉ có cách đổ tội cho cô gái kia là: « Con đĩ ngựa quyến rũ cán bộ đảng » và tìm cách đẩy cô đi khỏi công trường càng nhanh càng tốt. Thế nên, núp sau lưng ông, họ cao giọng nhắc đi nhắc lại cái điệp khúc:
- Chúng tôi hoàn toàn nhất trí với ông Quảng. Công trường có nhiệm vụ bảo vệ nhân công.
- Để giữ gìn nghiêm minh uy tín của đảng và nhà nước, chúng tôi yêu cầu xử kẻ có tội.
Còn về phía những người dân quê đang khoác quần áo bảo hộ lao động, cơn uất hận ào tới như thuỷ triều. Người bị hại đứng trong đội ngũ của họ, trong nấc thang tận cùng của cái xã hội thu nhỏ này. Cái tai hoạ mà người đàn bà kia gánh chịu có thể sẽ chờ họ trên đường đời, vào một ngày nào đó chẳng ai có thể đoán trước. Sự sỉ nhục mà hôm nay cô ấy phải nếm rất có thể sẽ là món quà cay đắng của số phận dành cho họ vào một khoảnh khắc đen đủi trong tương lai. Ở hoàn cảnh của những con người chân lấm tay bùn, mặc cảm và sự tủi nhục luôn luôn là những lò than không bao giờ tắt, ủ giữ ngọn lửa căm thù và phản kháng. Vào những dịp như thế, tình bằng hữu sống dậy cùng một lượt với ý thức thương xót bản thân. Đàn ông cũng như đàn bà, nhìn thấy trong cô gái bị giằng xé tả tơi kia bản diện xiên ngang của chính họ, như tấm gương soi của số phận, phản chiếu những kiếp người hẩm hiu trong cuộc sinh tồn. Bởi vậy, sau những lời lẽ rắn đanh của ông Quảng, cơn giận dữ bùng nổ, tựa hồ người ta rút chốt khoá một đập nước cho dòng nước hung dữ xối xả tuôn ra. Đám đông vây quanh gã phó phòng xây dựng, giờ đã ngóc đầu dậy nhìn mọi người với đôi mắt đẫn đờ. Họ la hét, chửi rủa. Họ nhổ nước bọt, họ đạp vào lưng y. Đám cán bộ quản trị lẫn tay trưởng ban bảo vệ công trường đều phải kí vào biên bản trước cơn phẫn nộ của đám thợ. Sau đó, không có cách nào hơn, trưởng văn phòng ra lệnh kỉ luật gã đàn em, chuyển sang phụ trách công trường đập đá ở Yên Bái. Sự việc diễn ra theo cách thức mà người ta thường gọi là hiệu ứng dây chuyền. Trưởng phòng xây dựng có vẻ hoang mang trong vài ba ngày đầu. Dường như ông ta không muốn hiểu sự việc. Nhưng rồi thói quen lười suy nghĩ giúp ông ta bắt lại nhịp điệu của cuộc sống bình thường rất nhanh. Vả chăng, ông ta cũng chẳng cần áy náy nhiều, vì kẻ nịnh nọt thời nào cũng sẵn cả đống, một thằng rơi mười thằng khác sắp hàng nhảy vào thế chỗ. Chưa đầy hai tuần sau, ông ta đã có một tay phó văn phòng khác. Gã đệ tử mới nhỏ bé hơn, bảnh trai hơn, và đắc lực hơn.
Sau sự kiện này, ông Quảng nổi tiếng khắp công trường lẫn thành phố như một vị anh hùng, một Từ Hải tái sinh. Và như thế, tất cả mọi người đều được hài lòng.
Khi mọi sự đã yên lắng lại, chính là lúc tình sử của họ bắt đầu.
Khởi sự, nàng áo xanh tìm cách gặp ông, một tay xách túi quà, tay kia cầm hai chai rượu thuốc:
- Em xin đến cảm tạ ông. Không có ông, chắc em không thoát nổi thằng cha ấy.
- Không có gì!Tôi là người đàn ông, giữa đường thấy sự bất bằng chẳng tha. Những người khác gặp chuyện phi đạo lý như thế ắt hẳn cũng hành sự như tôi.
- Sự đời không có vậy. Ông nói khiêm tốn thôi.
Cô gạt phắt đi một cách quả quyết khiến ông chẳng biết nói gì hơn. Rồi bất chợt ông nhìn thấy hai chai rượu thuốc cô đặt lên bàn:
- Cô mang rượu đến cho tôi à?...
- Vâng, đúng như vậy! Có gì mà ông phải ngạc nhiên?
Ông mỉm cười:
- Rượu ai ngâm đấy?
- Em ngâm lấy.
- Cô cũng là dân nghiện rượu hay sao?
- Không! Không nghiện nhưng biết uống.
- Vậy sao?
- Thoạt đầu, không ai nghĩ là đàn bà nên uống rượu. Nhưng bọn em làm thợ quét vôi, hai tay treo lên suốt ngày, đêm về ngủ đau rã rời từ bả vai xuống tận ngang hông. Cô em cắt cho thang thuốc bảo đem ngâm với thứ rượu nếp cái tốt, đêm về uống một chén trước khi ngủ sẽ hết đau. Em làm theo y như vậy, quả nhiên không còn đau nữa, mà ngủ ngon giấc lắm.
Ông im lặng ngẩn ngơ. Suốt cuộc đời ông, đây là lần đầu tiên có người cho ông rượu, mà lại là một cô gái. Hơn bốn mươi năm ròng sống với vợ con, chưa bao giờ bà nghĩ cách mua cho ông một món quà, con cái ông cũng vậy. Trong gia đình ấy, dường như ông phải nghĩ đến tất cả mọi người, lo toan cho cuộc sống của tất thảy mọi người, nhưng không bao giờ có sự quan tâm ngược trở lại. Điều đó được coi là hiển nhiên.:
« Bảo bố anh, ông ấy sẽ giải quyết. »
« Muốn gì cứ bàn với bố. Đâu rồi có đó. »
Bản thân ông cũng coi chuyện đó như là đương nhiên, bởi vì ông là người làm cha, làm chồng, là trụ cột gia đình và ông có trách nhiệm hoàn tất trách nhiệm ấy. Cuộc sống với những phiền toái của nó chất chồng lên vai ông bao nhiêu gánh nặng. Để đảm đương những gánh nặng ấy, ông chẳng còn thời gian nghĩ đến bản thân mình. Giờ, sáu mươi mốt tuổi, ông chợt nhận ra lòng mình xáo động, rằng trong ông còn có một người đàn ông khác, kẻ đó có nhu cầu được chăm chút, thương yêu.
Trong lúc ông đang bần thần vì nghĩ ngợi, cô đã nhìn quanh quẩn rồi nhặt trong bộ đồ trà của quán trọ một chiếc chén sứ, rót đầy:
- Ông nhắp thử mà xem.
Ông đưa chén rượu lên nhắp thử, thấy rượu rất ngon cho dù mùi thuốc đã làm cho hương nếp phai đi nhiều. Cô chăm chú nhìn ông và hỏi:
- Ông thấy thế nào?
- Tôi thấy rượu ngon. Nhưng giá không có thuốc thì hơn.
- Sao ông dại thế? Thang thuốc ấy cô em bán đắt gấp mười lần tiền mua một lít rượu đầu nồi.
- Ừ, tôi vốn là kẻ dại khờ mà!...
Ông đáp, chăm chú nhìn lại cô và bỗng cảm thấy người con gái này đã là một phần đời của ông từ lâu lắm, từ những ngày cả cô lẫn ông chưa xuất hiện trên thế gian. Có thể, ông mường tượng một cách hồ nghi, từ những kiếp sống xa xôi thuở trước. Những kiếp sống mà ông không hình dung nổi, giống như người ta không thể nhìn thấy nửa bên kia của vầng trăng nhưng cái nửa bị che khuất ấy vẫn tồn tại. Cũng như vậy những kiếp sống xa xôi lẩn khuất trong các tầng mây cao thẳm của kí ức vẫn tồn tại dù con người không hình dung ra chúng...:
― Thực hay hư, hư hay thực? Sao bỗng dưng ta thấy cuộc sống thật lạ lùng? 
Ông tự hỏi, tiếp tục chăm chú nhìn người đàn bà đang đứng cách ông chưa đầy hai thước. Hôm nay, cô cũng mặc áo xanh, chính màu xanh lá dừa mà ông đã thấy khi cô ngồi chen chúc giữa đám đàn bà phụ nề, đánh vữa. Đôi mắt cô đẹp lộng lẫy, bây giờ ông có thể nhìn rõ từng sợi lông mi. Đôi mày dài như hai nét mực tầu, kéo từ chính sơn căn sang hai thái dương, gần như chấm đến chân tóc:
― Cô nàng xinh đẹp thật! Đúng là người trong tranh!
Ông thầm nghĩ và bỗng dưng cảm thấy đau đớn khi nghĩ rằng chỉ chốc lát nữa thôi, cô sẽ ra đi, sau khi để lại cho ông hai chai rượu thuốc lẫn gói quà như một sự đền ơn đáp nghĩa. Ông sẽ không bao giờ gặp lại cô nữa. Rồi cô sẽ sống cuộc đời của cô và cuộc đời ấy chẳng hề liên quan tới ông. Còn ông, chắc chắn sẽ kết thúc tuổi già trong căn nhà trọ này, hoặc trong căn nhà quen thuộc nơi Xóm Tiều Phu, hoặc trên chiếc xe ngựa hành trình giữa hai nơi đó, với những phận sự ngổn ngang và mòn mỏi của gia đình. Với những toan tính, lo âu, dàn xếp giữa một mớ người thân, những kẻ tưởng chừng vô cùng gần gũi với ông nhưng thực chất lại xa lơ xa lắc, những kẻ chỉ quen chồng chất lên vai ông gánh nặng mà không hề nghĩ đến những nông nỗi ông từng trải nếm, những nóng lạnh ông từng chịu đựng, những mật đắng ớt cay ông từng phải nuốt vào trong. Và rồi đây, ông sẽ chẳng thể sống một cách an bình được nữa. Bởi sau cuộc gặp gỡ này, cuộc sống phía trước của ông sẽ trở nên vô cùng ảm đạm. Và ông?...
Dòng suy nghĩ ấy khiến ông bơ vơ, lạc lõng. Có một nỗi yếu đuối lạ lùng, một nỗi yếu đuối chưa bao giờ biết đến tràn ngập tâm hồn ông làm sống mũi ông cay xè. Hoảng hốt vì sợ mình sẽ khóc trước mặt một người lạ, ông vội vớ lấy bát điếu thuốc lào rít lia lịa hai mồi rõ to rồi ngửa mặt lên thả khói. Những giọt nước mắt lớn trào qua mi lăn xuống hai bên thái dương. Ông dặn ra một cơn ho rồi làu nhàu chửi:
- Thuốc lào quán này là thứ Tiên Lãng đểu.
Còn cô, cô vẫn đứng tần ngần nhìn chén rượu trên tay ông, không ngớt thắc mắc vì sao ông lại chê món rượu thuốc này, chọn thứ rượu trắng rẻ hơn mười lần, ông - người anh hùng đã cứu cô khỏi cơn tuyệt vọng?
Vào chính lúc ấy, chủ quán bước vào nhắc ông rằng bữa cơm của ông đã chuẩn bị xong, rằng ông có cần lấy thêm món ăn mời khách hay không? Ông chợt nhận ra sự thất thố của mình: Cô đi từ công trường lên đây phải mất hai tiếng rưỡi đồng hồ, và lúc này đã chính ngọ. Ông vội vã bảo:
- Lo cho tôi bữa cơm khách.
Đoạn quay lại cô, ông hỏi:
- Cô có chê dùng bữa với tôi không?
- Vì sao lại phải chê?
Cô hỏi lại một cách thật thà. Và ông mỉm cười:
- Vì cô cho tôi là kẻ dại khờ.
- Ồ, đấy là em nói thế.
- Vậy thật sự cô cho tôi là người thế nào?
- Em cho rằng...rằng ông...rất kháu lão...
Trả lời xong, chính cô lại phá lên cười. Có lẽ vì cô tự thấy câu nói của mình là kì cục. Nụ cười của cô cất đi khối đá đè nặng lên ngực ông. Ông cảm thấy trong tiếng cười ấy, trong ánh mắt tươi cười kia, một lời hứa hẹn...Ông không còn thấy sa mạc cuộc đời trải ra phía trước. Ông không còn thấy bị đe doạ bởi cuộc ra đi của cô. Trong thâm tâm ông thầm hưởng trước món quà tốt lành của định mệnh. Bước khỏi phòng trọ, ông gọi chủ quán rõ to:
- Lo cho tôi một mâm thịnh soạn nhé! Hôm nay có khách đặc biệt!...