ớ đây, tớ chuẩn bị rời Stapledon và sẽ tới trước nhà cậu trong nửa tiếng nữa, hy vọng cậu có nhà chứ? Cái máy nhắn tin chết tiệt! Tớ tới ngay đây. Peter bực dọc gác máy, lục trong túi áo tìm chum chìa khóa cho đến khi nhớ ra hôm trước anh đã đưa nó cho tài xế. Anh nhìn đồng hồ, chuyến bay tới Miami sẽ cất cánh khỏi sân bay Logan vào cuối buổi chiều, nhưng trong thời buổi nhộn nhạo này, các quy định mới về an ninh buộc hành khách phải tới sân bay tối thiểu hai tiếng trước giờ khởi hành. Anh khóa cửa căn hộ nhỏ và lịch sự nằm trong một khu phố tài chính mà anh đã thuê cả năm, rồi đi theo dãy hành lang phủ thảm dày. Anh ấn ba lần lên nút gọi thang máy, một cử chỉ nóng ruột chưa bao giờ khiến thang máy đến nhanh hơn. Còn những mười tám tầng nhà phía dưới, rồi anh vội vã bước qua mặt ông Jenkins, người gác cổng toàn nhà, và thông báo với ông rằng anh sẽ trở về vào ngày mai. Anh đặt cạnh cửa quầy gác một túi quần áo để hiệu giặt là bên cạnh tòa nhà sẽ cho người sang lấy. Ông Jenkins cất vào ngăn kéo cuốn Văn học và nghệ thuật của nhà xuất bản Boston Globe mà ông đang đọc dở, ghi lời yêu cầu của Peter vào quyển đăng kí dịch vụ, rồi rời quầy gác chạy theo anh và mở cửa. Ra tới bậc thềm, ông mở một chiếc ô thật to và che cho Peter khỏi những giọt mưa rào nhẹ đang rơi trên thành phố. -Tôi đã gọi xe cho ông, ông thông báo, mắt chăm chăm nhìn đường chân trời mờ mịt. - Ông thật tốt bụng, Peter trả lời giọng khô khốc. - Bà Beth, hàng xóm cùng tầng với ông, hiện đang vắng nhà, nên khi nhìn thấy thang máy dừng lại ở tầng đó, tôi đã đoán được… -Tôi biết bà Beth là ai rồi, Jenkins! Người gác cổng nhìn những dải mây xám và trắng lơ lửng trên đầu họ. -Thời tiết thật đáng ghét phải không ông? Ông tiếp lời. Peter không trả lời. Anh dị ứng với những tiện nghi đời sống ở một khu nhà sang trọng. Mỗi lần đi qua quầy gác của ông Jenkins, anh lại có cảm giác một phần riêng tư của mình bị xâm phạm. Đằng sau quầy gác đối diện với những cánh cửa lớn hai chiều, người đàn ông với cuốn sổ ghi chép kiểm tra mọi lượt đi về của từng người sống trong tòa nhà. Peter tin chắc rằng cuối cùng thì người gác cổng này sẽ biết rõ mọi thói quen của anh hơn phần đông bạn bè anh. Một hôm, với tâm trạng không vui, anh rời tòa nhà theo lối cầu thang dẫn ra khu để xe. Khi trở về, anh ngạo nghễ đi ngang qua Jenkins, trong khi ông thì lại nhã nhặn đưa cho anh một chiếc chìa khóa đầu tròn. Khi anh sững sờ nhìn lại, Jenkins nói giọng thản nhiên: - Nếu ông muốn quay lại bằng đường đã đi ra, thì nó sẽ rất hữu dụng với ông. Các cửa nối hành lang và cầu thang ở mỗi tầng đều được khóa từ bên trong, nó sẽ giúp ông đối phó với vấn đề bực mình này. Trong thang máy, Peter đã hứa danh dự với bản thân không bao giờ để lộ bất cứ cảm xúc nào, vì biết chắc Jenkins sẽ không bỏ qua mảy may một thái độ nào của anh nhờ vào camera theo dõi. Và đến khi, sáu tháng sau, khi anh có mối quan hệ ngắn ngủi với một cô tên là Thaly, một nữ nghệ sĩ trẻ đang lên, anh đã ngạc nhiên khi thấy mình qua đêm tại khách sạn vì thích không ai nhận ra mình. Còn hơn là phải nhìn cái vẻ mặt sáng lên của người gác cổng, tâm trạng vui vẻ bất di bất dịch mỗi sáng của ông ta khiến anh khó chịu hơn bao giờ hết. -Tôi nghĩ mình đã nghe thấy tiếng động cơ xe của ông. Ông sẽ không phải đợi lâu đâu, thưa ông. - Ông còn nhận ra từng chiếc xe qua tiếng động cơ của chúng cơ à, Jenkins? Peter buột miệng nói hơi xấc. - Ồ, không phải tất cả các xe, nhưng chiếc Ăng-lê cũ của ông, ông sẽ thừa nhận với tôi thôi, có những tiếng lách cách nhè nhẹ phát ra từ thanh truyền, nghe như “Đa đê đô”, gợi nhớ đến âm điệu tuyệt vời của những người họ hàng chúng tôi ở bên Anh. Peter nhướn mày, anh nổi cáu. Jenkins thuộc loại người cả đời chỉ mơ được sinh ra là một công dân của Nữ hoàng, một sự vượt trội về đẳng cấp trong cái thành phố đặc sệt truyền thống Ăng-lê này. Đôi đèn pha tròn của chiếc hộp hiệu Jaguar XK 140 lóe sáng từ cổng nhà xe. Người tài xế dừng chiếc xe trên hàng vạch trắng được vẽ chính giữa bậc thềm. -Thật vậy sao, Jenkins thân mến! Peter thốt lên và tiến tới cánh cửa xe mà người tài xế đã mở sẵn cho anh. Vẻ mặt nhăn nhó, Peter ngồi vào sau vô-lăng, khởi động máy làm chiếc xe Ăng-lê cũ gầm gừ, đồng thời khẽ đưa tay vẫy Jenkins. Anh nhìn qua kính chiếu hậu để kiểm chứng rằng ông ta, theo thói quen, sẽ chờ anh rẽ ở góc đường rồi mới tự cho phép mình quay vào. - Bộ xương già! Lão sinh ra ở Chicago, cả gia đình lão đều ra đời ở Chicago! Anh lẩm bẩm. Anh đặt chiếc điện thoại di động vào giá gác và ấn phím tắt lưu số điện thoại nhà Jonathan. Anh ghé vào chiếc micro được gắn vào tấm chắn nắng và hét lên: - Tớ biết cậu có ở nhà! Cậu không thể hình dung được cái thiết bị chặn cuộc gọi của cậu làm tớ khó chịu thế nào đâu. Dù cậu có đang làm gì đi nữa, thì cậu cũng chỉ còn chín phút nữa thôi. Đấy. tốt nhất là cậu nên ở nhà. Anh cúi người để thay đổi tần số chiếc radio được đặt trong hộc đựng găng. Khi ngẩng lên, anh phát hiện ra trước mũi xe anh một quãng, một bà lão đang đi qua đường. Tập trung hơn một chút anh nhận ra bà đang đi bằng bước chân đôi khi nặng trĩu bởi tuổi già. Lốp xe để lại một vài vệt đen trên mặt đường trải nhựa. Khi chiếc xe đã dừng hẳn, Peter mở choàng mắt. Bà cụ vẫn tiếp tục sang đường bình thản. Hai tay vẫn còn bấu chặt lấy vô-lăng, anh hít một hơi, tháo dây bảo hiểm và khom người bước xuống xe. Anh rảo bước và luôn miệng nhận lỗi, khoác tay dìu bà đi nốt vài mét còn lại cho tới vỉa hè. Anh đưa bà cụ tấm các của mình và lại xin lỗi. Bằng tất cả sự quyến rũ của mình, anh thề rằng sẽ còn ân hận vì đã gây ra cho bà cụ nỗi sợ hãi nhường ấy hàng tuần lễ. Bà cụ tỏ vẻ vô cùng ngạc nhiên. Bà trấn an anh bằng cách huơ huơ chiếc gậy trắng. Chắc chắn bà nặng tai nên mới giật mình rồi nén lại được khi anh nhã nhặn nắm lấy khuỷu tay để giúp bà qua đường. Peter lấy đầu ngón tay nhặt một sợi tóc vương trên áo mưa của bà cụ và để bà đi tiếp, còn mình thì quay trở lại xe. Anh trấn tĩnh lại trong mùi da cũ quen thuộc tràn ngập chiếc xe cổ. Anh tiếp tục lái chầm chậm trên còn đường dẫn tới nhà Jonathan. Đến ngã tư thứ ba, anh đã bắt đầu huýt sáo.