CHƯƠNG 7

    
onathan đứng chờ Peter trước cửa lên máy bay của chuyến bay BA 776. Anh dõi mắt theo những hành khách cuối cùng đang biến mất cuối hành lang. Một bàn tay đặt lên vai anh. Nhìn thấy vẻ mặt nhăn nhó của bạn, Peter nhướn mày. - Tớ vẫn còn là người làm chứng của cậu chứ?
- Cứ theo đà này, cậu sẽ là người làm chứng cho vụ ly hôn của tớ.
Nếu cậu muốn, thì tớ cũng sẽ nhận lời thôi, nhưng cậu phải kết hôn trước mới được, có những chuyện kiểu gì cũng phải tuân theo trật tự thời gian.
Người phụ trách đội bay đưa mắt nhìn họ sốt ruột, cánh cửa máy bay chỉ còn chờ nốt họ là có thể đóng lại. Peter chọn chỗ ngồi cạnh cửa kính. Jonathan vừa kịp xếp chiếc va-li nhỏ lên ngăn hành lý thì máy bay bắt đầu chuyển bánh.
Một tiếng sau, khi cô tiếp viên bước lại dãy ghế của họ, Peter nhã nhặn thông báo rằng cả hai đều sẽ không dùng tới khay thức ăn cô mang tới. Jonathan ngạc nhiên nhìn bạn.
- Cậu đừng lo! Peter thì thầm thông cảm. Tớ đã nghĩ ra hai độc chiêu đáng giá ngàn vàng để cải thiện các chuyến bay đường dài. Tớ đã ghé tiệm bán đồ ăn sẵn ưa thích nhất của cậu và mua một số món để chúng ta có thể thưởng thức một bữa tối thật thịnh soạn. Tớ hơi cảm thấy có lỗi vì món lasagne của cậu.
Món cà trộn pho-mát bỏ lò, Jonathan khó chịu nói. Thế bữa tiệc của cậu đâu, tớ sắp chết đói rồi đây? - Nó nằm ở một trong những ngăn hành lý phía trên đầu chúng ta. Ngay sau khi nàng tiếp viên và xe thức ăn kia khuất sau tấm ri-đô, tớ sẽ dọn lên bữa tối của chúng ta!
- Thế độc chiêu thứ hai của cậu là gì?
Peter nghiêng người lấy từ trong túi áo ra một hộp thuốc viên và lắc lắc trước mặt bạn. - Là cái này! Anh nói vẻ tự mãn và chìa ra hai viên thuốc màu trắng. Đây là một viên thuốc thần kỳ. Khi tỉnh dậy cậu có thể nhìn ra cửa sổ và tự nhủ: “Kìa, sao trông giống London ghê!”
Peter đổ hai viên thuốc vào lòng bàn tay. Anh đưa một viên cho bạn nhưng Jonathan từ chối.
- Cậu sai lầm rồi đấy, Peter vứa nói vừa ném viên thuốc vào sâu trong họng. Đây không phải là thuốc ngủ, chỉ giúp cho cậu dễ chợp mắt hơn thôi, và tác dụng phụ duy nhất của nó, là cậu sẽ không hề có chút cảm giác gì về thời gian trong suốt chuyến bay.
Jonathan không đổi ý. Peter tựa đầu vào ô cửa và mỗi người theo đuổi những suy tư riêng của mình. Cô tiếp viên trưởng kết thúc công việc của mình và biến mất vào khoang dành riêng cho nhân viên hàng không. Jonathan tháo dây an toàn rồi đứng lên.
- Trong ngăn nào? Anh hỏi Peter rồi chỉ tay lên các ngăn hành lý phía trên.
Peter không trả lời. Jonathan cúi người xuống và nhận ra bạn thiu thiu ngủ. Anh đập nhẹ tay lên vai Peter, ngập ngừng một lát rồi lại thử lay bạn thêm vài lần nữa nhưng vô ích, Peter đã ngủ mê mệt. Jonathan mở nắp ngăn hành lý ngay trên chỗ họ ngồi. Khoảng một chục chiếc túi du lịch và áo khoác được xếp lộn xộn, chồng chất lên nhau. Anh cáu kỉnh ngồi xuống. Khoang hành khách chìm trong bóng tối. Một giờ đồng hồ sau, Jonathan tắt đèn ngủ và tìm cách lục lấy hộp thuốc ngủ trong túi áo bạn. Peter ngáy đều đặn, đầu gục xuống mép cửa, Jonathan không có cách nào với tới túi áo bên phải của bạn.
Sáu tiếng sau, cô tiếp viên lại hiện ra trước cửa khoang hành khách, tay đẩy một chiếc xe khác. Bị cơn đói hành hạ suốt cả chuyến bay, Jonathan hạnh phúc đón nhận khay đựng bữa sáng. Cô tiếp viên nghiêng người mở mặt bàn cho Peter, lúc này vừa tỉnh giấc, miệng vẫn còn ngáp khi cô đưa cho anh khay đồ ăn. Anh vụt ngồi thẳng dậy.
- Tớ đã nói với cậu là tớ sẽ phụ trách bữa tối cơ mà! Anh vừa nói vừa tức giận nhìn Jonathan. - Nếu cậu nói thêm một lời nữa, lần sau tỉnh dậy cậu sẽ nhìn qua cửa sổ và tự nhủ: “Kìa, sao trông giống bệnh viện Thánh Vincent ở London thế nhỉ!”
Cô tiếp viên đặt khay thức ăn lên mặt bàn của Peter, Jonathan nhặt chiếc bánh mì và bánh sừng bò trên khay và đưa lên miệng nhai vội vã trước vẻ mặt sửng sốt của bạn.
Một chiếc taxi đưa họ từ sân bay Heathrow tới tận trung tâm London.
Vào buổi sớm tinh mơ, đi xuyên qua quảng trường Hyde Park quả là một điều thú vị, khiến người ta sẵn sàng quên mất mình đang ở giữa lòng một trong những thủ đô lớn nhất Châu Âu. Những thân cây cổ thụ ẩn hiện trong làn sương mù dày đặc vẫn còn bao trùm thảm cỏ rộng mênh mông. Jonathan nhìn qua cửa xe, chăm chú theo dõi đôi ngựa đốm xám đang sóng bước, móng gõ trên nền đường ẩm ướt bằng cát nện của lối đi dành cho xe ngựa. Họ đi qua cánh cửa song sắt mang tên Cửa Ông Hoàng. Lúc này vẫn chưa tới tám giờ sáng, vậy mà tại bùng binh Marble Arch thực là một địa ngục của các dòng xe. Họ đi dọc theo đường Park Lane và cuối cùng được chiếc ta-xi đen thả xuống cửa sảnh có mái che của khách sạn Dorchester, nằm ngay cạnh công viên khu phố Mayfair sang trọng. Hai người lấy chìa khóa phòng rồi ai về phòng nấy. Một lát sau, Peter sang phòng Jonathan. Đang thay quần áo, Jonathan ra mở cửa cho bạn trong chiếc áo sơ-mi trắng và một chiếc quần cộc bằng vải kẻ ô kiểu Ê-cốt.
- Tớ nhận ra vị du khách lịch lãm đây rồi! Peter vừa bước vào vừa đùa cợt. Tớ đang tự hỏi cậu sẽ ăn mặc như thế nào nếu tớ đưa cậu sang Châu Phi? Chuyến bay đã làm tớ mệt nhoài rồi, anh nói thêm và thả người ngồi lún sâu vào chiếc ghế bành da to đùng kê cạnh cửa sổ.
Jonathan không trả lời, biến mất sau cánh cửa buồng tắm.
- Cậu vẫn còn giận hả? Peter hét to.
Jonathan ló đầu ra từ cánh cửa khép hờ.
- Tớ đã trải qua kì nghỉ cuối tuần bằng cách ngồi nhìn cậu ngủ ngon trong máy bay và rất có khả năng tớ đang bị đe dọa ly thân vào thời điểm chỉ còn bốn tuần trước ngày cưới. Tại sao tớ phải giận cậu cơ chứ? Anh vừa hỏi vừa chỉnh lại nút thắt cà-vạt.
Bao giờ cậu cũng mặc quần cuối cùng hả? Peter giễu cợt hỏi.
- Không, không hề, có điều nếu chẳng may gặp hỏa hoạn, nếu là tớ, tớ sẽ cảm thấy đỡ ngại hơn khi phải chạy ra hành lang mà chưa kịp đeo cà-vạt.
Jonathan ném ra một cái nhìn cáu bẳn.
- Đừng có cau có như thế, Peter nói tiếp, chúng mình tới đây vì ngài danh họa của cậu đấy chứ.
- Ít nhất thì người đưa tin của cậu cũng đáng tin cậy hả?
- Với cái giá mà tớ phải trả, tớ nghĩ tốt nhất anh ta nên thế! Anh ta đã viết rõ ràng năm bức tranh trong bức thư điện tử gửi cho tớ, Peter vừa nói vừa nhìn qua cửa sổ.
- Nếu thế gã ấy nhầm rồi, tin tớ đi!
- Tớ nhận được thư của cậu ta lúc vừa tỉnh giấc, và tớ đã gọi lại hắn mãi không được. Lúc đấy ở bên này muộn quá rồi, và tớ thì không thể trách hắn vì đã tự cho phép xả hơi vào tối chủ nhật.
- Cậu lại tỉnh giấc lúc trời đã xế chiều hả?
Peter tỏ vẻ lúng túng khi trả lời Jonathan.
- Tớ thức hơi khuya... Này anh bạn, chính tớ mới là người phải hy sinh kỳ nghỉ cuối tuần để cậu được thỏa niềm đam mê, cho nên đừng có làm tớ cảm thấy tội lỗi như vậy nữa!
Theo cậu thì một buổi bán đấu giá tầm cỡ như vậy sẽ không giúp gì cho cậu thoát khỏi những rắc rối với các cộng sự của mình phải không, thưa ngài chuyên gia đấu giá?
- Thôi thì cứ cho là chúng ta cũng hy sinh kỳ nghỉ cuối tuần vì một mục đích chung vậy!
- Cậu còn tin tức gì khác không?
- Địa chỉ phòng tranh nơi các bức tranh sẽ được triển lãm bắt đầu từ hôm qua. Đó sẽ là nơi diễn ra các cuộc thẩm định, cho tới khi chủ nhân các bức tranh tìm được người xứng đáng giao trách nhiệm tổ chức buổi bán đấu giá.
- Thế hiện giờ ai đang là đối thủ của cậu?
- Tất cả những người nào có trong tay một chiếc búa và biết nói “đấu giá kết thúc”. Tớ hoàn toàn trông cậy vào cậu để họ chọn tớ là người được nói câu này trong buổi bán đấu giá sắp tới!
Danh tiếng của Jonathan xứng đáng là một con át chủ bài trong cuộc chạy đua giành cơ hội này giữa những chuyên gia đấu giá. Là người đầu tiên có mặt, lại đi cùng một nhà chuyên môn tầm cỡ như Jonathan, Peter quả đã đi trước một bước dài.
Họ băng qua căn sảnh rộng của Dorchester, Peter dừng lại trước bàn người gác cửa. Anh chìa ra một mẩu giấy nhỏ và hỏi thăm đường tới địa chỉ ghi trên đó. Người đàn ông trong bộ đồng phục đỏ liền đi vòng qua quầy, mở một tấm bản đồ khu phố và dùng bút vạch đường họ phải đi để đến được phòng tranh. Bằng giọng long trọng, ông khuyên họ nên ngẩng đầu lên một vài lần, tại những địa điểm mà ông đã đánh một dấu thập, để chiêm ngưỡng mặt tiền của một vài tòa nhà cổ, hoặc một tòa dinh thự mà chắc chắn họ sẽ thấy thích thú. Bối rối, Peter nhướn mày hỏi người gác cổng xem ông ta có tình cờ có một người họ hàng xa đang sống ở Boston không. Người gác cổng tỏ vẻ ngạc nhiên vì câu hỏi của anh, rồi tận tình đưa hai người tới tận cánh cửa quay và giữ cửa chờ họ đi qua. Sau đó, ông lại đi cùng họ ra tận phần sảnh có mái che bên ngoài và cẩn thận nhắc lại tất cả những chỉ dẫn vừa mới được trình bày trước đó vài phút. Peter cầm lấy tấm bản đồ từ tay ông và kéo Jonathan đi luôn.
Họ men theo những con phố nhỏ lấp loáng ánh nắng. Mặt tiền các cửa hàng nằm dọc các vỉa hè lát gạch trắng đua nhau trưng bày đủ kiểu màu sắc. Những chậu hoa treo đều đặn trên các cột đèn đung đưa trong gió nhẹ. Jonathan có cảm giác như đang sống trong một thời đại khác. Anh đang đi tới một cuộc hẹn mà anh đã chờ đợi từ rất lâu, vừa đi vừa ngắm những mái nhà được lợp bằng ngói gỗ hoặc đá đen. Ngay cả khi người đưa tin của Peter có nhầm lẫn, ngay cả khi Jonathan phải thất vọng như anh đã chuẩn bị tinh thần sẵn, thì anh cũng biết tại một trong những phòng tranh nằm quay lưng về phía đường Piccadilly, rốt cuộc anh sẽ được đứng gần những tác phẩm cuối cùng của Vladimir Radskin. Chưa đầy mười phút là họ đã tới trước số 10 phố Albermarle. Peter lấy mẩu giấy trong túi áo vét ra kiểm tra lại địa chỉ. Anh đưa mắt nhìn đồng hồ và áp mặt vào những thanh sắt bảo vệ lớp kính của phòng tranh.
- Chắc họ vẫn chưa mở cửa, anh nói vẻ bực mình.
Lẽ ra cậu phải làm cảnh sát mới đúng, Jonathan đáp ngay lại.
Nhìn sang bên kia đường, Jonathan nhìn thấy một quán cà phê, bánh ngọt có mặt tiền toàn bằng kính. Anh quyết định đi sang đường, Peter theo sau. Quán cà phê có địa điểm thật đẹp. Mùi thơm lừng của hạt cà phê mới xay quện lẫn mùi bánh mì nóng vừa ra lò. Một vài người khách ngồi chống tay lên những mặt bàn cao, ai nấy đều đang vùi đầu vào đọc tạp chí hoặc báo. Khi hai người bước vào, không ai trong số họ ngước mắt lên.
Tới trước quầy bar lát đá hoa vân xám, họ gọi hai cà phê capucino, rồi mỗi người tự cầm lấy cốc của mình đi về phía chiếc bàn nhỏ kê sát vách bằng kính. Đó cũng là lần đầu tiên Jonathan nhìn thấy Clara. Cô mặc một chiếc áo khoác màu be, ngồi trên một chiếc ghế cao, vừa lật từng trang cuốn tạp chí Herald Tribune vừa nhấm nháp từng ngụm cà phê kem. Mãi đọc, cô lơ đãng đưa cốc nước còn nóng lên miệng, nhăn mặt vì bị bỏng, không hề rời mắt khỏi cuốn tạp chí, cô đặt cốc nước xuống mặt bàn và lật nhanh sang trang khác. Trông Clara thật gợi cảm, cho dù lớp kem đã quết lên môi trên của cô một vệt ria trắng hơi khó coi. Jonathan mỉm cười, anh rút một tờ khăn giấy mỏng, tiến lại gần và đưa cho cô. Clara cầm lấy song vẫn không ngẩng đầu lên. Cô lau miệng và máy móc đưa trả lại cho anh. Jonathan cất tờ giấy vào túi áo khoác song vẫn không rời mắt khỏi Clara. Đọc xong bài báo khiến cô có vẻ không vui, cô đẩy cuốn tạp chí ra và lắc đầu từ phải qua trái, rồi quay lại nhìn Jonathan, bối rối.
- Chúng ta có quen nhau không?
Jonathan không trả lời.
Tay cầm chiếc khăn giấy, anh chỉ lên cằm mình. Clara chấm chấm lên mặt, đưa trả lại chiếc khăn, suy nghĩ một vài giây rồi đôi mắt chợt vụt sáng.
- Xin lỗi anh, cô nói. Tôi thành thật xin lỗi, tôi không hiểu sao tôi vẫn tiếp tục đọc tạp chí này, mỗi lần đọc, nó đều làm tôi bực bội hết cả ngày.
- Thế bài báo đó viết gì? Jonathan hỏi.
- Chẳng có gì quan trọng, Clara trả lời, toàn những điều ra vẻ vừa chuyên môn vừa uyên bác, song rốt cuộc chỉ toàn những nhận định ngạo mạn.
- Còn gì nữa không?
Anh thật tốt khi tỏ ra quan tâm như vậy, song chưa chắc anh đã hiểu được đâu, đây là một vấn đề chán ngắt liên quan tới chuyên môn của tôi.
- Thì cứ cho tôi một cơ hội, thế cái thế giới ấy của cô là gì?
Clara nhìn đồng hồ và với ngay lấy chiếc khăn quàng cổ để trên chiếc ghế
kế bên.
- Hội họa! Đến lúc tôi phải đi, sắp muộn rồi, tôi đang chờ một đợt giao hàng.
Cô đi ra cửa và quay người lại trước khi ra đến ngoài.
- Một lần nữa, cám ơn anh...
- Có gì đâu, Jonathan ngắt lời.
Cô vẫy tay chào anh và đi ra. Qua cửa kính, Jonathan nhìn cô chạy băng qua đường. Tới vỉa hè bên kia, cô nhét chìa khóa vào một chiếc hộp nhỏ được gắn trên bề mặt tường và tấm màn sắt trước cửa phòng tranh số 10 phố Albermale từ từ kéo lên. Peter lại gần Jonathan.
Cậu làm gì thế?
- Tớ nghĩ là chúng ta đi được rồi, Jonathan vừa nói vừa nhìn theo bóng Chúng ta có hẹn với cô gái ấy ư?
- Tớ có cảm giác đúng như vậy.Clara biến mất trong phòng tranh.
- Nếu vậy thì cậu phải thay đổi ngay cái cách cậu nhìn cô ta đi.
- Cậu nói thế nghĩa là sao?
Cậu đừng cho tớ là thằng ngốc, nhưng thôi không sao, dù sao thì hai chục năm nay tớ cũng quen rồi.
Đáp lại vẻ ngạc nhiên của Jonathan, Peter nhăn mặt à chỉ tay vào cằm mình. Anh bước ra khỏi cửa hàng, vừa giả vờ vung vẩy một chiếc khăn mùi xoa trong tay. Ánh mặt trời chiếu sáng khắp phòng tranh. Jonathan tì đầu vào lớp kính. Các bức tường vẫn còn trơ trụi, căn phòng trống trơn, cô gái có lẽ đang ở phía sau quầy. Anh nhấn chiếc chuông nhỏ nằm kế bên cánh cửa gỗ sơn màu xanh da trời. Peter đứng phía sau anh. Một vài giây sau Clara xuất hiện. Cô vẫn mặc chiếc áo khoác ban nãy, hai tay thọc sâu vào túi. Cô mỉm cười nhận ra Jonathan, kéo chốt rồi mở hé cửa.
- Tôi để quên chìa khóa ở quán cà phê chăng?
- Không, Jonathan đáp, nếu không thì tôi đoán cô đã không thể vào.
- Có lẽ anh nói đúng, hay tôi để quên ví?
- Cũng không luôn.
- Sổ tay của tôi! Tôi luôn để mất nó, có lẽ vì tôi căm ghét các cuộc hẹn. - Cô yên tâm, tôi cam đoan là cô chẳng để quên gì cả.
Nóng ruột, Peter chen lên trước Jonathan và đưa cho Clara chiếc các của anh Peter Gwel, đại diện cho Christie’s, chúng tôi từ Boston vừa đến sáng nay để gặp cô. - Boston? Xa thế kia à, văn phòng chính của công ty các anh không nằm ở London sao? Clara trả lời và nhường đường để hai vị khách bước vào.
Cô quay người đi vào và hỏi có thể giúp gì cho họ. Peter và Jonathan nhìn nhau ngạc nhiên. Jonathan bước theo cô tới cuối phòng tranh.
- Tôi là chuyên gia thẩm định tranh. Chúng tôi đã được thông báo...
Clara ngắt lời anh, vẻ thích thú.
- Tôi đã đoán ra điều gì khiến các anh đến đây, mặc dù các anh đến hơi sớm quá. Như các anh đã thấy,tôi đang chờ chuyến hàng đầu tiên sẽ tới vào sáng nay.
- Chuyến hàng đầu tiên à? Jonathan hỏi.
- Đế đảm bảo an toàn, mỗi bức tranh sẽ được vận chuyển riêng, mỗi ngày một bức. Để xem được hết các bức tranh, có lẽ các anh sẽ phải ở lại London cả tuần tới. Phòng tranh này hoàn toàn độc lập, song với nghề này, thường là các hãng bảo hiểm có quyền ra lệnh.
- Cô sợ các bức tranh có thể bị đánh cắp trong quá trình vận chuyển à?
- Đánh cắp, hoặc tai nạn, một bộ sưu tập tầm cỡ đó cũng đòi hỏi phải chuẩn bị chu đáo một chút.
Một chiếc xe tải sơn biểu tượng của hãng Delahaye Moving đỗ vào vỉa hè trước lớp kính. Clara ra hiệu cho người lái xe chính xuống xe. Peter và Jonathan quả là may mắn, bức tranh đầu tiên vừa được chuyển tới. Tấm cửa lật phía sau được hạ xuống, ba người đàn ông vác chiếc hòm khổng lồ tới tận giữa căn phòng. Hết sức cẩn thận, họ dỡ dần từng miếng vãn được đóng vào để bảo vệ bức tranh. Cho tới khi bức  tranh được lấy ra khỏi hộp đựng bằng gỗ, Clara chỉ cho những người thợ vị trí treo bức tranh. Jonathan nóng lòng quá mức. Những người vận chuyển treo bức tranh lên bằng sự chính xác rất đáng ngưỡng mộ.
Khi họ vừa rời bức tranh, Clara liền kiểm tra khung và tỉ mỉ xem xét bề mặt tranh. Hài lòng, cô ký vào phiếu nhận hàng và trả nó cho người đội trưởng.
Mất gần hai tiếng đồng hồ trôi qua, chiếc xe tải mới rời khỏi khu phố. Trong suốt thời gian đó, Peter và Jonathan kính cẩn đứng nhìn Clara nhận và xếp đặt ví trí cho bức tranh. Nhiều lần Jonathan muốn giúp cô nhưng cô không đồng ý. Cô gắn sợi dây báo động và trèo lên một chiếc ghế thang khá cao để xoay từng chiếc đèn chiếu hướng về phía bức tranh. Jonathan đứng ra phía trước và đưa một vài góp ý để điều chỉnh ánh đèn chiếu mà cô còn chưa nhín tới nơi. Cô phải tréo xuống nhiều lần để đích thân ngắm nghía kết quả công việc của mình. Càu nhàu một vài lời mà chỉ mình cô hiểu được, Clara lại tréo lên thang và điều chỉnh luồng sáng đèn. Peter thì thầm vào tai bạn rằng trước đây anh vẫn tưởng bạn mình là người duy nhất điên rồ và bị nhà danh họa Nga ám ảnh, song giờ danh hiệu đó đã tìm được đối thủ cạnh tranh. Jonathan nhìn bạn bằng ánh mắt quở trách và Peter lùi ra xa, suốt khoảng thời gian còn lại của buổi sáng anh không rời khỏi chiếc điện thoại di động. Anh vừa nói chuyện điện thoại vừa đi doc theo bức tường kính, có lúc tiến vào giữa phòng tranh, có khi lại ra tận vỉa hè, trong khi Clara và Jonathan trao đổi với nhau quan điểm của họ về chất lượng ánh sáng đạt được. Tới khoảng một giờ chiều, Clara đứng quan sát bức tranh, bên cạnh Jonathan. Hai tay chống lên hông, nét mặt cô đã giãn ra, cô lấy khuỷa tay huých anh khiến anh giật nảy người.
- Tôi đói quá, cô nói, còn anh?
- Tôi cũng vậy!
- Anh có thích món ăn Nhật không?
- Có.
- Lúc nào anh cũng nói nhiều như thế này à?
- Phải, anh trả lời ngay trước khi nhận thêm một cú huých tay nữa.
- Bức họa này thật tuyệt, phải không? Clara nói tiếp, giọng xúc động.
- Bức tranh vẽ cảnh một bữa trưa ở đồng quê. Một chiếc bàn kê trên một sân lát đá rộng bên cạnh một  tòa nhà. Khoảng hơn một chục thực khách đang ngồi ăn, một số người nữa đứng ở phía xa hơn. Một cây dương lớn xòa tán rộng che bóng mát lên hai người đàn ông ăn mặc lịch sự. Nét vẽ của danh họa chân thực tới mức tạo cảm giác như hai nhân vật đang nhấp nháy môi thành lời trò chuyện với nhau. Màu sắc của tán lá và bầu trời tươi sáng cho thấy đó là một buổi chiều hè đẹp trời, cho dù cách đây cả thế kỷ nhưng thực tới mức tạo cảm giác như hai nhân vật đang nhấp nháy môi thành lời trò chuyện với nhau. Màu sắc của tán lá và bầu trời tươi sáng cho thấy đó là một buổi chiều hè đẹp trời, cho dù cách đây cả thế kỷ nhưng trong bức họa này là có thể tưởng tượng ra như họ còn đang sống. Anh phá tan sự lặng thinh ngưỡng mộ mà Clara và anh cùng gom góp từ lúc nãy.
- Đây là một trong những tác phẩm cuối cùng của nhà danh họa. Cô có để ý góc nhìn đặc biệt này không. Rất hiếm khung cảnh được vẽ theo kiểu này. Vladimir đã sử dụng độ cao để làm tăng thêm chiều sâu cho tầm nhìn của ông. Giống như cách thể hiện của một nhà nhiếp ảnh.
- Thế anh có nhận thấy không một người phụ nữ nào xuất hiện quanh bàn ăn không? Cứ cách một ghế lại có một ghế trổng.
Ông ta không bao giờ vẽ phụ nữ.
Ông ấy căm ghét phụ nữ ư?
- Vợ ông ấy mất sớm và không thể nào quên được nỗi đau ấy.
- Tôi chỉ thử anh thôi! Thôi nào chúng ta đi, dạ dày tôi luôn giày vò mối khi tôi tìm cách lờ nó đi quá lâu.
Clara kéo Jonathan đi, cô bật camera theo dõi, tắt đèn, bật còi báo động và đóng cửa. Trên vỉa hè, Peter vẫn tiếp tục đi đi lại lại, ra hiệu cho họ anh sắp trò chuyện xong và sẽ đuổi theo họ.
- Di động của bạn anh không cần phải sạc pin bao giờ hả?
- Cậu ấy tràn trề năng lượng đến nỗi truyền cả sang pin điện thoại rồi!
- Chắc vậy, chúng ta đi nhanh lên thôi, ở ngay trước mặt kia rồi.
Jonathan và Clara băng qua đường, họ bước vào một nhà hàng nhỏ bán đồ ăn kiểu Nhật và chọn một khoang trong góc. Jonathan đưa thực đơn cho Clara đúng lúc Peter xuất hiện trước cửa và nhập bọn cùng họ.
- Chỗ này thật thú vị, anh ngồi xuống và nói. Thật xin lỗi vì đã để hai người phải chờ, tôi cứ nghĩ với sự chênh lệch giờ giấc, tôi sẽ có một chút thời gian trước khi các văn phòng ở Boston bắt đầu làm việc, nhưng “chợ chưa họp kẻ cắp đã đến”.
- Cậu có đói không? Jonathan hỏi và đưa thực đơn cho anh bạn.
Peter mở thực đơn rồi đặt nó lên bàn, vẻ mặt anh trông thật bực bội.
- Hai người thích món cá sống này lắm hả?
Tôi khoái những món không khiến mình phải đắn đo về độ tươi sống hơn.
- Hai anh em quen nhau lâu lắm rồi phải không? Clara hỏi vẻ thích thú.
Bữa ăn trưa khá dễ chịu. Peter tận dụng hết sức sự thu hút của mình, anh làm cho Clara cười khá nhiều. Anh kín đáo viết vội vài chữ lên một chiếc khăn giấy và nhét vào tay Jonathan. Jonathan mở tờ giấy để trên đùi; sau khi đọc xong, anh vo tròn mẩu giấy và lén thả nó xuống đất. Phía bên kia đường, dưới bầu trời London vần vũ mây, bức tranh của danh họa già người Nga vẫn tỏa ra ánh sáng của một mùa hè xa xưa dường như không bao giờ ngừng tắt.
Sau bữa ăn trưa, Peter quay về văn phòng Christie’s trong khi Jonathan và Clara trở lại phòng tranh. Suốt buổi chiều hôm ấy, anh ngồi trên một chiếc ghế cao, đối diện với bức tranh. Anh chăm chú xem xét từng chi tiết nhỏ qua kính lúp, rồi cẩn thận ghi chép những nhận xét của mình vào một cuốn sổ lớn gáy xoắn.
Peter gọi ngay thợ chụp ảnh tới phòng tranh vào cuối buổi chiều. Anh ta tỉ mỉ sắp đặt dụng cụ. Vài chiếc ô to màu trắng cắm trên giá ba chân đặt hai bên bức tranh, nối với chiếc máy ảnh ống kính 6×6 bằng những sợi dây.
Trong ánh chiều tà, lớp cửa kính vài chục lần lóe lên những tia sáng theo nhịp đèn flash nối tiếp nhau. Từ ngoài đường nhìn vào, người ta có thể tưởng nhầm một cơn bão đang bùng lên trong phòng tranh. Đến cuối ngày, người thợ chụp ảnh xếp đồ nghề ra phía sau căn phòng rồi chào Jonathan và Clara. Anh ta sẽ quay lại vào ngày hôm sau, cũng giờ này, để tiếp tục công việc với bức tranh thứ hai. Trong khi anh ta chào Clara trên ngưỡng cửa, Jonathan kiểm tra lại chữ ký nằm phía dưới bức họa. Đó quả thực là bức Bữa ăn trưa ở đồng quê của Vladimir Radskin, nó đã từng được triển lãm ở Paris hồi đầu thế kỷ, rồi ở Rome trước chiến tranh và sẽ được liệt vào danh mục tác phẩm của danh họa sắp được phát hành.
Đã khá lâu rồi Jonathan mới lại cảm thấy mệt mỏi do lệch múi giờ. Anh đề nghị Clara để anh giúp đóng cửa phòng tranh. Cô cảm ơn anh nhưng còn một số việc phải hoàn thành. Cô tiễn anh ra tận cửa.
- Hôm nay quả là một ngày tuyệt vời, anh nói, tôi vô cùng biết ơn cô.
- Nhưng thật sự tôi có làm được gì ghê gớm đâu, Clara trả lời bằng giọng nhẹ nhàng, anh phải cảm ơn ông ấy mới đúng, cô nói thêm và chỉ tay vào bức tranh.
Khi ra đến cửa, anh không thể kiềm chế nổi cái ngáp dài. Anh quay lại và đăm đăm nhìn Clara.
Cô mỉm cười.
- Tôi nghĩ là chúng ta còn cả một tuần cho các câu hỏi, giờ thì anh hãy về ngủ một giấc đi, suốt chiều nay tôi đã tự hỏi không biết anh làm thế nào để có thể đứng vững được.
- Tôi phải có tới cả ngàn câu hỏi dành cho cô, anh nói.
Jonathan lùi bước và giơ tay chào tạm biệt. Clara cũng giơ tay vẫy và một chiếc xe ta-xi đen tiến tới đậu bên hè.
Cảm ơn cô, Jonathan nói.
Anh lên xe và lại ra hiệu chào cô qua cửa sổ. Clara quay vào trong và khép cửa phòng tranh, cô bước tới sát lớp kính và nhìn theo chiếc xe đi xa dần, vẻ trầm ngâm. Một câu hỏi khác cứ vấn vương trong tâm trí cô kể từ bữa trưa. Cảm giác đã từng gặp Jonathan càng lúc càng trở nên ám ảnh. Khi anh ngồi trên chiếc ghế cao, say sưa ngắm nhìn bức tranh, một vài cử chỉ của anh khiến cô cảm thấy gần như thân thuộc. Mặc dù cô đã cố gắng suy nghĩ rất nhiều, song vẫn không thể nào nhớ ra bất cứ ngày tháng hay địa điểm nào liên quan đến cảm giác này. Cô nhún vai và quay trở lại bàn làm việc. Khi về đến phòng, Jonathan nhận thấy đốm sáng màu đang nhấp nháy trên điện thoại để bàn. Anh đặt ngay túi xuống, nhấc máy lên và nhấn nút nghe tin nhắn. Giọng nói của Peter vẫn không hề bớt sôi nổi. Hai người được mời tới dự một buổi khai mạc triển lãm, sau đó là cuộc chiêu đãi trong một nhà hàng sang trọng, với những “món ăn đúng nghĩa”, “được nấu chín”, Peter thông báo. Anh hẹn Jonathan ở sảnh lúc chín giờ tối.
Jonathan làm như không biết nguyên nhân khiến anh ít nhiều thất vọng. Anh để lại một tin nhắn trả lời trong phòng Peter. Sự mệt mỏi đã hoàn toàn chế ngự anh, anh muốn ở nhà ngủ hơn, họ sẽ gặp lại nhau vào sáng ngày mai. Ngay sau đó, anh bấm số máy nhà mình ở Boston. Chuông điện thoại reo song không có ai nghe máy, có lẽ Anna đang ở trong xưởng vẽ và có thể cô đã ngắt chuông điện thoại, cũng có thể cô đã ra ngoài mà không để máy nhắn tin. Jonathan cởi bỏ quần áo và bước vào phòng tắm.
Khi trở ra, quấn quanh người một chiếc áo choàng tắm dày bằng vải bông, anh lấy cuốn sổ và đọc lại những gì đã ghi chép. Anh đưa tay vuốt nhẹ phía dưới một trang sổ đặc kín chữ, nơi có một ký họa nhỏ mà anh đã nhanh tay thảo trong buổi chiều. Mặc dù đường nét cong vụng về, song có thể dễ dàng nhận ra khuôn mặt của Clara. Jonathan thở dài, đặt cuốn sổ xuống, tắt đèn, hai tay đan sau gáy và nằm chờ giấc ngủ đến.
Một tiếng sau, vẫn chưa ngủ được, anh nhảy xuống khỏi giường, lấy bộ áo complet treo trong tủ, mặc một chiếc áo sơ-mi mới và rời khỏi phòng. Anh chạy theo hành lang dài dẫn tới thang máy, buộc dây giày khi đã vào bên trong, chỉnh lại cà-vạt khi cửa thang máy mở ra ở tầng trệt. Anh nhận ra Peter đang đứng cạnh cây cột bằng đá hoa cương ở phía đầu kia của gian sảnh. Jonathan bước vội, nhưng khi gần tới chỗ Peter, anh chợt nhận ra dáng một người khác, tràn đầy vẻ nữ tính, đứng cạnh cây cột. Cánh tay Peter choàng qua eo cô gái có thân hình tuyệt đẹp, trang phục thoáng hết mức. Jonathan mỉm cười đứng lại trong khi Peter biến mất sau cánh cửa quay. Đứng trơ trọi giữa sảnh của khách sạn Dorchester, Jonathan nhìn quầy bar và quyết định vào đó. Trong quầy đông kín người. Chàng trai phục vụ bàn đưa anh tới một chiếc bàn nhỏ, Jonathan thả mình lút sâu trong chiếc ghế bành rộng bằng da màu đen. Một chai rượu buốc- bông và một chiếc sandwich sẽ dung hòa mệt mỏi độ lệch múi giờ với những ý muốn bất chợt của anh.
Anh mở tờ báo thì ánh mắt chợt bắt gặp mái tóc bạch kim của một người phụ nữ ngồi bên quầy bar. Jonathan nghiêng người, song đám đông vây quanh quầy che khuất tầm nhìn của anh, khiến anh không thể nhìn thấy khuôn mặt người phụ nữ. Jonathan nhìn thêm hồi lâu, dường như bà ta đang chăm chú nhìn người pha rượu.
Anh định quay lại với trang báo song chợt nhận ra động tác đặc biệt khi bàn tay đồi mồi của người đàn bà lắc cho các viên đá quay tròn trong ly whisky, rồi anh nhìn thấy chiếc nhẫn bà ta đeo trên tay. Tim đập rộn rã, anh lập tức đứng dậy. Khó nhọc lắm mới rẽ được một lối đi qua đám đông, cuối cùng anh cũng tới được quầy bar.
Nhưng một phụ nữ khác hẳn tuổi bà ta đã ngồi vào ghế đó. Một đám đàn ông xúm quanh cô, cố tìm cách kéo cô ra nhập bọn với họ. Jonathan phải khó khăn lắm mới có thể bứt ra khỏi đám người đang say sưa. Anh kiễng chân và nhìn thấy mái tóc trắng đi về phía cửa trông như đang trôi trên một đại dương tưởng tượng. Khi anh ra tới nơi, sảnh khách sạn vắng tanh. Anh chạy vội ra bên ngoài, tới phần sảnh có mái che, hỏi người gác cổng xem có nhìn thấy một người đàn bà vừa mới bước ra. Lúng túng, ông nhã nhặn cho anh biết vì nguyên tắc nghề nghiệp, ông ta không có quyền trả lời những câu hỏi như vậy… Đúng là London.
Ngày hôm sau, Jonathan và Peter gặp nhau từ sáng sớm để cùng chạy bộ trong công viên.
- Này, trông mặt cậu kìa! Đối với một người xem như đã ngủ suốt mười hai tiếng, nhìn cậu như mất ngủ ấy, Peter nói với Jonathan. Cậu lại ra ngoài phải không?
- Không, chỉ có điều tớ chẳng hề chợp mắt, thế thôi. Thế còn cậu, tối qua thế nào?
- Rất đáng kể, toàn những người có địa vị.
Thật sao? Thế cô ta thế nào?
- Rất đáng kể!
- Tớ cũng nghĩ thế.
Peter vịn tay lên vai Jonathan.
- Thôi nào, thật ra thì tớ chỉ thay đổi kế hoạch vào phút cuối, mà cũng hoàn toàn do cậu không chịu đi cùng tớ. Tớ rất cần cà phê, anh vui vẻ nói, tớ chẳng ngủ được nhiều lắm.
Cậu làm ơn đừng có kể chi tiết với tớ, Jonathan tiếp lời.
- Tâm trạng cậu khá tốt, như vậy là được. Các đối thủ của chúng ta sẽ không thể chỉnh đốn xong đội ngũ trước ngày thứ sáu, như vậy là chúng ta có hơn họ một tuần để giành được buổi đấu giá này. Bây giờ thì hãy trang bị cho vẻ mặt của cậu một chút quyến rũ trước khi tới gặp “cô chủ phòng tranh” của chúng ta, tớ vẫn chưa biết ai là người sở hữu các bức tranh song ý kiến của cô ta sẽ đóng một vai trò quan trọng và tớ có cảm giác cô ấy cũng không hề thờ ơ trước sự hấp dẫn của cậu.
- Peter, cậu làm tớ phát bực rồi đấy.
- Đấy, tớ đã bảo mà, tâm trạng của cậu thật tuyệt vời! Peter nói vội. Cậu nên đi ngay bây giờ.
- Cậu nói gì cơ?
- Cậu chỉ có một ước muốn là quay lại xem bức tranh của cậu, thế thì đi ngay đi.
- Cậu không đi với tớ à?
Tớ còn có việc. Có phải dễ mà mang được các bức tranh của Radskin về Mỹ đâu.
- Nếu thế, cậu tổ chức cuộc bán đấu giá tại London đi.
- Không được, tớ cần sự có mặt của cậu.
- Tớ thấy có vấn đề gì đâu?
- Khi nào về khách sạn thay quần áo, cậu lấy cuốn sổ tay và nhớ kiểm tra lại điều tớ nói đây: hình như cậu sẽ lấy vợ vào cuối tháng sáu ở Boston.
Cậu muốn bán các bức tranh đó trong vòng một tháng nữa hả?
- Chúng ta sẽ chốt lại danh mục các tác phẩm trong mười ngày nữa, tớ vẫn có đủ thời gian.
- Bộ não của cậu có biết là cậu không hề nghiêm túc khi nói thế không?
- Tớ biết, đó quả là một cuộc cá cược điên rồ, nhưng tớ chẳng còn lựa chọn nào khác nữa, Peter càu nhàu.
- Tớ không nghĩ là cậu điên, mà thậm chí còn hơn thế nữa kia!
- Jonathan, bài báo đó đã làm cả văn phòng đảo lộn từ trên xuống dưới. Hôm qua trong hành lang, mọi người nhìn tớ như thể tớ đang hấp hối vậy.
- Tại lúc đó cậu đang bị quỷ ám chứ gì!
Tớ cũng muốn thế lắm, Peter thở dài. Nhưng không, tớ cam đoan với cậu là mọi chuyện đang xoay chuyển theo chiều hướng rất xấu, buổi bán đấu giá này có thể sẽ cứu được được tớ và tớ thực sự cần cậu hơn bao giờ hết. Phải tìm mọi cách để chúng ta có thể tóm được nhà danh họa già của cậu. Nếu buổi bán đấu giá này tuột khỏi tay chúng ta, tớ sẽ không thể vực lên được, mà ngay cả cậu cũng thế.
Cả tuần này, không khí tại các văn phòng của Nhà Christie’s tại London cứ sôi lên sung sục. Các chuyên gia, người bán, người mua và những người điều khiển các buổi bán liên tục bàn bạc trong các phòng họp khác nhau. Các nhà chuyên môn ở mỗi khâu luôn phải gặp nhau từ sáng đến tối, bàn định và lên kế hoạch cho các buổi bán của nhiều chi nhánh trên khắp thế giới, soát lại các danh mục và phân chia các tác phẩm lớn cho những chuyên gia đấu giá. Peter sẽ phải thuyết phục các cộng tac viên để họ đồng ý cho anh mang những bức họa của Vladimir Radskin sang Boston. Trong khoảng non một tháng nữa, dưới búa của anh sẽ là buổi đấu giá các tác phẩm lừng danh của thế kỷ XIX, mà những tạp chí nghệ thuật quốc tế sẽ không thể không tập trung sự chú ý. Đảo lộn chương trình không phải là một việc nằm trong thói quen của ban lãnh đạo công ty, Peter biết làm được điều này quả không hề dễ dàng, và trong cảm giác cô đơn, anh chợt thấy nghi ngờ chính bản thân mình.
Khi Jonathan đến trước cửa nhà số 10 phố Albermarle thì đã hơn mười giờ sáng, Clara đã có mặt ở đó. Qua lớp kính, cô nhìn thấy anh xuống taxi và đi qua đường về phía quán cà phê nhỏ. Vài phút sau, anh bước ra, trong tay cầm hai chiếc cốc to đùng bằng bìa đựng cappuccino, cô mở cửa cho anh. Khoảng gần mười một giờ sáng, chiếc xe tải của hãng Delahaye Moving đến đậu dọc vỉa hè trước cửa phòng tranh. Chiếc hòm đựng bức họa thứ hai được đặt trên những chiếc mễ kê ở giữa phòng, Jonathan thấy trong anh đang lớn dần cảm giác nôn nóng chứa đầy kỷ niệm. Một phần nhờ tuổi thơ mà anh chưa bao giờ hoàn toàn rũ bỏ, anh vẫn luôn giữ cho mình cai cảm giác ngây ngất trước một điều mới lạ. Có biết bao người trưởng thành xung quanh anh đã tự mình đánh mất cái cảm giác tuyệt vời ấy? Cho dù một số người có thể cho đó là lỗi thời, song Jonathan vẫn có thể phấn khích trước màu sắc của một buổi chiều xuống, mùi hương của một mùa, nụ cười trên khuôn mặt của một cô gái xa lạ đi ngang qua đường, anh mắt của một đứa trẻ, cử chỉ là một trong những sự quan tâm nhỏ nhặt nhất trong cuộc sống thường nhật. Và cho dù Peter thỉnh thoảng vẫn chế giễu anh, Jonathan luôn tự nhủ sẽ mãi mãi trung thành với một lời hứa với cha anh, rằng anh sẽ không bao giờ để mất đi cái cảm giác ngây ngất ấy. Phải che giấu sự nôn nóng lúc này, đối với anh, còn khó hơn cả ngày hôm qua. Có thể anh sẽ phải chờ lâu hơn để được chiêm ngưỡng tác phẩm mà anh hằng mơ tưởng, cũng có thể nó không nằm trong bộ sưu tập này, song Jonathan vẫn tin vào ngôi sao may mắn của mình.
Anh nhẫn nại nhìn những người thợ lần lượt tháo những chiếc đinh khỏi những tấm ván gỗ sáng màu. Cứ mỗi tấm ván được người đội trưởng thận trọng gỡ ra, anh lại có cảm giác tim mình đập mạnh hơn một chút. Clara đứng nhìn anh, tay chắp sau lưng, cô run rấy vì nóng ruột.
- Tôi ước sao họ lột hết những mảnh gỗ kia ra cùng một lúc, để có thể xem bức tranh ngay bây giờ, Jonathan thì thầm.
- Tôi đã chọn họ chính vì họ sẽ làm hoàn toàn ngược lại! Clara thấp giọn trả lời.
Chiếc hòm hôm nay trông còn đồ sộ hơn cả chiếc của ngày hôm qua. Việc tháo dỡ khung bảo vệ còn cần khoảng hơn một giờ nữa. Nhóm thợ vận chuyển đã đến giờ giải lao. Họ trèo cả lên thùng xe tải để có thể tận hưởng một ngày nắng đẹp. Clara đóng cửa phòng tranh và đề nghị Jonathan cũng đi dạo để thay đổi không khí. Họ đi bộ dọc con phố, rồi bỗng nhiên cô gọi một chiếc ta-xi.
- Anh đã bao giờ đi dọc sông Tamise chưa?
Họ thả bộ dưới những hàng cây dọc theo bờ sông. Jonathan trả lời tất cả các câu hỏi mà Clara đặt ra cho anh. Cô hỏi anh điều gì đã khiến anh trở thành một chuyên gia thẩm định tranh và vô tình đã mở ra trong anh một góc nhìn vào quá khứ. Họ ngồi xuống một chiếc ghế băng và Jonathan kể cho cô nghe về buổi chiều mùa thu năm ấy, khi cha anh đưa anh tới thăm bảo tàng lần đầu tiên. Anh mô tả cho cô về kích thước của căn phòng mênh mông mà cha và anh đã bước vào. Cha anh đã buông tay ra, tín hiệu của sự tự do. Đứa bé chợt dừng lại trước một bức tranh. Người đàn ông được vẽ trong bức tranh treo chính giữa bức tường lớn dường như chỉ nhìn vào nó.
- Đây là một bức tự họa, cha anh thì thầm, ông ta đã tự vẽ chính mình, rất nhiều họa sĩ làm như vậy. Giới thiệu với con, đây là Vladimir Radskin.
Và thế là chú bé bắt đầu đùa chơi với người họa sĩ già. Cho dù nó trốn sau chiếc cột to, chạy vòng vèo khắp gian phòng theo hướng này hay hướng khác, dù nhanh hay chậm, dù bước lên hay xuống, ánh mắt kia vẫn dõi theo và chỉ tập trung vào một mình nó. Ngay cả khi nó nhắm tịt mắt, đứa trẻ biết rằng “người đàn ông trong bức tranh vẫn nhìn nó đăm đăm”. Như bị mê hoặc, nó bước lại gần bức tranh và cứ đứng như vậy hàng giờ. Dường như tất cả đồng hồ trong vòng nghìn dặm quanh nó đã ngừng kêu tích tắc, như hai thời đại đã hòa nhập vào nhau bởi sức mạnh của một cái nhìn, một cảm xúc duy nhất. Bằng tất cả tâm hồn của tuổi mười hai, Jonathan bắt đầu tưởng tượng. Bằng một nét cọ trên một bức tranh vượt lên mọi nguyên tắc vật lý, đôi mắt người đàn ông đã gửi qua hàng thế kỷ những lời mà chỉ một mình đứa bé nghe được. Cha anh đã tìm được một chỗ ngồi phía sau anh, trên một chiếc ghế băng. Jonathan say mê ngắm nhìn bức tranh như bị hút hồn: cha anh ngồi ngắm đứa con trai, bức tranh đẹp nhất của đời ông.
- Thế nếu ông không đưa anh tới bảo tang ngày hôm đó, thì giờ anh sẽ làm gì? Clara hỏi bằng giọng rụt rè.
Có phải cha anh, người đàn ông với nụ cười luôn hiện trên môi hay là số phận đã dẫn bước anh tới bức tranh treo tại phía tường ấy? Hay là cả hai? Jonathan không trả lời. Tới lượt anh hỏi Clara điều gì đã gắn bó cô với người họa sĩ già. Cô mỉm cười, nhìn chiếc đồng hồ trên gác chuông Big Ben phía xa xa, đứng lên và vẫy một chiếc ta-xi.
- Chúng ta còn rất nhiều việc phải làm, cô nói.
Jonathan không gặng hỏi, anh vẫn còn có hai ngày nữa, và nếu vận may mỉm cười với anh, nếu bức họa thứ năm thực sự tồn tại, có thể anh sẽ còn ba ngày ở bên cô.
Sáng hôm sau, Jonathan lại gặp Clara và những người thợ vận chuyển đã giao bức tranh của ngày hôm đó. Trong khi họ đang bận rộn tháo dỡ, một chiếc Austin bé tí màu đỏ chói dừng trước tường kính. Một thanh niên từ trên xe bước xuống và đi vào phòng tranh, hai tay ôm một chồng tài liệu. Clara ra hiệu cho anh ta rồi biến mất vào phía trong. Người lạ mặt, không nói một lời, chăm chú nhìn Jonathan chừng mười phút, cho tới khi Clara xuất hiện trong chiếc quần da và một chiếc áo được thiết kề bởi một nhà tạo mẫu nổi tiếng. Jonathan bị choáng ngợp bởi vẻ dịu dàng gợi cảm toát ra nơi cô.
- Chúng tôi sẽ quay lại sau hai tiếng,
Clara nói với người thanh niên. Cô vội vã ôm chồng tài liệu mà người thanh niên để trên bàn bước ra cửa, rồi quay lại nói với Jonathan.
- Anh đi với tôi, cô nói.
Ra tới vỉa hè, cô nghiêng người về phía anh và nói nhỏ:
- Anh ta tên là Frank, làm việc trong một phòng tranh khác của tôi. Nghệ thuật đương đại! Cô vừa nói thêm vừa chỉnh lại dây áo.
Hơi sửng sốt, Jonathan mở cửa x echo cô. Clara chui vào xe và lách mình qua hộp số sang ghế bên kia.
- Ở chỗ chúng tôi, tay lái nằm phía bên kia, cô vừa nói vừa cười và cho chiếc Cooper khởi động.
Phòng tranh ở Sôh rộng gấp năm lần phòng tranh ở Mayfair. Các tác phẩm được trưng bày không thuộc phạm vi chuyên môn của Jonathan, song anh vẫn nhận ra trên tường có ba bức tranh của Basquiat, hai bức tranh của Andy Warhol, một của Bacon, một của Willem de Kooning, cùng các bức tranh khác và một số tác phẩm điêu khắc hiện đại, trong đó có hai bức tượng của Giacometri và Chillida.
Clara trao đổi khoảng nửa giờ với một khách hàng, gợi ý cho một phụ tá trao đổi vị trí hai bức tranh, kiểm tra độ sạch của một đồ gỗ bằng cách kín đáo miết tay lên bề mặt, ký hai tờ séc được kẹp trong một cặp hồ sơ màu cam do một người phụ nữ có mái tóc màu đỏ được thắt bằng vài sợi dây màu xanh trình cho cô. Sau đó, cô gõ một bức thư trên chiếc máy tính cũng rất xứng đáng được xem là một tác phẩm nghệ thuật, rồi tỏ ra hài long, cô đề nghị Jonathan đi cùng cô tới chỗ một đồng sự. Cô yêu cầu ai đó báo với Frank anh sẽ phải ở lại Mayfair hơi lâu một chút. Sau khi chào bốn người đang làm việc ở phòng tranh, họ lại rời đi bằng chiếc xe nhỏ.
Cô lái xe điệu nghệ theo những con phố hẹp của Sôh và cuối cùng lách được vào chỗ đậu xe duy nhất còn trống trên phố Greek. Jonathan đứng chờ trong khi cô thương lượng một bức tượng khá lớn với người bán hàng. Họ về tới số 10 phố Albermarble vào đầu giờ chiều. Vẫn không phải là bức tranh mà anh hy vọng được nhìn thấy, xong vẻ đẹp của bức tranh nhận được cũng an ủi anh khá nhiều.
Người thợ ảnh phá tan bầu không khí thân mật ngắn ngủi mà cả anh và cô mặc dù chưa thú nhận bằng lời, song đều cảm thấy dễ chịu. Trong khi Jonathan xem và đánh giá bức tranh, Clara bận rộn bên bàn làm việc sắp xếp giấy tờ và ghi chép. Thỉnh thoảng, cô ngước mắt lên quan sát anh; đôi lúc anh cũng làm như vậy, và một vài lần ánh mắt họ gặp nhau, hai người cùng vôi vã quay đi để lẫn trốn sự tình cờ ấy.
Peter đã ở lì cả ngày tại Christie’S, bận rộn tập hợp những tài liệu cần thiết để chuẩn bị cho buổi đầu giá. danh mục của anh. Lúc không bận rộn với những thành viên trong ban quản trị để thuyết phục họ rằng anh hoàn toàn có thể tổ chức mọi thứ đúng hạn, anh lại giam mình trong phòng dữ liệu. Ngồi trước một màn hình máy tính được kết nối với một trong những hệ thống cơ sở dữ liệu tư nhân lớn nhất trong lĩnh vực kinh doanh nghệ thuật, anh lưu lại và sắp xếp tất cả các bài viết và các bức ảnh được thực hiện trong vòng một thế kỷ về những tác phẩm của Vladimir Radskin. Buổi họp ban quản trị để quyết định số phận của anh đã được dời lại tới hôm sau và Peter có cảm giác như mỗi giờ trôi qua, cổ áo sơ-mi lại càng siết chặt lấy họng anh.
Anh gặp lại Jonathan tại khách sạn để đưa bạn tới một buổi dạ tiệc thượng lưu, những chốn ấy khiến Jonathan căm ghét hơn mọi thứ trên đời. Song, vì công việc, anh vẫn cố tỏ ra tươi tỉnh trong suốt buổi nhạc kịch với sự có mặt của những nhà sưu tầm nghệ thuật lớn nhất cũng như những nhà kinh doanh nghệ thuật tên tuổi nhất. Tới cuối buổi diễn, Jonathan ra về ngay lập tức. Trong khi đi dạo theo những con phố của Convent Garden, anh nghĩ tới cuộc sống xa xưa từng diễn ra tại đây. Những mặt tiền tuyệt đẹp này trước kia vẫn còn nham nhở vôi vữa, những con đường trong khu phố này, giờ là một trong những con phố đắt giá nhất của London, xưa kia tồi tàn và bẩn thỉu. Dưới anh sáng mờ yếu ớt phát ra từ một trong những ngọn đèn cao áp chiếu xuống vỉa hè bóng loáng, khoảng một trăm năm mươi năm về trước, anh đã có thể gặp đâu đó trong con phố nhỏ này một họa sĩ người Nga tay cầm mẩu than đang cặm cụi vẽ những người qua đường hối hả mua bán xung quanh một ngôi chợ.
Peter, về phần mình, đã gặp một cô bạn cũ người Ý vừa mới ghé London. Anh ngập ngừng đôi chút trước khi cô cùng anh uống một vài ly. Dù sao thì buổi họp cũng chỉ bắt đầu vào đầu giờ chiều mai, là lúc mà thông thường anh cảm thấy cao hưng nhất trong ngày. Lúc này mới nửa đêm, anh bước vào quán rượu trong vòng tay Melena.
Jonathan tỉnh dậy từ sớm, Peter vẫn chưa có mặt tại sảnh như đã hẹn, anh liền tận dụng cơ hội đó để thong thả tản bộ tới phòng tranh. Cánh cửa sắt bên ngoài vẫn đong kín, anh mua một tờ báo và ngồi chờ Clara trong quán cà-phê. Một lúc sau, anh chàng Frank đến tìm anh và trao cho anh một phong bì. Jonathan xé ra đọc.
Jonathan thân mến,
Thứ lỗi cho sự vắng mặt của tôi, tôi sẽ không thể gặp anh sáng nay. Frank sẽ thay tôi nhận bức tranh và tất nhiên là phòng tranh vẫn mở rộng cửa chào đón anh. Tôi biết anh rất nóng lòng được nhìn thấy bức tranh của ngày hôm nay, nó rất tuyệt vời. Lần này tôi để anh toàn quyền xử lý phần ánh sáng, tôi biết anh sẽ xoay sở rất tốt. Tôi sẽ gặp lại anh ngay sau khi giải quyết xong công việc. Chúc anh có được một ngày tốt đẹp với Vladimir. Tôi cũng rất muốn ở lại với anh và ông ấy nhưng không thể.
Thân mến, Clara.
Vẻ mặt ưu tư, anh gấp bức thư lại và cất nó vào trong túi áo. Khi anh ngẩng đầu nhìn lên, chàng thanh niên đã ở bên trong phòng tranh. Chiếc xe tải của hãng Delahaye Moving tới đậu dọc vỉa hè. Jonathan ngồi chờ bên quầy bar và lấy bức thư của Clara ra đọc lại. Đến khoảng mười một giờ, anh sang chỗ Frank; cho tới tận trưa, họ vẫn không nói với nhau câu nào. Người đội trưởng thông báo với họ công việc tháo dỡ bức tranh còn cần thêm chút thời gian. Jonathan nhìn đồng hồ và thở dài, thậm chí anh còn chẳng muốn quay lại nghiên cứu những bức tranh đã được treo lên.
Anh ra đứng cạnh cửa kính, thoạt tiên đếm những chiếc xe chạy qua, rồi ước lượng thời gian trung bình mà người cảnh sát tuần tra bên kia đường cần để ghi nhớ mỗi tờ giấy phạt, anh đếm được bảy người khách đã bước vào quán cà phê, bốn người trong số họ ở lại gọi đồ uống, ước chừng cây cột điện có lẽ cao khoảng hai mét mốt. Một chiếc Cooper màu đỏ từ cuối phố chạy tới nhưng nó không dừng lại. Jonathan thở dài, anh đi lại bàn làm việc của Clara và cấm lấy điện thoại.
- Cậu ở đâu thế? Anh hỏi Peter.
- Dưới địa ngục! Miệng tớ cứng đơ như phải gió, mà buổi họp của tớ lại bị đẩy lên sớm một tiếng.
- Cậu đã sẵn sàng chưa?
- Tớ đã uống bốn viên aspirin nếu như đó là điều cậu muốn biết, và hiện giờ tớ đang nghĩ tới viên thứ năm. Giọng cậu bị làm sao thế? Peter hỏi đúng lúc anh chuẩn bị bỏ máy.
- Giọng tớ có sao đâu?
- Không sao, giọng cậu nghe cứ như cậu đưa đám ấy.
- Không, rất may, đã lâu tớ không phải dự đám tang nào cả.
- Tớ xin lỗi, thông cảm cho tớ, tớ hơi hoảng.
Tớ lúc nào cũng ở bên cậu, dũng cảm lên, tất cả rồi sẽ tốt đẹp thôi.
Jonathan đặt máy xuống và nhìn Frank đang bận rộn ở phía sau phòng tranh.
- Anh làm việc ở đây đã lâu chư? Anh vừa hỏi vừa húng hắng ho.
- Cô chủ đã nhận tôi vào làm cách đây ba năm, chàng thanh niên vừa trả lời, vừa đóng một ngăn kéo đựng tài liệu.
- Cô ấy và anh có hợp nhau không? Jonathan hỏi.
Frank lúng túng nhìn anh vẻ ngạc nhiên rồi quay lại với cộng việc dở dang. Một tiếng sau Jonathan lại phá vỡ sự im lặng bằng cách hỏi cậu ta có muốn cùng anh dùng hamberger vào bữa trưa. Frank ăn chay.
Peter bước vào phòng họp và ngồi vào chỗ duy nhất còn trống quanh chiếc bàn gỗ gụ. Anh chỉnh lại ghế và chờ tới lượt mình. Mỗi lần tới lượt một đồng nghiệp phát biểu, anh cảm giác như có một sư đoàn tăng thiết giáp với những bánh xích gỉ rét đang lăn trên màng nhĩ và sẵn sàng nã súng vào thái dương anh. Những cuộc tranh cãi kéo dài bất tận. Người ngồi phía bên phải anh đã nói xong và cuối cùng, thì cũng đến lượt Peter được mời phát biểu. Các thành viên của hội đồng bắt đầu mở tập hồ sơ anh phát cho họ trước đó. Anh trình bày sơ qua về lịch đấu giá của mình và đặc biệt tập trung vào buổi đấu giá mà anh sẽ thực hiện tại Boston vào cuối tháng Sáu. Khi anh đề cập tới nguyện vọng được bổ sung thêm các bức họa của Vladimir Radskin mới được nhắc tới trong thời gian gần đây tiếng xì xào nổi lên khắp phòng. Ông giám đốc chủ tọa buổi họp cất lới. Ông nhắc nhở Peter rằng khách hàng đưa ra những bức họa của Radskin là một phòng tranh lớn. Nếu giao các bức họa đó cho Nhà Christie’s, chắc chắn khách hàng sẽ trông đợi công ty chăm sóc quyền lợi của họ một cách trân trọng nhất. Vì vậy không nhất thiết phải quá vội vàng trong công tác chuẩn bị. Các buổi đấu giá tại London trong quý hai có thể sẽ thích hợp hơn nhiều.
- Tất cả chúng tôi đều đã đọc bài báo đó, chúng tôi rất thông cảm với anh, Peter thân mến ạ, nhưng tôi sợ rằng anh sẽ khó có thể tạo ra một sự kiện lớn xung quanh Radskin, dù sao thì ông ta cũng không phải là Van Gogh! Ông giám đốc vui vẻ kết luận.
Tiếng cười cố kiềm chế của các đồng nghiệp khiến Peter vô cùng bực mình song làm anh không còn lời nào để tranh luận tiếp nữa.
Một nữ phụ tá bước vào, mang theo một chiếc khay đựng một ấm trà bằng bạc nặng trịch. Tiếng tranh luận chợt ngừng lại trong khi cô đi một vòng quanh bàn để tiếp trà cho những ai muốn uống thêm. Qua cánh cửa để ngỏ, Jonathan nhìn thấy James Donovan từ một phòng làm việc bước ra. Donovan chính là người đã gửi bức thư điện tử tới Boston cho anh hôm Chủ nhật.
- Xin thứ lỗi cho tôi vài phút, anh lắp bắp và vội vã bước ra hành lang.
Anh tóm lấy tay áo Donovan và kéo ra hơi xa một chút.
- Nói cho tôi biết, Peter gằn giọng qua kẽ răng, tôi đã để sáu tin nhắn cho anh trong vòng hai ngày, anh có đánh mất số điện thoại của tôi không?
Xin chào, ông Gwel, chàng trai trầm tĩnh nói.
- Tại sao anh không gọi lại cho tôi? Ngay cả anh cũng đã đọc báo quá nhiều rồi phải không?
- Di động của tôi bị mất cắp và tôi không hiểu ông đang nói gì, thưa ông. Peter cố gắng lấy lại bình tĩnh. Anh lấy tay phủi nhẹ vạt áo vét của Donovan và kéo anh ra xa hơn chút nữa.
- Nói cho tôi biết, Peter gằn giọng qua kẽ răng, tôi đã để sáu tin nhắn cho anh trong vòng hai ngày, anh có đánh mất số điện thoại của tôi không?
- Xin chào, ông Gwel, chàng trai trầm tĩnh nói.
- Tại sao anh không gọi lại cho tôi? Ngay cả anh cũng đã đọc báo quá nhiều rồi phải không?
- Di động của tôi bị mất cắp và tôi không hiểu ông đang nói gì, thưa ông. Peter cố gắng lấy lại bình tĩnh. Anh lấy tay phủi nhẹ vạt áo vét của Donovan và kéo anh ra xa hơn chút nữa.
- Tôi có một câu hỏi đặc biệt quan trọng dành cho anh, và anh sẽ phải tập trung toàn bộ chất xám hiện có để cho tôi một câu trả lời duy nhất mà tôi muốn nghe.
- Tôi sẽ cố gắng hêt sức, thưa ông, Dono van trả lời.
- Về vụ Radskin, có đúng như anh viết trong thư gửi cho tôi là có năm bức tranh sẽ được đưa ra không?
Chàng trai trẻ lấy từ trong túi áo ra một cuốn sổ chỏ bọc da và lật đi một vài trang, lật lại một vài trang rồi lại lật đi vài trang nữa. Cuối cùng anh dừng lại ở một trang và nói bằng giọng phấn khởi:
Chính xác là như vậy, thưa ông.
- Cụ thể là bằng cách nào anh đã có được con số đó? Peter hỏi khi cơn
nóng giận của anh đã lên tới cực điểm.
Người báo tin cho anh giải thích có một phòng tranh đã liên hệ với Nhà Christie’s và anh ta đã được phái gấp tới cuộc hẹn được ấn định vào thứ sáu tuần trước lúc hai giờ 30 phút chiều tại số 10 phố Abbermarle. Đích thân cô chủ phòng tranh đã tiếp anh ta và cung cấp cho anh ta mọi thông tin. Khi trở về phòng làm việc vào lúc bốn giờ chiều, anh ta đã thảo một bản báo cáo và gửi cho sếp mình vào lúc bốn giờ 45 phút chiều. Khi sếp anh ta hỏi trong công ty co chuyên gia đấu giá nào biết rõ về danh họa này không, cô Blenz của phòng tìm kiếm dữ liệu đã đưa ra cái tên Peter Gwel, người thường xuyên làm việc với Jonathan Gardner, một chuyên gia chuyên nghiên cứu về Vladimir Radskin.
- Tôi vội vàng viết ngay cho ông một bức thư điện tử và gửi đi từ nhà tôi vào buổi chiều hôm thư bảy.
Peter nhìn anh ra chằm chằm và nói ngắn gọn.
- Quả là khá cụ thể, Donovan ạ.
Sau khi cảm ơn anh ta, Peter hít một hơi thật sâu và quay trở vào trong phòng họp.
- Tôi có một lý do chính đáng để yêu cầu đưa các bức tranh ra trong buổi đấu giá ở Boston ngày 21 tháng sáu, anh tự hào tuyên bố với cử tọa.
Hội đồng đã đưa ra quyết định: nếu như bức họa cuối cùng của Radskin thực sự tồn tại, nếu nó đúng là tác phẩm trứ danh nhất của danh họa, và nếu Jonathan Gardner cam kết thẩm định nó trong thời gian ngắn nhất, chỉ duy nhất trong trường hợp ấy, Peter mới được tổ chức buổi đấu giá vào tháng sáu. Trước khi để anh ra khỏi phòng họp, ông giám đốc lại một lần nữa nghiêm khắc nhắc nhở anh. Sẽ không được phép có bất cứ một sơ suất nào trong cả quá trình chuẩn bị mang đầy tính ngẫu hứng này; Peter sẽ phải gánh toàn bộ trách nhiệm với tư cách là chuyên gia đấu giá trước các đồng sự của anh.
Cả ngày hôm đó, Clara không hề tới phòng tranh. Khoảng giữa buổi chiều cô gọi điện tới xin lỗi. Jonathan đã cùng Frank treo và điều chỉnh đèn chiếu cho bức tranh thứ ba trong tuần. Anh dành toàn bộ thời gian còn lại tiến hành thẩm định. Trong lúc người thợ ảnh chuẩn bị các đồ nghề để chụp bức tranh, Jonathan sang quán cà phê. Lúc lục túi áo vét tìm tiền lẽ, anh lấy ra tờ khăn giấy anh đã đưa cho Clara hôm nọ gặp nhau lần đầu tiên. Anh ngửi thấy mùi xạ hương vẫn còn tỏa ra từ chiếc khăn. Anh đi bọ về khách sạn. Peter đến tìm anh vào đầu giờ tối. Suốt cả buổi tối, họ trao đổi với nhau rất ít. Cả hai đều chìm đắm trong dòng suy tưởng riêng của mình. Kiệt sức và đầu đau như búa bổ, Peter lên phòng ngủ từ rất sớm.
Về đến phòng mình, Jonathan để một tin nhắn cho Anna qua điện thoại, rồi nằm dài ra giường để soát lại những gì anh đã ghi chép được trong ngày.
Clara kéo rèm che kín phòng tranh Soho sau một ngày làm việc mệt nhoài. Đúng với giờ tan rạp, cô thay đổi hành trình để tránh bị tắc đường.
Jonathan bật vô tuyến. Sau khi chuyển hết một vòng các kênh, anh đứng lên và bước lại gần cửa sổ. Một vài chiếc xe vun vút trên đại lộ Park Lane. Anh nhìn những dải sáng dài do đèn xe tạo ra cho tới hút tầm mắt. Một chiếc Cooper màu đỏ đi chậm dần tới ngã tư và lăn bánh về phía Notting Hill.
Ngày thứ 6 đầu tháng ấy có thể sẽ là một trong những ngày quan trọng nhất đời anh. Jonathan đã dậy từ lâu. Con đường vắng vẻ phía dưới cửa sổ phòng anh cho thấy vẫn còn rất sớm. Anh ngồi vào bàn làm việc kê ở góc phòng và viết vài chữ để fax cho Anna trước khi đi.
Clara,
Tối nào anh cũng tìm cách gọi cho em mà không được. Lẽ ra em phải ghi lại lời chào trên máy nhắn tin để ít nhất anh cũng nghe được tiếng em khi anh gọi về nhà.Khi anh viết những dòng này cho em chắc em vẫn đang đây mặt trời bắt đầu lên,anh vẫn ước giá có em ở đây, nhất là ngày hôm nay.Sáng nay, có lẽ cuối cùng thì anh cũng được ngắm bức tranh mà anh vẫn ao ước được nhìn từ rất nhiều năm rồi.Anh không muốn mình quá lạc quan song những ngày dài đăng đẳng vừa qua ở Luân Đôn đã khiến cho anh chấp nhận tin vào điều đó.Phải chăng cuối cùng anh đã tới chặng cuối cùng của cuộc tìm kiếm kéo dài gần hai mươi năm?
Anh nhớ lại thời sinh viên,những buổi tối ngồi một mình trong căn nhà nhỏ,anh đọc đi đọc lại hàng giờ liền nhừng công trình nghiên cứu hiếm hoi nhắc tới sự tồn tại của kiệt tác độc nhất ấy.Bức hoạ cuối cùng của Vladimir sẽ là công trình thẩm định tuyệt vời nhất của anh.Anh đã chờ đợi nó từ bao lâu nay rồi.
Anh vẫn muốn giá mà sự kiện trọng đại khiến chúng ta phải xa nhau này không rơi vào lúc chúng ta phải chuẩn bị cho lễ cưới.Song biết đâu những ngày này sẽ mang lại những điều tốt đẹp cho cả hai chúng ta.Anh muốn quay trở về Boston để chúng ta được gặp lại nhau, quên đi tất cả những áp lực đã chia rẽ chúng ta trong những tuần gần đây.
Anh nghĩ tới em rất nhiều,mong em khoẻ, hãy cho anh biết tin tức của em
Jonathan
Anh gấp lá thư lại, nhét nó vào trong túi áo vét và quyết định sẽ đi bộ đẻ thưởng thức làn không khí sớm mai ấm áp.Khi đi qua quầy tiếp tân, anh đưa bức thư nhờ người trực quầy gửi giúp rồi bước ra phố bên kia đại lộ,công viên bắt đầu mở cửa đón khách vào dạo chơi.Cây cối đã phủ xanh lá và những bồn hoa rực rỡ đua sắc thắm.Jonathan đi tới tận cây cầu nhỏ bắc qua chiếc hồ ở giữa công viên.Anh ngắm nhìn những chú bồ nông khổng lồ đang bồng bềnh trên mặt nước phẳng lặng. Vừa bước tới dọc theo lối đi dạo, anh vừa tự nhủ có lẽ anh sẽ rất thích được sống tại thành phố này, anh có cảm giác nó vô cùng thân thuộc đối với mình. Một giờ trôi qua,anh quay trở lại con đường cũ và đi bộ tới phòng tranh.Anh vào ngồi trong quán cà phê chờ Clara tới. Chiếc xe Austin đậu trước cánh cửa màu xanh lơ.Clara tra chìa khoá vào chiếc hộp báo động gắn trên mặt tường và tấm màn sắt từ từ kéo lên.Clara tỏ ra ngập ngừng,tấm màn sắt dừng lại giữa chừng rồi hạ xuống.Cô quay gót và băng qua đường.
Cô bước vào với vẻ dứt khoát và vài phút sau tiến về phía anh, trong tay cầm hai chiếc tách.
- Cppucino không đường! Coi chừng, còn nóng bỏng đấy.
Jonathan nhìn cô ngạc nhiên.
-Nếu muốn biết thói quen của ai đó, chỉ cần anh dành chút thời gian quan sát cách sống của họ, cô nói và đẩy một chiếc tách về phía anh.
Cô đưa ly nước lên môi.
-Tôi thích trời như thế này, cô nói, thành phố này thật khác xa mỗi khi trời đẹp.
- Bố tôi nói rằng, khi một phụ nữ nói về thời tiết,cô ta đang tìm cách tránh những chủ đề khác,Jonathan trả lời.
- Thế mẹ anh nói gì?
Nếu gặp trường hợp ấy, tốt nhất là không nên nói điều đó cho cô ta biết.
- Mẹ anh nói rất đúng!
Họ nhìn anh hồi lâu và Clara cười thật tươi.
- Chắc chắnanh đã lập gia đình rồi,đúng không?
Đúng lúc đó Peter bước vào quán cà phê.Anh chào Clara và quay ngay sang nói với Jonathan.
-Tớ có chuyện muốn nói với cậu.
Clara cầm túi lên,cô chăm chú nhìn Jonathan và tuyên bố cô phải đi mở cửa phòng tranh,  rồi cô để họ nói chuyện với nhau.
- Hy vọng là tớ đã không cắt ngang câu chuyện chứ? Peter hỏi và cầm lấy tách của Clara.
- Vẻ mặt cậu trông thật lạ, có chuyện gì thế? Jonathan hỏi
- Cậu biết không, khi người ta nhắc đến cái chết với những kẻ ngu,cần phải cẩn thận, nguy cơ xảy ra thảm sát chứ chẳng chơi đâu! Các cộng tác viên người Anh của tớ đang muốn thay đổi quyết định. Họ cho rằng Radskin đã vè phần lớn các tác phẩm của ông tại Anh, vì vậy các bức tranh của ông ta phải được đưa ra đấu giá tại Luân Đôn.
-Vladimir là người Nga chứ không phải người Anh!
-Đấy, cảm ơn cậu, tớ cũng bảo với họ đúng như vậy.
-Thế cậu định làm gì bây giờ?
- Cậu muốn nói tớ đã làm được gì rồi hả? Tớ đã quyết định buổi đấu giá ấy phải được tiến hành ở nơi nào có nhà thẩm định danh tiếng nhất trong lĩnh vực này.
- Thế nghĩa là sao?
- Là cậu chứ ai, đồ ngốc, cậu chính là nhà thẩm định danh tiếng nhất trong lĩnh vực này.
- Tớ rất thích nghe cậu nói như thế.
- Vấn đề là hội đồng thẩm định không hề từ chối việc chi trả các khoản chi phí trong thời gian cậu ở Luân Đôn, bao lâu cũng được.
- Nếu vận may mỉm cười với chúng ta, chúng ta có thể sẽ tổ chức một buổi đấu giá lừng lẫy nhất trong vòng mười năm trở lại đây. Thôi tớ đi đây, cậu phải làm sao để tới thứ hai chúng ta được hợp đồng với gái xinh đẹp làm việc bên kia đường.Nếu cuộc đấu giá này tuột khỏi tay tớ, sự nghiệp của tớ coi như chấm dứt tại đây,tớ trông cậy cả vào cậu đấy!
- Tớ sẽ cố gắng hết sức.
- Ừ, cũng đừng cố quá, cậu nên nhớ tớ là người làm chứng của cậu đấy! Cậu có nhớ được điều đó không?
- Đôi lúc cậu thật là thô thiển.
- Có thể, nhưng tớ cũng thích nghe cậu nói như vậy.
Peter vỗ vai bạn rồi bước ra khỏi quán cà phê.Jonathan trông theo bạn nhảy lên một chiếc ta-xi, rồi anh cũng rời khỏi quán.
Jonathan dừng lại trên vỉa hè và quan sát Clara qua lớp kính.Cô đang điều chỉnh lại đèn chiếu cho bức tranh được mang tới ngày hôm qua. Cô có vẻ hơi áy náy, bước xuống thang và ra mở của cho anh. Anh anh đã lên đến đỉnh điểm.Cả buổi sáng anh đi lại trước bốn bức tranh.Cứ mười lăm phút một, anh lại đứng lên và kín đáo nhìn ra đường.Từ sau bàn làm việc,Clara liếc nhìn anh.Anh lại bước tới bức tường kính một lần nữa và ngước mắt ngắm bầu trời.
Trời có vẻ như đang kéo mây, anh nói.
- Điều đó có đúng với đàn ông không? Clara ngước mắt lên hỏi.
Những câu chuyện về thời tiết!
Tôi nghĩ cũng có thể, Jonathan lúng túng trả lời.
- Anh có nhận ra đường phố rất vắng vẻ không? Hôm nay là ngày lễ của Anh,chẳng ai làm việc ngày hôm nay...trừ chúng ta.Và vì hôm nay là thứ sáu, đa số mọi người đều đã tận dụng kỳ nghỉ cuối tuần.Dân Luân Đôn rất thích về nghỉ ở nông thôn.Chiều nay tôi cũng sẽ về nhà.
Jonathan nhìn Clara, rồi không nói một lời, anh tức giận quay đi.Lúc này đã là giữa trưa, các tiệm bán hàng trên phố đều đóng cửa.Jonathan đứng dậy và thông báo với Clara anh sẽ sang uống cà phê ở quán bên kia đường.Khi anh ra tới ngưỡng cửa, cô vơ vội chiếc áo khoác trên ghế và bước theo anh.Ra đến vỉa hè, cô kéo cánh tay anh lại.
-Anh đừng quá sốt ruột như thế, vẻ mặt đó không thích hợp với anh chút nào.Tôi sẽ thay đổi kế hoạch, đêm nay tôi ở lại Luân Đôn.Vì trời tối, chúng ta sẽ không thể nói chuyện thời tiết, hơn nữa tôi đã biết trước thời tiết cuối tuần này ra sao rồi, mưa thứ bảy, nắng chủ nhật, hoặc là ngược lại, ở đây thì không bao giờ có thể biết chính xác được!
Họ bước vào quán cà phê.Cả buổi chiều, cô giao phòng tranh cho anh và để anh làm việc một mình. Jonathan cứ quay vòng vòng, Peter gọi anh khoảng năm giờ chiều.
- Thế nào rồi? Cậu ta hỏi giọng sốt ruột.
- Chẳng thế nào cả, Jonathan gắt gỏng trả lời.
- Chẳng thế nào là thế nào?
- Là như thế! Tớ chẳng thể làm gì hơn được.
- Khỉ gió!
- Dù sao đi nữa, tớ cũng đồng ý với cậu.
- Thế nghĩa là chúng ta đi toi rồi,Peter lầm bầm.
- Chưa chắc, ai mà biết trước, nhỡ đâu chúng ta vẫn chưa hẳn tuyệt vọng, tin mừng có thể vẫn còn đó thì sao.
- Đó là trực giác của cậu hay cậu hy vọng thế? Peter hỏi.
- Có thể cả hai, Jonathan rụt rè thú nhận.
- Đúng như tớ lo sợ, tớ chờ điện thoại của cậu đấy nhé! Peter kết thúc và bỏ máy.
Anh chàng Frank điềm tĩnh ghé qua phòng tranh vào cuối buổi chiều để đóng cửa.Clara có việc bận, cô hẹn gặp Jonathan ở địa chỉ ghi vội trên một mẩu giấy do ngưỡi cộng sự trẻ tuổi của cô chuyển cho anh.
Khi quay về khách sạn, Jonathan không nhận được tin nhắn trả lời nào cho bức thư anh gửi Anna. Thay quần áo xong, anh lại bấm số Bonston một lần nữa.Vẫn là tiếng nói của chính anh vang lên trong máy nhắn. Anh thở dài và bỏ máy mà không nhắn lại gì.
Clara đã hẹn anh trong một quầy bar khá sang trọng nằm trong khu Nothing Hill.Ánh đèn sáng dịu và âm nhạc khiến khung cảnh khá dễ chịu.Cô vẫn chưa tới, anh ngồi chờ cô tại quầy bar.Anh đã di chuyển chiếc cốc đựng hạt hanh nhân đến lần thứ mười thì thấy cô xuất hiện ngoài cửa, anh vội đứng dậy.Cô khoác chiếc áo nhẹ, bên trong mặc một chiếc váy dài màu đen ôm sát người.Cô nhìn thấy Jonathan.
- Xin lỗi anh, tôi đến muộn quá.Xe của tôi bị thủng một chỗ khá to dưới lốp phải, mà ta-xi thì ngày càng khan hiếm.
Jonathan nhận thấy những ánh mắt dõi theo bóng Clara khi cô đi ngang qua.Anh chăm chú nhìn cô trong khi cô chọn đồ uống.Trong ánh nến quầy bar, đôi gò mà cô hiện lên cùng với những đường nét rõ ràng của khuôn miệng. Jonathan đợi người phục vụ đi khuất và rụt rè nghiêng người về phía Clara. Họ cùng cất tiếng tiếng một lúc và giọng nói của họ hoà lẫn vào nhau.
- Anh nói trước đi, Clara vừa cười vừa nói.
- Chiếc váy này rất hợp với cô
- Tôi đã thử sáu chiếc liền, mà đến lúc ngồi vào ta-xi rồi tôi còn muốn đổi ý.
- Còn tôi thì là cà -vạt, bốn lần.
- Nhưng anh mặc áo cổ tròn kia mà.
- Vì cuối cùng tôi vẫn không thể quyết định.
- Tôi rất mừng vì có dịp dùng bữa tối với anh, Clara nói và đến lượt cô ngồi nghịch những hạt hạnh nhân.
- Tôi cũng vậy, Jonathan nói.
Clara nhờ người phục vụ quầy bar chọn rượu giúp.Anh ta đề nghị cô nếm thử một ly sancerre, nhưng cô không thích lắm.Khuôn mặt Jonathan chợt bừng sáng, anh nói với người phục vụ quầy bar bằng giọng hóm hỉnh:
- Vợ tôi thích vang đỏ hơn.
Clara mở to mắt nhìn anh, nhanh chóng thay đổi thái độ, cô đưa bảng danh mục rượu cho Jonathan và tuyên bố chồng cô sẽ giúp cô lựa chọn.Anh không hề nhầm lẫn về sở thích của cô.Jonathan gọi hai ly Pomerol.Người phục vụ bỏ đi, để hai người ngồi nói chuyện với nhau.
- Khi anh thư giãn, trông anh thật giống một cậu thiếu niên.Vẻ hài hước rất hợp với anh.
- Nếu cô biết tôi lúc còn thiếu niên, có lẽ cô sẽ không nói như vậy.
- Hồi đó trông anh thế nào?
- Để tỏ ra hài hước trước mặt một người phụ nữ, có lẽ tôi phải mất khoảng sáu tháng.
- Thế giờ thì sao?
Giờ thì khá hơn nhiều rồi, càng lớn tuổi tôi càng tự tin hơn, có lẽ chỉ ba tháng là đủ! Tôi nghĩ có lẽ tôi thấy thoải mái hơn khi bàn về thời tiết, Jonathan thì thầm.
- Nếu như điều này có thể giúp anh, thì tôi muốn nói để anh biết tôi cảm thấy rất thoải mái khi ở bên anh, Clara nói, hai má ửng hồng.
Không gian bên trong mù mịt khói, Clara muốn hít thở không khí trong lành, họ liền rời khỏi quán. Jonathan vẫy một chiếc ta-xi rồi yêu cầu chạy dọc theo bờ sông Tamise.Họ thả bộ trên vỉa hè uốn quanh con sông lững lờ trôi.Ánh trăng phản chiếu trên mặt nước phẳng lặng.Một làn gió nhẹ lướt trên những cánh lá. Jonathan hỏi về thời thơ ấu của cô. Vì những nguyên nhân mà chưa bao giờ có ai giải thích cho cô nghe, cô đã được bà ngoại nhận nuôi từ năm bốn tuổi và năm lên tám bắt đầu theo học tại một trường nội trú của Anh.Cô chưa bao giờ bị thiếu thốn gì, bà cô là một người giàu có và mỗi năm đều đến thăm cô vào ngày sinh nhật. Clara còn giữ mãi hình ảnh lần cuối cùng cô nhìn thấy bà khuất dần sau những bức tường của trường nội trú.Đó là vào ngày sinh nhật lần thứ mười sáu của cô.
Thật kỳ lạ, cô nói thêm, người ta vẫn nói rằng trong ba năm đầu tiên của cuộc đời không ai có thể nhớ được điều gì đã từng xảy ra, vậy mà hình ảnh bố tôi đứng ở đầu con phố nơi chúng tôi từng sinh còn đọng lại mãi trong tôi. Nói đúng hơn, tôi nghĩ rằng đó là bố tôi.Ông vụng về đưa tay vẫy, như để chào tạm biệt, rồi ông ngồi vào một chiếc xe và đi mất.
- Có thể đó chỉ là một giấc mơ của cô? Jonathan nói.
- Cũng có thể, dù sao thì tôi cũng chẳng bao giờ biết được ông đã đi đâu
Và cô chưa bao giờ gặp lại ông?
- Chưa bao giờ, mỗi năm tôi đều hy vọng mình sẽ gặp bố. Kỳ nghỉ Noel bao giờ cũng là một chuỗi thời gian lạ lùng.Đa số các nữ sinh trong trường đều về nghỉ cùng gia đình, còn tôi, cho đến năm mười ba tôi vẫn thường cầu xin Chúa để bố mẹ đến thăm tôi.
- Sau đó thì sao?
- Tôi cầu xin điều ngược lại, mong sao họ đừng tới lôi tôi ra khỏi nơi mà cuối cùng thì tôi cũng đã coi như là nhà.Tôi biết, điều đó quả thật khó hiểu.Khi còn nhỏ, tôi đau khổ vì không bao giờ được ở lâu tại nơi đâu, khi còn sống với bố mẹ, không bao giờ tôi ở dưới mái nhà quá một tháng.
- Tại sao gia đình cô lại phải liên tục chuyển chỗ ở?
- Tôi không biết, bà tôi không bao giờ muốn nói cho tôi vì sao.Mà cũng chẳng ai khác nói cho tôi biết điều đó.
- Thế cô đã làm gì vào ngày sinh nhật mười sáu tuổi?
- Người bảo trợ của tôi, tôi vẫn thường gọi bà tôi như thế, đã lái một chiếc xe tuyệt đẹp tới đón tôi tại trường nội trú.Thật ngốc, nhưng nếu anh biết được tôi đã tự hào như thế nào trước những người bạn gái cùng trường.Không phải chỉ vì đó là một chiếc xe Bencley tuyệt vời, mà đúng hơi vì bà đã đích thân lái xe tới. Chúng tôi đã chạy xe khắp Luân-Đôn, và mặc cho tôi ra sức năn nỉ, bà vẫn không chịu ngừng xe lại.Tôi đành phải hài lòng ngắm nhìn những bức tường nhà thờ cổ kính, những mặt tiền quán rượu và những con phố nhộn nhịp dành riêng cho người đi bộ, tất cả những gì trôi qua ngoài cửa kính, nhất là những nẻo đường dọc bờ sông Tamise.
Và kể từ ấy, Clara luôn như có lời hẹn ước với dòng sông ở đâu đó. Trong mỗi chuyến du lịch, cô luôn tìm được cách để thoát ra khỏi mọi ràng buộc và đến dạo bộ bên một dòng nước, ngước nhìn những nhịp cầu cao nối liền hai bờ của một thành phố. Không một bến sông nào còn giữ nổi vẻ bí ẩn đối với cô. Vừa đi dạo dọc con sông Vltara ở Praha, dòng Danube ở Budapest, sông Arno ở Florence, con sông Seine ở Paris hay dòng sông Hoàng Phố ở Thượng Hải, con sông nổi tiếng chứa đựng nhiều bí ẩn nhất, cô vừa tìm hiểu về lịch sử và con người của thành phố đó.Jonathan kế cho cô nghe về bờ sông Charles, về bến cảng cũ ở Boston mà anh rất thích thả bộ lang thang.Anh hứa sẽ đưa cô đi thăm những con đường rải đá nơi phố chợ không có mái che.
Thế hôm ấy hai người đã đi đâu?Jonathan hỏi tiếp.
- Về nông thôn! Tôi vô cùng giận dữ, tôi vừa trở về từ một vùng quê khác! Chúng tôi ngủ trọ trong một phòng khách sạn mà cho tới bây giờ tôi vẫn còn có thể tả cho anh nghe từng chi tiết.Tôi vẫn còn vải bọc tường, cánh cửa tủ kêu cót két, mùi gỗ toả ra từ chiếc tủ giường nơi tôi gục đầu thiếp đi sau khi mệt mỏi chống đối cơn buồn ngủ.Tôi muốn nghe tiếng bà thở đều đặn bên cạnh tôi, cảm nhận được bà ngay bên cạnh tôi. Ngày hôm sau, trước khi đưa tôi quay lại trường nội trú, bà đã đưa tôi tới xem trang viên của bà.
- Trang viên có đẹp không??
- Nếu xét theo hiện trạng khi đó thì không thể gọi là đẹp được.
- Vậy tại sao bà lại phải đưa cô đi từng ấy quãng đường để chỉ nó cho cô xem?
Bà tôi là một người kỳ lạ.Bà đã đưa tôi đến tận đó bắt tôi cam kết một vài chuyện.Chúng tôi ngồi trong xe, dừng trước cánh cổng sắt khép kín, bà nói với tôi rằng, đến tuổi mười sáu, con người ta đã đủ trưởng thành để có thể giữ lời hứa.
- Thế cô đã hứa gì?
- Tôi có làm anh buồn chán vì những câu chuyện của tôi không? Clara hỏi.
Họ ngồi xuống một chiếc ghế đá.Chiếc đèn trên cột phía sau lưng họ rọi ánh sáng xuống màn đêm bắt đầu buông.Jonathan đề nghị cô kể tiếp.
Có tất cả ba lời hứa.Tôi phải thề với bà rằng ngay sau khi bà qua đời, tôi sẽ rao bán trang viên đó và tôi sẽ không bao giờ bước chân vào bên trong.
-Vì sao?
- Hãy nghe nốt hai lời hứa còn lại.Bà là một người rất quả quyết trong thương lượng.Bà muốn tôi muốn tôi đi theo con đường khoa học, muốn tôi trở thành một nhà hoá học.Có lẽ bà nghĩ tôi có thể trở thành một Marie Curie thứ hai!
- Tôi có cảm giác về điểm này cô đã không giữ lời.
- Còn chưa thấm vào đâu so với điều ràng buộc cuối cùng.Tôi đã phải hứa sẽ không bao giờ được đến gần hoặc tiếp cận bất cứ điều gì có liên quan tới thế giới hội hoạ.
- Đúng vậy, Jonathan nói vẻ băn khoăn, nhưng tại sao, cô được gì để đổi lại những lời hứa ấy.
- Bà để lại cho tôi toàn bộ gia tài, và hãy tin tôi, gia tài của bà khá đồ sộ. Ngay sau khi sau khi tôi hứa, chúng tôi liền quay xe.
- Ngày hôm đó cô cũng không được bước chân vào trang viên ư?
-Thậm chí chúng tôi còn không bước xuống khỏi xe.
-Thế cô đã bán trang viên đó chưa?
- Bà tôi qua đời năm tôi hai mươi hai tuổi, khi đó bản thân tôi đang ngồi héo hắt trên giảng đường đại học chuyên ngành năm hoá thứ ba.Tôi đã tự bỏ ngành tự nhiên ngay ngày hôm ấy. Chẳng hề có một buổi lề nào cho đám tang, trong tất cả những điều khoản kỳ quặc của bản di chúc, bà đã ghi chú thêm một điều: công chứng viên thừa hành di chúc không có quyền được cho tôi biết nơi bà yên nghỉ.
Thế rồi Clara, sau khi tự hứa với mình rằng cả đời sẽ không bao giờ đụng tới một ống nghiệm nào nữa, đã chuyển tới sống ở Luân-Đôn để theo học khoá lịch sử nghệ thuật ở bảo tàng Quốc gia.Sau đó cô sang Florence một năm và cùng lúc kết thúc khoá học của mình tại trường Nghệ thuật Paris.
- Tôi cũng học ở đó, Jonathan hào hứng, có lẽ chúng ta đã cùng ở trường trong một thời gian chăng?
- Không thể nào,Clara bĩu môi đáp.Tôi rất tiếc nếu anh không nhận ra điều này, chúng ta chắc chắn phải học cách nhau vài khoá!
Jonathan ngồi thẳng người lên, vẻ lúng túng.
- Tôi muốn nói là tôi cũng từng tổ chức vài hội thảo tại đó.
-Anh còn cố biện minh nữa à! Cô vừa nói vừa không giấu được nụ cười.
Thời gian trôi qua mà cả hai người đều không nhận ra.Ánh mắt họ nhìn nhau hoà điệu.
- Anh cũng có cảm giác đã từng thấy phải không?
-Phải, tôi thường xuyên cảm thấy vậy, song điều đó chẳng có gì lạ cả, hôm qua chúng ta cũng đi dạo ở đây.
-Tôi không nói về điều này, Clara nói.
-Thú thật, tôi không muốn thể hiện là một người vô duyên, song tôi vẫn tự hỏi không biết chúng ta đã bao giờ gặp nhau chưa, trước cả lần đầu tiên tôi gặp cô trong quán cà phê?
-Tôi cùng không biết đường đời của chúng ta có từng giao nhau không, cô nhìn anh không chớp mắt, song đôi lúc tôi cảm thấy như đã biết anh từ trước đó.
Cô đứng lên và họ rời khỏi bờ sông, sóng bước trên những nẻo đường ngoại ô thành phố.Tiếng kim đồng hồ vang to, rành rọt nhịp nhàng trong màn đêm yên tĩnh, như muốn giữ lại mãi khoảnh khắc kỳ diệu này, khi họ đứng trên hè đường lát đá, trong một cõi vô hình mà không một ai khác ngoài hai người cảm nhận được.Giữa hai con người đi sát cạnh nhau như hiện lên một thế giới khác, lặng lẽ, vô hình trôi theo nhịp bước của họ.Một chiếc ta-xi màu đen đi cùng chiều với họ.Jonathan nhìn Clara, một nụ cười buồn bã nở trên môi.Anh đưa tay lên và chiếc xe dừng lại bên lề đường.Anh mở cửa xe.Khi Clara bước lên xe, cô quay lại và nhẹ nhàng nói với anh rằng cô đã có một buổi tối thật thú vị.
-Tôi cũng vậy, Jonathan nói, mắt nhìn xuống mũi giày dưới chân.
-Khi nào anh quay về Boston?
-Ngàymai Peter sẽ đi về....tôi còn chưa biết.
Cô bước nhẹ về phía anh
-Nếu vậy, hẹn sớm gặp lại anh.
Cô đặt lên má anh một nụ hôn
Đó là lần đầu tiên da họ chạm vào nhau và cũng là lần đầu tiên điều kỳ lạ đã xảy ra.
Thoạt tiên Jonathan cảm thấy đầu óc quay cuồng, mặt đất sụp dưới chân anh.Anh nhắm mắt, tưởng như phía trước có hàng nghìn ngôi sao chợt ùa tới.Một cơn chóng mặt kỳ lạ cuốn phăng anh tới một nơi lạ lẫm. Các van tim của anh mở căng ra cho máu tràn đầy trong các huyết quản ào ạt dồn về.Hai thái dương anh ong ong.Dần dần, khung cảnh con phố xung quanh anh bắt đầu biến đổi.Trên bầu trời,các đám mây cuồn cuộn trôi về phía tây, để lộ ra vầng trăng tròn vạnh sáng loà.Các vỉa hè tràn phủ bởi một làn sương là là, dưới bóng thuỷ tinh của chiếc cột đèn cổ kính,vụt hiện ánh nến thay cho cho ánh điện. Nhựa đường tiêu tan dần dưới lòng phố, để lộ mặt gỗ lát đường trong tiếng ầm vang như sóng biển ràn rạt trút trên một bãi sỏi. Lớp trát trên tường các ngôi nhà dần dần rụng xuống từng chỗ một, để lộo những mặt gạch trần trụi hoặc những lớp vôi sần sùi.Từ phía bên phải của Jonanthan, cách cửa sắt dẫn vào một ngõ cụt chợt hiện lên, kêu rin rít trên nhừng tấm bản lề đã gỉ sét.
Từ sau lưng, anh nghe thấy tiếng vó ngựa đang phi nước kiệu về phía mình.Anh rất muốn quay đầu lại nhưng chẳng một cơ bắp nào chịu tuân theo sự điều khiển của anh.Một giọng nói mà anh không thể nhận ra đang thì thầm vào tai anh " nhanh, nhanh, nhanh lên, tôi xin anh ". Jonathan hai màng nhĩ như muốn nố tung.Con vật đã tiến đến rất gần, anh không nhìn thấy nhưng có thể cảm nhận được tiếng thở của nó,làn hơi phì phò từ mũi phả lên vai anh.Cảm giác chóng mặt vẫn tăng lên, hai lá phổi căng tức và tim anh như bị bóp nghẹt.
Anh gắng hết sức lấy lại hơi thở.Anh nghe thấy tiếng gọi của Clara từ xa xăm vọng lại; tất cả trở nên bất động. Rồi, chầm chậm, các đám mây dần dần che khuâtmặt trăng, lớp nhựa đường lại tràn lên mặt lát gỗ, những mảng tường lộn xộn được thay thế bằng loạt tường phẳng phiu.Jonathan mở choàng mắt.Trên cột điện, bóng đèn lại xuất hiện thay vào chỗ ngọn nến lập loè, và tiếng động cơ của tiếng ta-xi kêu ro ro thay thế cho tiếng thở phò phò của con ngựa trong khi anh vẫn còn choáng váng.
-Jonathan, anh vẫn khoẻ chứ? Giọng của Clara nhắc tới lần thứ ba.
-Ổn cả, tôi nghĩ vậy, anh nói và lấy lại bình tĩnh, tôi chỉ hơi chóng mặt một chút.
-Anh lên xe với tôi, tôi sẽ đưa anh về.
Jonathan cảm ơn cô.Khách sạn của anh nằm ở gần đây, đi bộ sẽ khiến anh thoải mái hơn và không khí tối nay cũng thật dễ chịu.
-Anh bắt đầu tươi tỉnh lại rồi đấy, Clara dịu giọng nói.
-Vâng, mọi chuyện sẽ ổn cả thôi, chắc chắn đó chỉ là một cơn váng vất, chẳng có gì đáng ngại cả.Cô về đi, đã muộn rồi đấy.
Clara ngập ngừng đôi chút trước khi chịu vào trong xe.Cô đóng cửa lại và Jonathan nhìn theo chiếc xe đi xa dần.Qua lớp kính phía sau xe,Clara cũng nhìn anh.Khuôn mặt của cô biến mất trong anh đèn nhấp nháy của chiếc ta-xi vừa rẽ ở cuối đường.Jonathan bắt đầu bước đi.
Anh đã hoàn toàn bình tĩnh trở lại, nhưng có điều gì đó vẫn khiến anh bị xáo trộn.Khung cảnh hiện ra trong cơn choáng không hoàn toàn xa lạ đối với anh.Có điều gì đã trỗi lên từ tiềm thức khiến anh gần như chắc chắn về nó.Một cơn mưa nhẹ bắt đầu rơi,anh dừng lại,ngước nhìn và ngẩng mặt đón những hạt mưa. Lần này,dưới làn mi trầm tư anh như sống lại thời khắc Clara bước chân vào quán rượu,giây phút tuyệt vời khi cô bỏ chiếc áo ngoài,và nụ cười lúc cô nhận ra anh đang ngồi bên quầy bar.Vào chính giây phút đó,anh muốn vặn ngược kim đồng hồ.Anh mở mắt ra và thọc tay vào sâu trong túi.Tiếp tục bước đi, anh cảm thấy đôi vai bồng nặng trĩu.
Trong sảnh khách sạn Dorchester, anh vẫy tay chào người gác cửa và đi về phía thang máy. Đến chân cầu thang, anh đổi ý và quyết định đi bộ lên tầng.Khi vào phòng, anh nhìn thấy một chiếc phong bì nằm dưới khe cửa, rất có thể đó là giấy biên nhận bức thư anh đã gửi qua fax cho Anna.Anh nhặt nó lên và để lên mặt bàn viết.Rồi anh thả chiếc áo vét sũng nước xuống chân giá treo quần áo và bước vào buồng tắm.Trên tấm gương hiện lên nét mặt nhợt nhạt của anh.Anh với một chiếc khăn và bắt đầu lau tóc.Quay trở lại giường,anh đặt tay lên điện thoại và quay số về nhà mình ở Boston.Một lần nữa hộp thư thoại lại ghi lời nhắn của anh.Jonathan đề nghị Anna hãy gọi ngay cho anh,nỗi lo lắng của anh bắt đầu gợn lên vì không có tin tức gì của cô.Một vài giây sau,chuông điện thoại reo vang,Jonathan vội vàng chạy lại nhấc máy.
-Em đi đâu thế, Anna? Anh nói ngay lập tức.Anh đã gọi em cả chục lần, thực sự anh đã bắt đầu thấy lo rồi đây.
Một vài giây yên lặng trôi qua, rồi tiếng Clara trả lời.
- Chính tôi mói lo lắng, tôi chỉ muốn biết chắc là anh đã về rồi thôi
- Cô thật tốt.Tôi đã về cùng với cơn mưa.
-Tôi cũng thấy trời mưa và nghĩ anh đến anh chẳng có ô lẫn áo mưa.
- Cô đã nghĩ tới điều đó ư?
- Phải.
-Tôi không biết phải nói thế nào, song điều đó khiến tôi cảm thấy dễ chịu, thật sự rất dễ chịu.
Cô ngừng lại một lúc.
-Jonathan, buổi tối hôm nay của chúng ta, tôi muốn nói với anh một điều quan trọng.
Anh ngồi thẳng người dậy trên giường, hơi áp chiếc điện thoại sát vào tai hơn một chút và cố nén hơi thở.
-Tôi cũng vậy,anh nói.
-Tôi biết anh đã cố kiềm chế để không nói với tôi, đừng nói điều gì cả,điều đó rất chính đáng trong hoàn cảnh của anh và tôi thông cảm với sự thận trọng đó,thậm chí tôi còn ngưỡng mộ nữa.Cũng phải thừa nhận rằng tôi đã chẳng làm gì để khiến cho tình thế của anh khá hơn,đúng hơn cả là theo tôi thì chúng ta đã quá vòng vo vấn đề này ngay từ lần nói chuyện đầu tiên tại phòng tranh.Khi nghe anh nói chuyện tối nay, tôi đã tin chắc một điều và tôi nghĩ Vladimir cũng sẽ đồng tình với nhận định của tôi.Thậm chí tôi còn dám chắc rằng ông ấy cũng sẽ tin cậy anh,dù sao thì bản thân tôi cũng đã quyết định đặt lòng tin nơi anh.Có lẽ anh đã nhận được một chiếc phong bì, tôi đã gửi nó tại quầy tiếp tân sau khi chia tay anh.Trong phong bì có vẽ đường đi.Anh hãy thuê một chiếc xe và tới gặp tôi trong ngày mai.Tôi có một thứ rất quan trọng muốn cho anh xem, một thứ chắc anh sẽ rất muốn được nhìn tận mắt. Tôi sẽ chờ anh vào buổi trưa, hãy đến đúng hẹn.Chào anh, hẹn gặp ngày mai.
Cô bỏ máy mà không để cho anh kịp có thời gian trả lời.Jonathan bước lại gần chiếc bàn nhỏ,cầm phong bì lên và mở tấm bản đồ ra.Anh gọi điện cho quầy tiếp tân đặt một chiếc xe cho ngày mai, đồng thời hỏi luôn xem có một lá thư nào gửi qua cho fax cho anh không.Người gác cổng trả lời có một cô gái tên Anna Valton đã tìm cách gọi điện cho anh vào buổi chiều, cô chỉ nhắn lại rằng hãy nói cho anh biết cô đã gọi điện tìm anh. Jonathan nhún vai và gác máy.
Giấc ngủ đã cuốn anh đi ngay khi vừa đặt mình xuống giường và suốt đem anh bị ám ảnh bởi một giấc mơ kỳ lạ.Anh rong ruổi trên yên ngựa theo những nẻo đường trơn nhẫy của Luân Đôn cổ kính.Vừa dong ngựa đi từng bước,anh chăm chú quan sát những người đi đường đang chen chúc nhốn nháo trước một ngôi nhà.Tất cả mọi người đều mặc trang phục cổ xưa.Để thoát khỏi đám đông vây quanh mình, anh thúc ngựa chạy thật nhanh.
Đến cuối con đường nhỏ, khung cảnh thôn quê hiện ra trước mắt. Anh gìm cương cho ngựa đi chậm lại và tiến vào một lối đi có hai hàng cây mọc bên đường. Một người phụ nữ cưỡi ngựa vượt lên anh từ phía bên phải.Một làn mưa nhẹ bắt đầu lất phất."Nhanh, nhanh, khẩn trương lên"; cô giục giã và bắt đầu cho ngựa phi nước đại.
Tiếng chuông điện thoại báo thức anh hẹn đặt từ hôm trước vang lên kéo theo anh khỏi giấc mộng.Anh lái chiếc xe đã thuê rời khách sạn Dorchester và đi theo đường cao tốc phía đông thành phố.Theo đúng hành trình đã được vạch trên bản đồ của Clara,anh rẽ sang đường vành đai ra sau khi chạy được khoảng một trăm cây số.Nửa giờ sau, anh lái xe vòng vèo theo con đường quê nhỏ, trong đầu luôn tự nhắc mình rằng ở Anh khi lái xe phải đi sát lề bên trái.Dãy hàng rào gỗ dài dằng dặc bao bọc những cánh đồng cỏ rộng mênh mông.Anh nhận ra ngã ba đúng như được đánh dấu trên bản đồ, rồi tới quán trọ bên đường như cô đã chỉ dần.Bỏ qua hai ngã rẽ, anh ngoặt xe theo mối mòn nhỏ đi vào một khu rừng rậm rạp.Bánh xe anh nảy tung như bóng vì những ổ gà trên đường, anh cho xe chạy chậm lại.Xe chạy đến đâu, từng lớp bùn bắn tung téo sang hai bên đường đến đó khiến anh không ngăn được cảm giác thích thú.Rồi con đường nhỏ sáng dần lên dưới hàng cây cao.Anh dừng lại trước một cánh cửa song sắt lớn.Phía bên kia cánh cửa uy nghi, một con đường rài sỏi uốn lượn kéo dài khoảng trăm mét dẫn đến một trang viên xinh đẹp kiểu Anh.Ba bậc thang rộng bằng đá chạy viền theo chân tường ở mặt trước toà nhà.Hai cánh cửa kính lớn được lắp hai bên lối ra vào chính.Clara, khoác trên người một chiếc áo mưa mỏng, đang cầm trong tay một chiếc kéo xén cây. Cô bước lại gần một cây hoa hồng leo bám dọc bờ tường và cắt một vài bông hoa màu trắng.Cô tỉa bớt cành, đưa những bông hoa lên ngửi, rồi sắp thành một bó.Trông cô đẹp rạng rỡ.Ánh mặt trời lúc ẩn lúc hiện qua làn mây mỏng.Clara thả chiếc áo mưa rơi xuống đất.Chiếc áo phông trắng bó sát thân thể để lộ hai bờ vai, khiến thân hình cô càng trở lên nổi bật.
Jonathan bước ra khỏi xe.Khi anh tiến gần tới cổng sắt, Clara đã vào bên trong toà nhà.Khi dùng tay trái đẩy cánh cổng, anh chợt nhìn thấy trên cổ tay chiếc đồng hồ mà Anna đã tặng anh trong ngày lễ đính hôn của họ.Trước mắt anh, một làn ánh sáng vàng chói xuyên qua kính cửa sổ toà nhà rọi lên lớp thảm màu vàng rơm của gian phòng khách.Jonathan đứng bất động hồi lâu trước khi đi đến một quyết định mà anh biết trước mình sẽ phải trả giá rất đắt.Anh quay bước, lại ngồi vào xe và cho xe chạy lùi.Trên đường quay lại Luân Đôn, anh cáu kỉnh gõ mạnh lên tay lái.Anh nhìn giờ trên tấm bảng điều khiển, với lấy chiếc điện thoại di động và gọi Peter.Anh thông báo với bạn mình sẽ tới thẳng sân bay và nhờ bạn lấy giúp hành lý trong phòng, rồi gọi điện cho hãng hàng không British Airways để xác nhận vẽ đã đặt.
Suốt dọc đường, lòng anh vô cùng buồn bã, không phải vì giấc mơ được nhìn bức tranh đã không thành, mà bởi một ý nghĩ cứ ám ảnh trong đầu.Xe càng chạy xa khỏi khu trang viên, hình anh Clara lại càng hiện lên rõ nét trong tâm trí anh.Khi chạy tới Heathrow, anh đành phải tự thú nhận với mình một sự thật duy nhất vẫn ám ảnh anh.Anh cảm thấy nhớ Clara.
Peter giậm chân đi lại trong phòng chờ.Nếu như chuyến bay đi Boston không bị hoãn lại, có lẽ vào cuối giờ chiều Jonathan đã có mặt ở nhà.
- Cậu vẫn chưa hiểu điều gì? Jonathan hỏi
- Sau hai mươi năm tớ theo cậu đi dự các buổi hội thảo, rồi hai đứa mình lang thang khắp những dãy hành lang các thư viện lớn nhỏ,lục hàng tấn tài liệu lưu trữ để tìm những dấu hiệu dù nhỏ nhất để cậu có thể khám phá bí ẩn về nhà danh hoạ của cậu,từ hai mươi năm nay hầu như ngày nào chúng ta cũng bàn luận về vấn đề này, vậy mà cuối cùng cậu lại từ chối không muốn biết bức tranh đó có tồn tại hay không ư?
- Có thể chẳng hề tồn tại bức tranh thứ năm nào cả, Peter ạ.
-Làm sao cậu biết được nếu như cậu chưa hề đặt chân vào toà lâu đài ấy? Tớ cần nó, Jonathan, tớ cần nó để không bị các đồng sự của tớ sa thải.Tớ có cảm giác như đang bị giam trong một bể cá mà nước
Ở Luân Đôn, Peter đã hành động vô cùng liều lĩnh.Anh thành công trong việc thuyết phục hội đồng tạm hoãn in ấn cuốn Catalogue trứ danh của công ty, điều ấy ngang với việc phát một tín hiệu quan trọng trong giới nghệ thuật, giống như báo trước sự bùng nổ của sấm sét.Những cuốn Catalogue này thường được phát hành đều đặn và nội dung của nó góp phần không nhỏ đem lại danh tiếng cho công ty nơi anh làm việc.
- Nói cho tớ biết cậu vẫn chưa hề liên lạc lại với họ chứ?
- Sau cú điện thoại của cậu sáng hôm qua, nghe cậu kể lại cuộc nói chuyện giữa cậu với Clara và việc cậu vội vàng đi về nông thôn, tớ đã gọi điện cho giám đốc văn phòng công ty tại Luân Đôn.
- Cậu không làm thế thật chứ?Jonathan hỏi thật sự lo lắng.
- Hôm nay là thứ bảy,tớ đã gọi điện đến nhà ông ấy!Peter rên rỉ và vùi đầu vào giữa hai lòng bàn tay.
- Thế cậu đã nói gì với ông ta?
-Tớ nói rằng tớ lấy danh dự cá nhân ra đảm bảo,nếu ông ấy dám tin tưởng ở tớ,buổi đấu giá này sẽ trở thành một trong những buổi đấu giá lớn lao nhất thập kỷ.
Peter không hề nhầm lẫn.Nếu Jonathan và anh có thể đưa ra công bố tác phẩm? cuối cùng của Vladimir Radskin,những người mua từ các bảo tàng lớn nhất thế giới sẽ đổ xô tới buổi đấu giá,bất kể các nhà sưu tầm lớn xướng giá tới đâu.Jonathan sẽ đủ sức tặng cho nhà danh hoạ già của anh một tên tuổi lẫy lừng như anh vẫn hằng ao ước và Peter sẽ trở thành một trong những chuyên gia đấu giá " có hạng" nhất thời đại.
- Vẫn còn thiếu một chi tiết quan trọng trong bức tranh mơ ước của cậu, thế cậu đã chuẩn bị một giải pháp thay thế chưa?
-Có chứ,cậu chuyển giúp tớ thư từ tới hòn đảo hoang nơi cậu đã đày ải tớ sau khi bắt tớ phải hứa sẽ không tự tử vị bị cả giới chuyên môn tẩy chay.
Dải bờ biển nước Mỹ dần hiện ra trước mắt và cuộc tranh luận giữa hai người bạn thân vẫn tiếp tục trong suốt chuyến bay, mặc cho những hành khách xung quanh không tài nào chợp mắt nổi. Khi cô tiếp viên đưa cho họ hai khay thức ăn,Peter lơ đãng kéo lá cửa rập ở máy bay lên và nhìn những đám mây bên ngoài để tránh cái nhìn của Jonathan.Rồi anh quay lại nhanh như chớp, chộp lấy mẩu bánh sô-cô-la trên khay của Jonathan và nhét ngay vào miệng.
- Cậu sẽ phải công nhận với tớ là thức ăn này thật không thể nuốt nổi.
- Chúng ta đang ở độ cao ba mươi nghìn dặm với mặt nước biển,chúng ta có thể đi từ lục địa này sang lục địa khác trong vòng 8 tiếng mà không hề sợ say sóng, cậu cũng đừng nên than phiền chỉ vì món gà không hợp khẩu vị của cậu chứ.
- Giá như trong miếng bánh mì kẹp này có thịt gà thật thì còn đỡ!
-Thì cậu cứ coi đó là thịt gà đi!
Peter nhìn chằm chằm vào Jonathan,cho tới khi anh ta phải chú ý.
- Cậu làm gì thế? Jonathan hỏi.
- Khi vào phòng cậu lấy hành lý sáng nay,tớ đã tìm thấy tờ giấy biên nhận bức thư cậu fax cho Anna.Lẽ ra tớ không nên đọc, nhưng những hàng chữ đập vào mắt tớ, cho nên....
-Thế thì sao? Jonathan khô khốc cắt lời.
- Cậu đã viết tên Clara thay vì Anna! Tớ muốn nói cho cậu biết trước khi cậu được vị hôn thê thông báo điều đó.
Ánh mắt hai người giao nhau cảm thông, rồi Peter phá lên cười.
-Thật thế, tớ đang băn khoăn đây! Anh vừa nói vừa lấy lại hơi thở.
-Cậu băn khoăn gì cơ?
-Tớ tự hỏi không biết cậu ngồi trong máy bay này với tớ để làm gì?
-Tớ về nhà!
-Tớ sẽ đặt câu hỏi theo cách khác,cậu sẽ thấy rõ là chính bản thân cậu đã hiểu! Tớ đang tự hỏi cậu sợ hãi điều gì?
Jonathan suy nghĩ thật lâu trước khi trả lời.
- Chính tớ! Tớ sợ chính bản thân mình.
Peter lắc đầu và nhìn qua khung cửa,bán đảo Manhattan hiện ra ở xa xa.
- Chính tớ nhiều lúc cũng thấy sợ cậu, song điều đó chẳng ngăn trở thành bạn thân nhất của cậu! Hãy tự tạo cho mình nhiều cơ hội hơn nữa, rồi cậu cũng sẽ quen dần với những ý nghĩ ngông cuồng của bản thân, rồi cậu sẽ cảm thấy như tớ, lúc say mê một danh hoạ người Nga sau bao ngày tháng đằng đẵng ngồi nghe cậu ca ngợi về ông ta.Cậu đang tiếc công sức bỏ ra để chuẩn bị cho hôn lễ chứ gì.Không, tớ cam đoan với cậu, rồi cậu sẽ trở nên thân thiện với bản thân mình hơn,cậu sẽ nhận ra bao nhiêu biến động trong cuộc sống của chính cậu!
Jonathan không trả lời, anh nhặt lấy cuốn tạp chí của hãng hàng không được gài trong chiếc túi ở lưng ghế trước mặt.Sự tình cờ đôi khi chứa đựng đầy khiêu khích.Khi máy bay cất cánh, trong lúc lật một vài trang của cuốn nguyệt san này, anh ngẫu nhiên dừng lại trước một bài phỏng vấn ngắn một nữ chủ phòng tranh đang rất nổi danh ở Luân Đôn. Một tấm ảnh của Clara minh hoạ cho bài báo, cô đang đứng trước trang viên của mình. Jonathan cúi người, nhét cuốn tạp chí vào túi.Peter liếc mắt dõi theo cử chỉ của anh.
- Cậu đồng ý chứ, Peter nói tiếp, cho dù có bị đày lên đảo hoang, thì nhất định phải để cho tớ đến đó một mình.
- Vậy à, sao lại thế?
- Bởi vì nếu cậu nhất định theo tớ,thì ở đó sẽ chẳng còn là đảo hoang nữa!
- Tại sao tớ lại nhất định phải theo cậu?
- Vì cậu đã hoàn toàn chọn nhầm cuộc sống ở Boston,và cậu đã nhận ra điều đó quá muộn!
- Cậu đang ám chỉ gì thế Peter?Jonathan tức tối hỏi.
- Có gì đâu! Peter ranh mãnh đáp và tảng lờ cầm lấy cuốn tạp chí hàng không của mình.
Sau khi qua cửa hải quan,Peter và Jonathan cùng đi tới khu để xe.Họ đi theo hành lang có mái che cắt ngang qua những dẫn đi vào các phòng chờ máy bay, Peter nhoài người qua lan can.
- Cậu có thấy những người xếp hàng dài chờ ta-xi không? Phải cảm ơn ai đã nhanh trí tự mình lái xe tới đây?
Trong hàng dài những hành khách đang chờ tới lượt trên vỉa hè,Jonathan không nhận thấy một người đàn bà có mái tóc màu trắng bước lên chiếc xe đầu tiên.
Con đường ngoại vi thành phố bị tắc nghẽn,Peter phải mất hơn một tiếng mới chở được bạn về tới nhà.Jonathan đặt chiếc va-li xuống và treo áo mưa lên móc.Đèn trong nhà bếp đều tắt hết.Anh đứng ở cầu thang cất tiếng gọi Anna nhưng không thấy ai trả lời.Phòng ngủ chìm trong bóng tối, chăn gối trên giường vẫn được xếp gọn gàng.Nghe có tiếng cót két phía trên đầu, anh liền bước lên tầng trên.Anh đẩy nhẹ cánh cửa khép hờ của xưởng vẽ.Căn phòng cũng trống trơn.Một bước tranh mới của Anna gác trên giá, Jonathan bước lại gần và chăm chú ngắm nhìn.Bức tranh vẽ phong cảnh từ xưởng vẽ trông ra song lại lấy không gian của thế kỷ trước.Anh nhận ra trên bức tranh một vài toà nhà tồn tại bất chấp thời gian và đến giờ vẫn trơ gan dưới cửa sổ căn nhà của họ.Ở chính giữa bức tranh, một chiếc thuyền buồm hai cột đang cập bến cảng cũ.Vài hành khách đang hối hả trên cầu tàu.Một gia đình đang bước đi trên lối dẫn ra bến tàu.Nếu như Jonathan tiến gần hơn chút nữa, anh đã có thể chiêm ngưỡng sự chân thực trong từng nét vẽ của Anna.Đường nét mờ tỏ của những thanh ván gỗ trên nền vỏ con thuyền.Một người đàn ông vóc dáng cao lớn dắt tay đứa con gái nhỏ, chiếc mũ trùm đầu che khuất gương mặt ông ta có màu xám hạt tai rất đẹp.Trên bàn tay đang bám vào lan can cầu tàu của người đàn bà có đeo một chiếc nhẫn rất lớn.
Jonathan nghĩ đến người bạn cố tri, giờ đang ở nhà một mình.Mặc dù Peter đã cố tỏ ra bình thản, song Jonathan hiểu bạn quá rõ để thờ ơ với nỗi lo lắng đang gặm nhấm tâm hồn Peter, và anh tự cảm thấy dằn vặt.Anh tiến lại gần bàn làm việc của Anna và nhấc điện thoại lên.Peter đang gọi điện.Jonathan nhìn quanh, căn phòng tràn ngập những tia nắng cuối ngày xuyên qua lớp cửa kính.Ánh sáng nhuốm lên những lá rèm vàng ruộm như màu những tấm thảm phủ trong một toà dinh thự kiểu anh. Trái tim anh thình lình rộn lên một ước muốn khiến tâm hồn anh bỗng như tràn ngập hạnh phúc. Anh bỏ máy, bước ra khỏi xưởng vẽ và lao nhanh xuống cầu thang.Anh chộp lấy chiếc va-li nhỏ để trên ghế ngoài cửa ra vào và đóng cửa lại phía sau lưng.Anh leo lên một chiếc ta-xi và nói với người lái xe:
- Sân bay Logan, làm ơn chạy càng nhanh càng tốt!
Người lái xe nhìn gương mặt của vị khách qua kính chiếu hậu và những bánh xe của chiếc Ford nghiến sin sít xuống mặt đường rải nhựa.
Khi chiếc ta-xi đã rẽ ở đầu phố, bàn tay Anna buông các lá gỗ của tấm rèm cửa sổ xuống.Từ sau lớp kính của xưởng vẽ, cô mỉm cười.Anna bước xuống cầu thang, bật nút tự động trả lời trên điện thoại trong bếp và nhặt chùm chìa khoá để vào một chiếc cốc nhỏ.Tới cửa ra vào,cô thấy chiếc áo mưa Jonathan đã để quên trên mắc áo khoát.Cô nhún vai, ra khỏi nhà và đi bộ tới đầu phố.Đi được một quãng, cô lấy xe của mình và lái về phía Bắc.Cô đi qua cầu Harvard bắc ngang dòng sông Charles và tiếp tục chạy xe tới tận Cambrigde.Dòng xe tren đường chen chúc dày đặc.Cô lái xe xuyên đại lộ Mass, vòng qua khu học xá của trường đại học và rẽ ngang sang phố Garden.
Anna đậu xe không xa số nhà 27.Cô bước lên bậc tam cấp ở thềm cửa và nhấn chuông.Tiếng khoá điện tử reo lên và cánh cửa mở ra.Cô đi thang máy lên tận tầng cuối cùng.Cánh cửa cuối hành lang hé mở sẵn.
- Cửa mở đấy, tiếng một người đàn bà từ bên trong nói vọng ra.
Căn hộ trông thật trang nhã.Trong phòng khách, đồ gỗ được đánh vec-ni kỳ công rất đúng mốt và được tô điểm bởi những đồ trang trí bằng bạc.Những tấm màn cửa bằng vải mỏng che 'lớp kính đung đưa nhè nhẹ trên những thanh kim loại.
- Mẹ ở trong buồng tắm, mẹ sẽ ra ngay đây, giọng nói lại cất lên.Anna ngồi vào một chiếc ghế salon bọc nhung màu nâu.Từ chỗ đó, cô có thể nhìn bao quát quanh cảnh công viên Danehy.
Người đàn bà mà cô đến thăm, bước vào phòng, vắt chiếc khăn bà vừa dùng để lau tay lên thành một chiếc ghế tựa.
-Những chuyến đi này làm mẹ mệt mỏi quá, bà ta nói và ôm Anna trong vòng tay.
Rồi bà lấy ra từ trong chiếc cốc nhỏ chạm trổ tinh tế, một chiếc nhẫn có đính viên kim cương tuyệt đẹp được mài theo kiểu cổ xưa và đeo nó vào ngón tay.
Jonathan đã lại sức trong thời gian bay.Anh nhắm mắt ngay sau khi máy bay vừa rời khỏi đường băng và chỉ mở mắt khi những bánh xe được nhả từ bụng chiếc máy bay của hãng British Airways để chuẩn bị hạ cánh.Anh thuê một chiếc xe và chạy tới Heathrow để ra đường cao tốc.Cho tới khi nhìn thấy một quán rượu trước mặt,anh nhấn bàn đạp tăng ga.Một lát sau, cổng sắt uy nghi của khu trang viên đã hiện ra trước mũi xe, hai cánh cổng mở rộng.Anh lái xe vào trong trang viên, xe lăn bánh chậm dần và dừng lại trước sân.
Mặt trước toà nhà nhuộm ánh mặt trời.Những nhánh hồng dại quấn quýt suốt dọc bờ tường màu hồng phấn.Ở chính giữa bãi cỏ hình tròn, một cây dương đu đưa trong gió, những cành cao mềm mại xoà trên mái nhà.Clara hiện ra trước bậc thềm và bước xuống.
- Đúng giữa trưa, cô vừa nói vừa đi đến chỗ anh, nếu như không chậm mất một ngày thì anh thật đúng hẹn -Tôi thật lòng xin lỗi,đây là một câu chuyện hơi dài, anh lúng túng đáp.
Cô quay bước vào trong dinh thự.Jonathan bối rối giây lát rồi đi theo cô.Trong trang viên này, mọi thứ dường như đều không được chủ ý sắp đặt, nhưng lại rất đúng chỗ.Có những nơi, ngẫu nhiên, luôn tạo cho người ta cảm giác sảng khoái khi bước vào.Ngôi nhà mà Clara sống phần lớn cuộc sống của cô cũng là một nơi như vậy.Khung cảnh bên trong thật thân thiện, dường như theo năm tháng, cô đã truyền cho toà nhà những làn sóng tình cảm.
- Hãy đi theo tôi, cô nói.
Họ bước vào một gian bếp rộng có sàn lát gạch nâu.Thời gian dường như chẳng có chút dấu ấn tại nơi này.Một vài mẩu than cháy dở vẫn hồng lên trong lò sưởi.Clara cúi xuống nhặt một chiếc giỏ lớn đan bằng cành liễu, nhặt lên một nhánh củi và ném vào giữa đám tro.Ngọn lửa bùng lên ngay tức khắc.
-Các bức tường ở đây dày tới mức bất kể mùa đông hay mùa hè, căn phòng này luôn luôn phải để lò sưởi.Buổi sáng mà bước vào đây, anh sẽ phải ngạc nhiên vì cái lạnh ngự trị trong này.
Cô đặt vài chiếc đĩa lên một cái bàn lớn.
-Anh có muốn dùng một tách trà không?
Jonathan tựa lưng vào tường và nhìn cô.Ngay cả trong những cử chỉ bình thường nhất, Clara vẫn mang dáng vẻ cao sang.
- Thế là cô đã không tôn trọng bất cứ nguyện vọng nào của bà cô lúc sinh thời phải không? Jonathan nói.
- Ngược lại thì có.
- Chúng ta chẳng phải đang ở trong trang viên của bà sao?
- Bà là một nhà tâm lý học tinh tế.Cách tốt nhất để khiến tôi thực hiện những điều bà muốn là bắt tôi cam kết những gì ngược lại.
Nước bắt đầu reo trong ấm.Clara rót trà còn Jonathan ngồi vào chiếc bàn lớn bằng gỗ.
-Trước khi tôi quay trở lại trường nội trú,bà đã hỏi tôi có nhớ đan các ngón tay vào nhau khi hứa không?
-Tôi nghĩ đó cũng là một cách để nhìn nhận sự việc.
Clara ngồi xuống đối diện với anh.
-Anh đã nghe chuyện Vladimir và người bảo trợ của ông ấy, Ngài Edward chưa?Clara hỏi.Ngày lại ngày, họ đã không thể tách rời nhau và thân thiết gần như anh em.Người ta còn kể rằng Vladimir đã qua đời trong vòng tay của ngài Edward.
Giọng cô đầy háo hức và phấn khích.Jonathan cảm thấy thực sự thoải mái và Clara bắt đầu kể.
Sau khi đã bỏ trốn khỏi Nga vào những năm 1860,Radskin đến Anh quốc.Luân Đôn vẫn luôn là nơi trú thân tám thời của tất cả những kẻ tha hương, ở đó người ta gặp những người Thổ Nhĩ Kỳ, Hy Lạp, Thuỵ Điển, Pháp, Tây Ban Nha, thậm chí cả những lữ khách tới từ Trung Hoa.Đô thị già nua này đông đầy những người từ mọi nơi đổ đến mức loại rượu thịnh hành nhất cũng được mang tên " thức uống cho mọi dân tộc ", nhưng Vladimir không uống rượu, ông không có tiền.Ông nương náu trong một căn phòng bẩn thỉu ở khu phố Lambeth gớm ghiếc.Radskin là một người đàn ông tự trọng và dũng cảm, và cho dù nghèo kiết xác, ông thà chết chứ không chịu ngửa tay xin. Ban ngày, đem theo những mẩu than được vót nhọn như đầu bút chì, ông ra khu chợ Covent Garden, rồi với những mẩu giấy cũ nhặt nhạnh được, ông phác hoạ khuôn mặt của những người qua đường.
Ông cố sức đẩy lùi sự cùng quẫn bằng cách bán những bức vẽ bằng lấy một vì đồng xu trong những ngày may mắn.Chính trong cảnh ngộ ấy ông đã gặp được ngài Edward. Đó chỉ có thể là bàn tay tài tình của định mệnh dàn xếp, vào buổi sáng mùa thu năm ấy, trên những con phố lộ thiên của khu Covent Garden.
Ngài Edward là một nhà kinh doanh nghệ thuật giàu có và nổi danh.
Lẽ ra ngài sẽ chẳng bao giờ phải đặt chân tới khu chợ,song bệnh tật đã cướp đi một trong những người giúp việc của gia đình và phu nhân muốn ngài phải tìm ra được người thay thế ngay lập tức.Khi Vladimir Radskin giơ ra trước mặt ngài Edwar d bức ký hoạ ngài mà ông vừa hoàn thành khi ngài mới chỉ dừng chân trước một quầy rau, thì nhà sưu tầm lớn này đã nhận ra ngay tài năng của người đàn ông khốn khổ.Ngày hôm sau, ngài quay lại bằng xe ngựa, đi cùng tiểu thư, và yêu cầu người đàn ông vẽ cô.Vladimir từ chối.Ông không vẽ khuôn mặt phụ nữ.Vốn tiếng Anh còm cõi đã không cho phép ông có thể giải thích rõ ràng.Ngài Edward nổi giận.Cuộc gặp gỡ đầu tiên của hai người đàn ông mà sau này không thể rời nhau nửa bước thiếu chút nữa đã kết thúc bằng đụng độ.Song Vladimir bình tĩnh chìa ra cho ngài Edward xem một bức vẽ khác.Lại là một bức chân dung ngài, lần này là một bức tranh nhỏ hoàn thiện miêu tả ngài trong tư thế đứng, ông đã hoàn thành hôm trước hoàn toàn dựa vào trí nhớ ngay sau khi ngài rời bước.Bức chân dung sống động đến bất ngờ.
- Chính là bức chân dung của Sir Edward đang được trung bày tại San Francisco phải không?
- Nói cho chính xác hơn, bức hoạ hôm đó chính là bản phác thảo của bức chân dung ấy...
Clara nhíu mày.
-Anh đã biết tất cả những câu chuyện đó rồi, tôi đang tự biến mình thành trò cười, anh là chuyên gia thông thạo nhất về danh hoạ này, vậy mà tôi lại kể cho anh nghe những giai thoại mà ngươi ta có thể dễ dàng tìm thấy trong bất cứ cuốn sách nào viết về ông.
Bàn tay của Jonathan nhích lại gần bàn tay Clara.Anh vô cùng muốn nó đặt lên tay cô, song anh kìm lại.
-Trước tiên, có rất ít sách viết về Radskin,và tôi cam đoan với cô rằng tôi chưa hề nghe nhắc tới giai thoại này.
-Anh lại giễu tôi phải không?
-Không hề,và có lẽ cô phải cho tôi biết làm thế nào những chi tiết quý giá ấy lại đến được với cô,tôi sẽ công bố chúng trong bản chuyên khảo sắp tới của tôi.
Clara ngập ngừng một chút trước khi tiếp tục câu chuyện của mình.
- Thôi được,tôi tin anh, cô nói và rót trà vào tách của Jonathan.Là một người đa nghi, ngài Edward đã yêu cầu Vladimir phải lập tức vẽ một bức chân dung cho người đánh xe của ngài.
-Và bản phác hoạ đó đã tạo cảm hứng cho bức tranh mà chúng ta vừa nhận được hôm thứ tư vừa rồi phải không?Jonanthan phấn khích hỏi. -Đúng như vậy,Vladimir và người đánh xe đã trở thành bạn của nhau, cùng gắn bó bởi một niềm đam mê.Nếu như anh đang giễu cợt tôi và nếu anh đã biết tất cả rồi,thì tôi cam đoan với anh.....
- Đừng cam đoan gì cả, cô hãy kể tiếp đi.
Vladimir lúc còn trẻ từng là một kỵ sĩ giỏi.Nhiều năm sau, khi con ngựa cưng của người đánh xe chết gục trong lúc đang đi trên đường,Vladimir an ủi nỗi đau ấy bằng cách vẽ tặng ông một bức chân dung đứng trước chuồng ngựa.Lúc này người đánh xe đã già đi nhiều nên Vladimir đã vẽ khuôn mặt ông dựa vào bức ký hoạ nhanh của buổi sáng mùa thu ẩm ướt năm xưa trong khu chợ lộ thiên ở Covent Garden.
Jonathan không thể không nói cho Clara biết câu chuyện này đã nhân thêm một giá trị lớn cho bức tranh sẽ được đưa ra đấu giá.Máu nghề nghiệp nổi lên, anh nhiều lần thử tìm hiểu xem cô đã lấy thông tin từ đâu.Anh tìm cách sàng lọc hiện thực từ mông lung trong những câu chuyện của Clara.Suốt buổi chiều hôm đó, cô tiếp tục kể về Vladimir và ngài Edward.
Nhà sưu tầm nghệ thuật hầu như ngày nào cũng tới thăm Vladimir, cố tìm cách gây thiện cảm bằng cách quan tâm chăm sóc.Sau một vài tuần, ngài đề nghị hoạ sĩ dọn tới ở trong căn phòng có lò sưởi đàng hoàng trên gác xép của một trong những ngôi nhà quý phái mà ngài sở hữu gần khu chợ,mà không đòi hỏi bất cứ điều kiện nào.
Vậy là từ đó, Radskin không còn phải lang thang trên những đường phố lầy lội và bất an của Luân Đôn vào những buổi sáng mờ sương hay những lúc bóng chiều chập choạng.Hoạ sĩ không chấp nhận ở trọ không trả tiền.Ông bắt đầu vẽ tranh để thay tiền trọ.Ngay sau khi Radskin ổn định nơi ở,Ngài Edward cho người mang tới chỗ ông dầu và bột màu loại hảo hạng mà ngài đã mua từ tận Florence về.Vladimir đích thân pha màu và ngay khi vừa nhận được những khung tranh đầu tiêncho Ngài Edward gửi tới, ông liền thôi vẽ bằng than và chuyển sang vẽtranh sơn dầu.Thế là bắt đầu giai thoại vẽ tranh tại nước Anh kéo dài tám năm,cho tới tận khi ông qua đời.Sống trong căn phòng dành cho mình ở gần khu Covent Garden, danh hoạ vẽ tranh theo đặt hàng của nhà sưu tầm.Ngài Edward đích thân mang nguyên liệu tới cho ông.Mỗi lần tới,ngài đều nán lại hồi lâu để trò chuyện cùng danh hoạ.Cứ như thế,sau nhiều tuần lễ,ngài đã dần chiếm được cảm tình của người hoạ sĩ mà ngài muốn làm Mạnh Thường Quân.Trong vòng một năm,người mà ngài vẫn thường gọi là " người bạn Nga của ta " đã vẽ sáu bức tranh lớn.Clara kể tên từng bức:Jonathan biết rõ tất cả những bức tranh đó và nói cho cô mỗi bức hiện đang được cất giữ ở nơi nào trên thế giới
Thế nhưng chuyến di tản và những ngày sống khốn khổ trong khu phố Lambeth đã làm sức khoẻ của Vladimir dần suy kiệt.Ông thường xuyên bị hành hạ bởi những con ho xé phổi,các khớp xương trở mặt khiến ông mỗi ngày một thêm đau đớn. Một buổi sáng ghé tham Radskin,Ngài Edward đã bắt gặp ông nằm sõng soài trên nền nhà.Bệnh thấp khớp đã làm ông tê liệt, không đủ sức để tự mình gượng dậy sau cú ngã.
Ngay lập tức Vladimir được chuyển ngay đến ngôi nhà trong thành phố của ngài Edward để hàng ngày ngài có thể đích thân theo dõi việc chăm sóc ông.Cho tới khi bác sĩ riêng của ngài Edward khẳng định danh hoạ đã bình phục, ngài liền ra lệnh đưa ông tới khu trang viên ngoại ô của ngài để ông tiện bề dưỡng bệnh.Ở đây,Vladimir đã hoàn toàn bình phục.Nhờ có ngài Edward,ông đã vài lần tự mình du hành sang Florence mua bột màu để có thể tự pha chế những màu vẽ vô cùng tinh tuý.Ngài Edward đối với ông như một người anh em.Trong suốt những năm tháng đó,tình cảm của hai người trở nên say nặng.Những khi không đi du lịch,Vladimir tập trung vào việc vẽ tranh.Ngài Edward tổ chức triển lãm cho ông tại phòng tranh của mình ở Luân Đôn,và mỗi khi có một bức tranh nào không tìm được người mua,ngài liền giữ lại treo tại một trong những toà nhà của mình và trả tiền cho danh hoạ,coi như bức tranh đã có chủ.Tám năm sau,Vladimir lại ngã bệnh và lần này cơ thể của ông suy yếu rất nhanh.
-Ông qua đời vào một ngày đầu tháng sáu,trong khi ngài Edward để ông ngồi nghỉ trên một chiếc ghế bành dưới bóng cây râm mát.
Giọng Clara trở nên buồn bã khi kết thúc câu chuyện.Cô đứng lên dọn bàn và Jonathan liền tự ý giúp một tay.Clara thu những tách trà,Jonathan cầm lấy ấm và hia người mang tất cả tới hai bồn rửa men rạn,phía trên chìa ra một vòi nước khá to bằng đồng.Từ đầu vòi nước tuôn dài thành dòng chảy.Jonathan thú thật với Clara anh chưa hề được biết những tình tiết về quãng đời của Vladimir ở đồng quê và kể cho cô nghe một vài chuyện đời khác của ông mà anh đã thu thập được trong quá trình nghiên cứu.
Đã đến cuối buổi chiều.Clara và Jonathan cùng nhau ngắm màn sương dày đặc của thành Luân Đôn cổ kính,cùng hình dung về ngôi nhà nơi Vladimir đã sống gần khi Covent Garden,thăm vườn hồng nơi ông thích dạo chơi trong quãng thời gian ông sống tại đồng quê.Họ nói về danh hoạ nhiều tới mức gần như tưởng thấy tiếng chân của ông đao lạo xạo bước trên lối đi trải rơm của chuồng ngựa mỗi khi tới thăm người bạn đánh xe.Jonathan rửa tách,Clara đứng bên cạnh giúp anh lau khô.Cô đứng nhón trên đầu ngón chân để xếp bát đĩa trên một chiếc giá bằng gỗ treo cao phía trên đầu.Hàng trăm lần anh muốn ôm cô trong vòng tay,bấy nhiêu lần anh đều phải ghìm mình lại.Clara đóng vòi nước lại.Co lau tay vào tạp dề,tháo nó ra khỏi người và để bên cạnh chiếc bếp nấu ăn bằng gỗ kiểu cổ.Cô bước lại gần anh,căng tràn sức sống.
-Nào,bây giờ thì đi theo tôi,cô nói.
Cô dẫn anh theo cửa bếp ra phía sau toà lâu đài.Họ đi ngang qua sân và dừng lại trước một nhà chứa đồ rất rộng.Trong lúc co xoay chìa khoá,Jonathan thấy tim đập rộn ràng.Cô đẩy hai cánh cửa lớn thật mạnh.Phía trong nhà kho,cột chiếc Morgan cổ có mũi xe bằng thép bóng láng đứng sừng sững.Clara ngồi vào sau tay lái cũ bằng gỗ rồi nổ máy.
-Anh đừng xịu mặt như thế, lên xe đi! Tôi phải vào mua một ít đồ trong làng.Khi quay lại,anh sẽ được xem thứ đã khiến anh phải lặn lội tới nơi này.Suy cho cùng,ai là người đã đến chậm 24 giờ đồng hồ cơ chứ? Cô nói, mắt lấp lánh vẻ ranh mãnh.
Jonathan ngồi vào cạnh cô và Clara cho xe lăn bánh.
Chiếc xe mui trần lao trên đường quê.Họ dừng lại trước cửa hàng thực phẩm.Clara mua thức ăn cho bữa tối.Jonathan hai tay bê sọt thức ăn bước ra để lên băng ghế nhỏ phía sau.Chặng đường về,Clara để anh cầm lái.Tâm trạng căng thẳng,anh cài số một khiến động cơ khựng lại.
-Bộ ly hợp hơi cứng nếu không quen xe! cô nói.
Jonathan cố nén tự ái và đánh lảng che giấu sự hồi hộp của mình.Khi đến trang viên,anh đã lấy lại bình tĩnh.Clara để đồ ăn trong bếp rồi dẫn anh vào trong trang viên.Cô đưa anh đi theo một hành lang dài dẫn tới một phòng sách lớn.Những bậu cửa sổ bằng gỗ đã sói lở bởi thời gian được bọc lại bởi giấy gián tường kiểu cổ.Phía trên lò sưởi,một chiếc đồng hồ treo tường lớn chỉ 6 giờ,không ai biết đó là giờ buổi chiều hay buổi sáng.Một vài cuốn sách bìa bọc cũ kỹ nằm rải rác trên chiếc bàn gỗ gụ ở chính giữa phòng.Qua những khung cửa sổ khung nhỏ,có thể nhìn thấy nắng chiều đang tà dần trên các ngọn đồi.Jonathan thấy Clara tiến về phía cánh cửa nhỏ nằm khuất trong một hốc tường.Lối vào khá hẹp,anh định lùi bước để nhường đường cho cô.Khi cô đặt tay trên nắm đấm cửa,họ vô tình chạm nhẹ vào nhau,và thế là cơn chóng mặt kỳ lạ lại tái diễn.
Những đụn mây trĩu nặng ùn ùn kéo tới khiến bầu trời tối sầm.Ánh sáng ban ngày tan biến và trận mưa đêm chợt đổ xuống. Một cơn lốc ập vào qua cửa sổ phòng sách.Jonathan chạy băng tới và muốn đóng nó lại,nhưng cánh tay dường như không muốn tuân theo sự điều khiển của anh.Anh muốn cất tiếng gọi Clara nhưng miệng không thể thốt thành lời.Bên ngoài,mọi vật đều biến đổi,nhừng cành hồng tươi tốt bám trên của toà lâu đài giờ bỗng lan khắp nơi hoang dã.Những cũ kỹ rít lên trên các tầng gác dưới những đợt tấn công của gió.một vài mảnh ngói lao từ trên xuống vỡ vụn giữa sân.Jonathan cảm thấy nghẹt thở,phổi đau như xé.Cơn mưa rào táp ướt mặt anh,Trước cửa trang viên,một cỗ xe tồi tàn đã được đóng ngựa đứng chờ.Những tiếng vó đập thình thịch xuống nền đất cho thấy lũ ngựa rất bồn chồn,một người đánh xe đội mũ cao thành đang cố hết sức ghìm dây cương.Phía trong khoang xe,lấp ló bóng một người trẻ tuổi trong bộ áo choàng màu xám với chiếc mũ rộng trùm kín trên đầu.Một cặp vợ chồng đã đứng tuổi vội vã chạy từ trong lâu đài ra.Người đàn ông vóc dáng cao lớn dùng cánh tay che người đàn bà bà giúp bà ta trèo lên xe.Ông đóng của khoang xe lại,nhỏ dần ra cửa sổ và hét lên:" Chạy vào rừng,nhanh lên,họ sắp đuổi tới rồi! "
Người đánh xe quất roi và chiếc xe chạy vòng qua thân cây to.Cây mọc trong vườn giờ đã rụng trụi lá.Mùa hè vừa mới bắt đầu giờ đã như sắp tàn.Gọng nói xa lạ lại vang lên bên tai anh:"Nhanh,nhanh,khẩn trương lên! " tiếng nói thì thầm lẫn trong tiếng gào thét của gió.
Khó nhọc lắm Jonathan mới có thể quay lại nhìn vào trong phòng khách.Khung cảnh bên trong cũng biến đổi.Ở đầu kia căn phòng,cánh cửa ra hành lang đột ngột mở toang. Jonathan nhìn thấy hai bóng người chạy lên cầu thang.Một trong hai bóng người cắp dưới nách một gói lớn bọc trong tấm chăn.Jonathan biết chi? trong vài giây nữa anh sẽ không còn không khí để thở.Anh hít thật sâu và dùng hết sức chống lại sự rệu rã của cơ thể,anh lùi lại một bước và cơn chóng mặt tan biến ngay lập tức.Clara vẫn đứng trước mặt anh.Anh lại đang đứng bên hốc cửa.
-Mọi thứ lại tái diễn phải không? Cô hỏi.
-Đúng vậy,Jonathan vừa đáp vừa lấy lại bình tĩnh.
-Đúng vậy,Jonathan vừa đáp vừa lấy lại bình tĩnh.
Mọi việc dường như trở nên kỳ quái hơn khi họ thú nhận điều này với nhau.Cô nhìn anh chăm chăm và không nói thêm một lời,cô bước vào trong căn phòng làm việc nhỏ.
Cái giá được đặt giữa phòng.Khi Clara nhấc tấm vải phủ trên bức tranh,cô đã trao cho anh giây phút vô song mà anh vẫn hằng mơ tưởng.Anh nhìn bức tranh mà không thể tin vào đôi mắt mình.