CHƯƠNG 6

    
ột ngày bắt đầu trong ánh mặt trời lạnh lẽo. Cuộc tranh cãi hôm trước đã lắng dần qua một đêm. Jonathan thức dậy và chuẩn bị bữa sáng rồi mang tới cho Anna. Họ cùng ăn và tận hưởng một buổi sáng chủ nhật thật dài. Anna lên xưởng vẽ còn Jonathan tiếp tục ngồi thư giãn. Họ bỏ qua bữa trưa và lang thang cả buổi chiều dọc các phố nhỏ trong khu cảng cũ. Đến gần bốn giờ chiều, họ ghé vào một tiệm bán đồ ăn sẵn kiểu Ý và mua thật nhiều thức ăn cho bữa tối, rồi ghé vào cửa hàng cho thuê băng ở góc phố để chọn vài cuốn băng video.
Ở đầu kia thành phố, mái tóc bù xù của Peter ló ra khỏi một đống chăn nệm dày. Ánh sáng ban ngày đã lôi anh ra khỏi giấc ngủ mê mệt. Anh vươn vai rồi rồi liếc về phía chiếc đài có đồng hồ đặt trên bàn ngủ. Giấc ngủ quá trưa anh tự thưởng cho mình đã kéo dài hơn anh tưởng. Peter ngáp dài, quờ tay tìm chiếc điều khiển vô tuyến dưới những nếp gấp của lớp chăn dày. Khi tìm thấy, anh ấn bừa lên một nút. Trước mắt anh, màn hình được gắn vào tường bắt đầu bật sáng, anh liền nhấn nút chuyển kênh. Hình một chiếc phong bì nhỏ nhấp nháy ở góc dưới màn hình báo tin anh có thư điện tử. Anh chọn chế độ đọc thư và bức thư hiện lên. Ngày tháng trong thư cho thấy nó vừa được gửi trong ngày do một người quen của nhà đấu giá Christie's tại Luân-đôn. Bây giờ là ba giờ chiều ở miền Đông nước Mỹ nhưng đã là tám giờ tối tại bên kia bờ đại dương.
- Không phải cả họ cũng đọc báo rồi chứ! Peter càu nhàu.
Bức thư điện tử được viết bằng phông chữ nhỏ. Peter căm ghét cặp kính lão mà anh buộc phải đeo từ nhiếu tháng nay. Không muốn chấp nhận mình đang già đi, anh thà tự hành hạ mình bằng những bài tập căn bản trông vào những động tác nhăn mặt mà người ta quảng cáo là sẽ có tác dụng cải thiện thị lực. Những dòng chữ buộc anh phải căng mắt để đọc. Vừa đọc lại đến lần thứ ba bức thư điện tử của người đồng nghiệp ở Luân-đôn, anh vừa với tay lấy chiếc điện thoại và không cần nhìn vào các nút, anh bấm số rồi nóng ruột chờ chuông reo. Sau mười hồi chuông, anh dập máy rồi bấm lại số. Sau ba lượt, anh cáu kỉnh mở ngăn kéo tủ đầu giường và lấy ra chiếc điện thoại di động. Anh gọi cho tổng đài và đề nghị nối máy với phòng vé của hãng hàng không British Airways. Anh ngoẹo cổ kẹp lấy điện thoại và đi về phía tủ treo quần áo. Anh phải kiễng chân mới nhìn thấy chiếc va-li để tận ngăn trên cùng rồi với tay chộp lấy chiếc quai kéo mạnh khiến nó trượt về phía anh, kéo theo một mớ túi du lịch rơi thẳng xuống người. Cuối cùng thì phía đầu dây bên kia cũng có một nhân viên phòng vé bắt máy, anh vừa càu nhàu vừa xỏ chân vào ống quần.
- Vương miện của Nữ hoàng bị đánh cắp, và toàn bộ nhân viên hãng các anh đều bận truy lùng nên không thể nghe điện của khách hàng phải không?
Lúc này là sáu giờ tối, bầu trời thoắt sập tối báo hiệu cơn dông đang bao trùm thành phố. Các đám mây dày lên, cuộn lại như những tấm vải bạt quấn chặt lấy nhau, mọng nước đến nỗi như được nhuộm màu xám xịt hoặc đen thẫm. Một vài giọt nước trĩu nặng xuyên qua bức màn mây dày đặc, vẽ trên nền trời âm u những vệt thẳng màu trắng bạc trước khi quất mạnh xuống mặt đường nhựa. Jonathan hạ thấp rèm cửa sổ. Một buổi tối ngồi trước ti-vi quả là thích hợp trong tiết trời u ám này. Anh vào bếp, mở tủ lạnh và lấy ra những hộp đựng các món ăn Ý mà Anna đã chọn. Anh bật lò nướng để chuẩn bị hâm lại món cà trộn pho-mát bỏ lò, rắc thật nhiều pho-mát parmesen ( một loại pho-mát bào vụn chuyên được dùng để rắc lên hoặc ăn kèm với một số món ăn của Ý ) lên trên rồi bước lại chỗ điện thoại treo tường. Anh đang định bấm số máy xưởng vẽ của Anna thì ánh đèn báo hiệu có cuộc gọi đến nhấp nháy, rồi chuông điện thoại reo vang.
- Cậu biến đi đâu mất thế? Đây là lần thứ mười tớ gọi cho cậu rồi đấy!
- Chào cậu, Peter!
- Xếp đồ vào va-li ngay đi, tớ sẽ chờ cậu ở sân bay Logan, phòng chờ của hãng hàng không British Airways, chuyến bay đi Luân-đôn lúc chín giờ mười lăm phút tối, tớ đã đặt sẵn hai vé cho tớ và cậu rồi.
- Khoan đã, hai giây thôi, giả sử hôm nay không phải là chủ nhật, hiện giờ không phải tớ đang đứng trong bếp chuẩn bị bữa tối cho cô gái sẽ lấy tớ trong bốn tuần nữa, và cũng không định sẽ không cùng cô ấy ngồi xem Thạch tín và những đăng-ten cũ, thì vì cớ gì tớ phải đi cùng cậu?
- Tớ rất khoái khi cậu nói chuyện kiểu ấy, tớ có cảm giác như chúng ta đang ở nước Anh rồi, Peter đáp lại bằng giọng châm chọc.
- Thôi nào, anh bạn, tớ rất mừng vì cậu gọi, và nói theo miệng lưỡi của cậu, giờ thì tớ đang bận phải đàm đạo với món cà trộn pho-mát bỏ lò, vì thế nếu cậu bỏ quá cho...
- Tớ vừa nhận được một mẩu tin từ Luân-đôn, một nhà sưu tầm đang muốn bán năm bức tranh của một danh hoạ bậc thầy, cả năm bức đều của một ông Vladimir Radskin nào đó... Thế món lasagne ( một món ăn của Ý rất được ưa chuộng, được làm từ mì dẹt trộn xốt cà chua và pho-mát rồi bỏ lò nướng ) của cậu có gì ở trong?
- Cậu nói nghiêm túc đấy chứ?
- Nhân thể, tớ sẽ giới thiệu cậu với đồng nghiệp của tớ tại Luân-đôn. Tớ không hề đùa, ngay cả khi đi chữa răng tớ cũng còn cười nhiều hơn lúc này! Jonathan, hoặc tớ và cậu, hoặc đối thủ của chúng ta sẽ giành được quyền đăng cai buổi đấu giá những bức tranh này, tùy cậu thôi, hơn thua trên thị trường luôn được đánh giá theo chất lượng chuyên môn.
Jonathan nhíu mày, anh bồn chồn quấn sợi dây điện thoại quanh ngón trỏ.
- Không thể có năm bức tranh của Radskin được rao bán ở Luân-đôn.
- Tớ không hề bảo cậu chúng sẽ được bán ở đó, chúng chỉ được trưng bày thôi. Với một bộ sưu tập tầm cỡ đó, tớ sẽ tổ chức bán tại Boston... và tớ sẽ cứu vãn được sự nghiệp của mình.
- Số liệu của cậu không chính xác, Peter ạ. Tớ nhắc lại rằng không thể có năm bức tranh được rao bán. Tớ biết rất rõ các bức tranh của Radskin hiện đang ở đâu, chỉ có bốn bức trong số đó hiện đang nằm trong tay những nhà sưu tập giấu tên.
- Tất nhiên rồi, cậu là chuyên gia mà, Peter đáp rồi nói thêm vẻ chế nhạo: Chính vì vậy mà tớ gọi cậu vào giờ này, vì nghĩ rằng bí ẩn đó có lẽ sẽ đáng giá hơn một bữa ăn tối. Lát gặp nhé.
Jonathan nghe một tiếng cạch, Peter đã bỏ máy mà không chào. Anh gác điện thoại lên tường. Một vài giây sau, Anna, không bỏ sót một lời của câu chuyện, cũng gác máy trong xưởng vẽ. Cô đặt bút vẽ xuống ống nước, choàng chiếc khăn dạ lên người, luồn tay vuốt lại mái tóc xõa rồi theo lối cầu thang xuống bếp. Jonathan vẫn đứng trầm tư cạnh điện thoại. Tiếng Anna làm anh giật mình.
- Ai gọi anh thế?
- Peter.
- Anh ta khoẻ chứ?
- Ừ.
Anna hít một hơi thật sâu mùi hoa từ bi tràn ngập trong căn phòng. Cô mở cửa lò nướng và ngắm món ăn đang chuyển dần sang màu vàng dưới sức nóng của lò nướng.
- Chúng ta sẽ ăn một bữa thật ngon, em bật phim rồi chờ anh trong phòng khách nhé, em đói gần chết rồi đây, anh đói không?
- Có, có, Jonathan trả lời bằng giọng gần như lãnh đạm.
Đi ngang qua bàn bếp, Anna túm lấy một cọng a-ti-sô bỏ vào miệng.
- Em sẵn sàng chịu đày đoạ để được ăn đồ Ý, cô vừa nhai vừa nói.
Cô chùi một giọt dầu dính ở khóe miệng rồi đi ra. Jonathan thở dài, lấy khay thức ăn nóng rẫy từ trong lò ra và khéo léo bày lên một chiếc đĩa. Anh đặt các món khai vị xung quanh món chính, cất phần của mình vào tủ lạnh. Rồi anh mở một chai rượu chianti ( một loại rượu vang Ý ), đổ đầy một chiếc ly chân cao thật đẹp đặt bên cạnh đĩa pho-mát mozzarella ( một loại pho-mát làm từ sữa trâu ).
Anna ngồi chờ trên ghế sofa, màn hình tinh thể lỏng đã bật sẵn, chỉ còn việc nhấn nút điều khiển, đầu DVD sẽ bắt đầu phát bộ phim của Capra.
- Anh có muốn em ra bếp lấy đĩa hộ anh không? Cô dịu dàng hỏi trong khi Jonathan đặt đĩa thức ăn lên đùi cô.
Anh ngồi xuống bên cạnh và cầm lấy tay cô. Vẻ áy náy, anh giải thích với cô anh sẽ không ăn tối ở nhà. Không để cô kịp phản ứng, anh kể cho cô nghe mục đích cuộc gọi của Peter và nhẹ nhàng xin lỗi cô. Anh phải đi, không phải chỉ vì anh mà còn vì người bạn đang rơi vào một hoàn cảnh nghề nghiệp rất tế nhị. Nhà Christie's sẽ không thể nào hiểu nổi vì sao anh có thể bỏ qua một cuộc bán đấu giá như vậy. Đó có thể là một lỗi nghề nghiệp ảnh hưởng nghiêm trọng tới sự nghiệp mà cả cô cũng hết sức giữ gìn. cuối cùng, anh thú thật với cô rằng từ lâu anh đã mơ ước có dịp được tới gần các bức tranh đó, được đưa tay lướt nhẹ trên các vệt sơn nổi, được ngắm nhìn những màu sắc chân thực, không bị ống kính máy ảnh hay việc in trên giấy làm nhòe sắc độ.
- Ai là người rao bán chúng? Cô khẽ hỏi.
- Anh không biết. Có thể chúng thuộc về một người thừa kế phòng tranh của Radskin. Chưa bao giờ anh tìm thấy bất cứ dấu vết được bày bán của những bức tranh này, và trong lần đầu tiên xuất bản cuốn ca-ta-lô về vị danh hoạ, anh đã buộc phải tự hài lòng với các bức ảnh cũng như giấy chứng nhận nguyên bản.
- Có bao nhiêu bức tranh được rao bán?
Jonathan lưỡng lự trước khi đưa ra con số. Anh biết sẽ không thể mong cô chia sẻ với anh niềm hy vọng được khám phá bức tranh thứ năm mà Peter đã nói. Bức hoạ cuối cùng của Vladimir Radskin trong mắt Anna chỉ là ảo tưởng, một hệ quả của niềm say mê cuồng nhiệt và nguy hại mà người chồng chưa cưới của cô dành cho ông già hoạ sĩ điên rồ.
Jonathan bước tới tủ quần áo, mở một chiếc va-li nhỏ, chọn một vài chiếc áo sơ-mi được gấp cẩn thận, một cái áo len mỏng, vài chiếc cà-vạt và quần áo lót đủ dùng trong năm ngày. Tập trung vào việc soạn hành lý, anh không nghe thấy cả tiếng chân Anna bước tới đằng sau.
- Anh lại bỏ em đi theo nhân tình của anh, chỉ cách lễ cưới của chúng ta có bốn tuần, anh thật không biết điều chút nào!
Jonathan ngẩng đầu lên, đường nét gợi cảm của cô vợ chưa cưới nổi bật trên khung cửa.
- Tình nhân của anh, theo cách nói của em, là một hoạ sĩ già, bị điên, cũng theo lời em nói, và đã qua đời cách đây vài chục năm. Trước ngày cưới của chúng ta, điều này lẽ ra phải khiến em yên tâm về con người anh chứ.
- Em không biết nên hiểu những lời vừa rồi của anh như thế nào, và em có còn nằm trong phạm vi những mối quan tâm của anh hay không.
- Anh không hề có ý gì cả, anh trả lời và vòng tay ôm lấy cô.
Anna tìm cách cưỡng lại, cô đẩy anh ra.
- Anh càng lúc càng quá đáng!
- Anna, anh không có sự lựa chọn nào khác. Đừng làm cho mọi việc trở nên phức tạp. Tại sao anh không thể chia sẻ được với em những niềm vui kiểu này nhỉ, khỉ thật!
- Thế nếu Peter gọi điện trước giờ cử hành hôn lễ, thì anh có hoãn đám cưới lại không?
- Peter là bạn thân nhất của anh, và là người làm chứng cho chúng ta, cậu ta sẽ không bao giờ gọi điện trước giờ hôn lễ.
- Thật sao? Anh ta sẽ chẳng thấy ngại đâu!
- Em nhầm rồi, ngoài sự hài hước mà em chẳng buồn nhận thấy ở cậu ta, Peter còn là người rất tế nhị.
- Nếu thế thì anh ta quả khéo che giấu. Nhưng nếu anh ta gọi, thì anh sẽ làm gì?
- Nếu vậy thì anh nghĩ có lẽ mình sẽ phải từ chối tình nhân để hoàn thành hôn lễ với người vợ của anh.
Jonathan hy vọng, mặc dù không thật tin tưởng lắm, rằng Anna sẽ không tiếp tục chất vấn anh nữa. Không muốn châm thêm dầu vào lửa những tranh cãi mà cô đang cố nhen lên giữa họ, anh thu xếp hành lý và bước vào buồng tắm để lấy nốt một số đồ vệ sinh cá nhân. Cô vội vã bước theo anh. Anh đi ngang qua cô và với tay lấy chiếc áo măng-tô. Khi anh cúi người định hôn cô, cô lùi lại và nhìn anh.
- Anh thấy không, chính anh đã thừa nhận đấy thôi, Peter hoàn toàn có khả năng gọi anh vào ngày hôn lễ!
Jonathan bước xuống cầu thang ; khi đã xuống tới sảnh, anh vặn nắm đấm cửa rồi quay lại nhìn Anna hồi lâu, lúc này cô đang đứng khoanh tay từ trên cầu thang nhìn xuống.
- Không đâu, Anna ạ, cậu ta biết rằng nếu không làm như vậy thì đến sáng thứ hai anh sẽ giết cậu ta.
Anh bước ra ngoài và sập mạnh cửa. Jonathan ra hiệu gọi một chiếc taxi. Anh yêu cầu người lái xe đưa anh tới sân bay Logan. Cơn dông đã khiến thành phố ngập úng. Nước chảy trên vỉa hè đã xoá ngay những dấu chân anh. Khi chiếc xe đã đi xa, bức mành sáo trên cửa sổ xưởng vẽ của Anna rũ xuống. Cô mỉm cười.