Dịch giả: Nguyễn Hiến Lê
PHỤ LỤC 2

Trong bài Tựa, cụ Nguyễn Hiến Lê viết:
 
“Bản tiếng Hoa đầy đủ, chép hết những cổ văn, cổ thi Trung Hoa mà Lâm Ngữ Đường dẫn trong tác phẩm và nhiều khi lại chép thêm bản dịch những bài đó của Lâm nữa. Bản tiếng Pháp có cắt bớt nhiều đoạn và bỏ hẳn vài tiết. (…) Mới đầu chúng tôi đã có ý chép thêm vào cuối sách những văn thơ chữ Hán để một số độc giả có thể thưởng thức nguyên văn của cổ nhân; nhưng sau tính lại nếu chép hết rồi phiên âm nữa thì sách này sẽ dày thêm ít nhất là trăm rưỡi trang, giá sách sẽ khó mà phổ thông được”.
 
Tuy không phải lo “giá sách khó phổ thông”, nhưng trong Phụ lục 2 này, tôi chỉ tạm chép vài bài thơ mà nguyên tác chữ Hán chưa thấy đăng trên các trang web tiếng Việt. Nói là tạm chép là vì hai câu trong bài Phóng thuyền của Đỗ Phủ mà Lâm Ngữ Đường trích dẫn không giống với hai câu tương ứng với bài Phóng thuyền mà tôi tìm thấy trên mạng, cho nên các bài còn lại tôi cũng không chắc là có thật giống với các bài mà Lâm Ngữ Đường đã dùng hay không.

Goldfish

 
 

°

° °

 

 
1. Bài Dong Am của Bạch Ngọc Thiềm
 
Bài thơ này Bạch Ngọc Thiềm treo ở thư trai và là bài thơ được Lâm Ngữ Đường khen là “rất mực ca tụng sự thanh nhàn”.
 
慵庵
 
丹經慵讀,道不在書;
藏教慵覽,道之皮膚。
至道之要,貴乎清虛,
何謂清虛?終日如愚。
有詩慵吟,句外腸枯;
有琴慵彈,弦外韻孤;
有酒慵飲,醉外江湖;
有棋慵弈,意外干戈;
慵觀溪山,內有畫圖;
慵對風月,內有蓬壺;
慵陪世事,內有田廬;
慵問寒暑,內有神都。
松枯石爛,我常如如。
謂之慵庵,不亦可乎?
 
(Nguồn: http://www.millionbook.net/js/z/zhongxiaoyi/lysc/027.htm)
 
Dong Am
 
Đan kinh dong độc, đạo bất tại thư.
Tạng giáo dong lãm, đạo chi bì phu.
Chí đạo chi yếu, quí hồ thanh hư.
Hà vị thanh hư? Chung nhật như ngu.
Hữu thi dong ngâm, cú ngoại trường khô.
Hữu cầm dong đạn, huyền ngoại vận cô.
Hữu tửu dong ẩm, tuý ngoại giang hồ.
Hữu kì dong dịch, ý ngoại can qua.
Dong quan khê sơn, nội hữu hoạ đồ.
Dong đối phong nguyệt, nội hữu bồng hồ;
Dong bồi thế sự, nội hữu điền lư.
Dong vấn hàn thử, nội hữu thần đô.
Tùng khô thạch lạn, ngã thường như như.
Vị chi Dong Am, bất diệc khả hồ?
 
Am biếng nhác
 
Đan kinh[1] biếng đọc vì Đạo không phải ở trong sách.
Tạng kinh[2] biếng coi vì chỉ là cái bì phu của Đạo.
Cái tốt của Đạo là trong sự thanh hư.
Thanh hư là gì? Là suốt ngày như ngu.
Có thơ mà biếng ngâm vì ngâm xong thì ruột héo[3],
Có đàn mà biếng gảy, vì gảy xong là hết nhạc.
Có rượu mà biếng uống vì ngoài cái say còn có sông hồ[4].
Có cờ mà biếng chơi vì ngoài nước cờ còn có can qua[5].
Biếng coi núi khe vì trong lòng có hoạ đồ rồi[6].
Biếng ngắm gió trăng vì trong lòng có Bồng Lai rồi.
Biếng lo việc đời vì trong lòng có vườn ruộng nhà cửa rồi.
Biếng hỏi nóng lạnh vì trong lòng có cảnh tiên ấm áp rồi[7].
Dù tùng héo núi tan, ta cũng vậy thôi[8],
Cho nên gọi là “Am biếng nhác”, chẳng cũng đúng ư?
 
(Nguyễn Hiến Lê dịch)
 
The Hall of Idleness
 
I’m too lazy to read the Taoist classics, for Tao doesn't reside in the books;
Too lazy to look over the sutras, for they go no deeper in Tao than its looks.
The essence of Tao consists in a void, clear, and cool.
But what is this void except being the whole day like a fool?
Too lazy am I to read poetry, for when I stop, the poetry will be gone;
Too lazy to play on the ch'in, for music dies on the string where it's born;
Too lazy to drink wine, for beyond the drunkard's dream there are rivers and lakes;
Too lazy to pky chess, for besides the pawns there are other stakes;
Too lazy to look at the hills and streams, for there is a painting within my heart's portals;
Too lazy to face the wind and the moon, for within me is the Isle of the Immortals;
Too lazy to attend to worldly affairs, for inside me are my hut and my possessions;
Too lazy to watch the changing of the seasons, for within me are heavenly processions.
Pine trees may decay and rocks may rot; but I shall always remain what I am.
Is it not fitting that I call this the Hall of Idleness?
 
(Lâm Ngữ Đường dịch)
 
2. Bài thơ của Chu Đỗ
 
Theo Lâm Ngữ Đường thì “mớ tọc bạc cũng có vẻ đẹp của nó”, đừng cố tranh đấu làm gì với “quang âm thấm thoát” như Chu Đỗ trong bài dưới đây: 
 
白发新添数百茎,
几番拔尽白还生;
不如不拔由他白,
那得功夫与白争.
 
(Nguồn: http://vip.book.sina.com.cn/book/chapter_40185_24672.html)
 
Bạch phát tân thiêm sổ bách hành,
Kỉ phiên bạt tận bạch hoàn sinh;
Bất tri bất bạt do tha bạch,
Ná đắt công phu dữ bạch tranh.
 
Tóc trắng lại thêm vài trăm cọng,
Mấy lần nhổ hết, nó lại mọc.
Chẳng bằng đừng nhổ, cho nó trắng,
Tranh đấu làm chi cho thêm mệt.
 
(Nguyễn Hiến Lê dịch)
 
I've gained white hairs, some hundreds, on my head,
As often as they're plucked, still more grow in their stead.
Why not stop plucking, then, and let the white alone?
Who has the time to fight against the silvery thread?
 
(Lâm Ngữ Đường dịch)
 
3. Bài từ khúc của Quản phu nhân
 
Bài này cũng không có nhan đề. Lâm Ngữ Đường cho rằng Quản phu nhân, vợ của hoạ sư[9] danh tiếng Triệu Mạnh Phủ đời Nguyên, đã dùng thí dụ nước và đất sét để tả tình vợ chồng, do vậy mà trong bản dịch ra tiếng Anh, ta thấy Lâm dùng các từ wet, water. Tuy trong nguyên tác và cả trong bản Việt dịch của cụ Nguyễn Hiến Lê, ta không thấy từ nào có nghĩa là nước hay ẩm ướt, nhưng chỉ có đất khô, có đất mà không có nước, thôi thì làm sao mà nặn thành tượng được?
 
你侬我侬,
忒煞情多,
情多处热如火。
把一块泥,
捻一个你,
塑一个我。
将咱两个,
一齐打破,
再捻一个你,
再塑一个我。
我泥中有你,
你泥中有我;
与你生同一个衾,
死同一个椁。
 
(Nguồn: http://vip.book.sina.com.cn/book/chapter_40185_24673.html)
 
Nhĩ nùng ngã nùng,
Thắc sát tình đa,
Tình đa xứ nhiệt như hoả.
Bả nhất khối nê,
Niệm nhất cá nhĩ,
Tố nhất cá ngã.
Tương gia lưỡng cá,
Nhất tề đả phá,
Tái niệm nhất cá nhĩ,
Tái tố nhất cá ngã.
Ngã nê trung hữu nhĩ,
Nhĩ nê trung hữu ngã;
Dữ nhĩ sinh đồng nhất cá khâm,
Tử đồng nhất cá quách.
 
Anh của em, em của anh,
Giữa chúng ta tình cực đậm đà,
Cho nên nhiều khi nồng như lửa.
Lấy một nắm đất sét,
Nặn thành hình anh,
Đắp thanh hình em.
Rồi đạp phá cả hai hình chúng ta, nhào chung lại,
Lại nặn thành hình anh,
Lại đắp thành hình em.
Trong chất đất của em có anh,
Trong chất đất của anh có em,
Anh với em, sống thì đắp chung mền,
Mà chết thì liệm chung quách.
 
(Nguyễn Hiến Lê dịch)
 
Twixt you and me
There's too much emotion.
That's the reason why
There's such a commotion!
Take a lump of clay,
Wet it, pat it,
And make an image of me,
And an image of you.
Then smash them, crash them,
And add a little water.
Break them and re-make them,
Into an image of you,
And an image of me.
Then in my clay, there's a litde of you.
And in your clay, there's a litde of me.
And nothing ever shall us sever;
Living, we'll sleep in the same quilt,
And dead, we'll be buried together.
 
(Lâm Ngữ Đường dịch)
 

°

° °

 
4. Bài Phóng thuyền của Đỗ Phủ
 
Một trong những phút vui của Kim Thánh Thán là: “Ngồi trong chiếc thuyền nhỏ, gặp gió tốt, khổ nỗi không có buồm để giương cho nó hả. Bỗng thấy một chiếc thuyền lớn tiến vùn vụt như gió. Thử liệng cái móc qua, hi vọng níu được. Không ngờ mà móc trúng, rồi lấy dây đỏi cột vào đuôi thuyền lớn, và ngâm hai câu của Đỗ Phủ: “Màu xanh làm ta nhớ tiếc núi, màu đỏ bảo ta rằng có cam quít” (Thanh tích phong loan, hồng tri quất dữu) rồi vui vẻ phá lên cười. Chẳng cũng khoái ư?”.
 
Hai câu thơ đó, Lâm Ngữ Đường dịch như sau: “The green makes me feel tender toward the peaks, and the red tells me there are oranges”. Các bản chữ Hán tôi tìm thấy trên mạng, kể bản trong Sinh hoạt đích nghệ thuật đăng trên website Sina, đều chép là: Thanh tích phong loan khứ, hoàng tri quất dữu lai” (câu 5 và câu 6).
 
放船
送客蒼溪縣
山寒雨不開
直愁騎馬滑
故作放舟逥
青惜峰巒過
黃知橘柚來
江流大自在
坐穩興悠哉
 
(Nguồn: http://blog.sina.com.cn/u/1393639071)
 
Phóng thuyền
 
Tống khách Thương Khê huyện,
Sơn hàn vũ bất khai.
Trực sầu kị mã hoạt,
Cố tác phóng thuyền hồi.
Thanh tích phong loan quá,
Hoàng tri quất dữu lai.
Giang lưu đại tự tại,
Tọa ổn hứng du tai.
Thuyền đi nhanh vút
 
Tiễn đưa khách, huyện Thương Khê
Núi non tuy lạnh, chẳng hề có mưa
Ngựa đi dễ trượt, phải ngừa
Nên dùng thuyền nhỏ, để đưa khách về
Xanh, qua vùng núi, tiếc ghê,
Vàng, là vùng quất, sắp về tới nơi
Đi trên sông, thật thảnh thơi
Biết bao hứng thú, ngồi nơi lòng thuyền
 
(Anh Nguyên dịch. Nguồn: Vnthuquan)
 
Thả thuyền
 
Đưa khách đến huyện Thương Khê
Núi non lạnh lẽo bốn bề mưa đâu
Đường trơn, cưỡi ngựa đang rầu
Thả con thuyền ngỏ ngõ hầu về thôi
Xanh xanh, bên núi dần trôi
Màu vàng, biết quýt đến hồi trĩu cây
Sông trôi, tự tại thế này
Trên thuyền, cảm hứng đong đầy tứ thơ
 
(Một người bạn của Lilypham dịch)
Chú thích:
[1] Tức kinh Đạo giáo.
[2] Tức kinh Phật.
[3] Nghĩa là hết thơ,
[4] Nghĩa là ngoài cảnh mộng lúc say có có cảnh thiên nhiên.
[5] Nghĩa là ngoài sự đấu trí trong cuộc cờ còn có sự chiến đấu trong đời.
[6] Ý nói: trong lòng cảnh đẹp như tranh (hoạ đồ) rồi, không cần coi cảnh thiên nhiên nữa.
[7] Nguyên văn: Thần đô là cảnh tiên. Lâm dịch là: trong lòng có đám rước trên trời (Within me there are heavenly processions).
[8] Nghĩa là: dửng dưng, không quan tâm tới.
[9] Bản tiếng Hán chép là: 画师 (hoạ sư). Có người bảo Triệu Mạnh Phủ là Thư pháp gia. (Goldfish).

Xem Tiếp: ----