Dịch giả: Nguyễn Hiến Lê
CHƯƠNG V
AI CÓ THỂ ẢNH HƯỞNG ĐỜI ĐƯỢC HƠN CẢ?

[1] Trí tri là biết cho đến nơi đến chốn; cách vật là cân nhắc sự vật để biết rõ cái nào trước cái nào sau, coi cái nào gốc cái nào ngọn, nghĩa là để hiểu cái tương quan của mọi sự vật. Đoạn này ở đầu sách Đại học. [Trong Lời nói đầu cuốn Khổng tử, cụ Nguyễn Hiến Lê viết: “(…) cuốn Đại học của Tăng Tử (một môn sinh được trực truyền), ngay trong đoạn đầu nói về việc tu thân để tề gia, trị quốc…, cũng đã có một ý tôi cho không phải là của Khổng tử mà của Tăng tử, tức “trí tri tại cách vật”, vì trong Luận ngữ ông không hề nói tới sự cách vật”. (Goldfish)].
[1] Nghĩa là họ đã tìm kiếm hết hơi rồi.
1. TA HÃY TỰ TÌM LẤY TA: TRANG TỬ
 
Trong chương này tôi rán trình bày vài quan niệm của các triết gia Trung Hoa về một lối sống kiểu mẫu. Tuy họ khác nhau về học thuyết, nhưng hết thảy đều nhận rằng muốn sống một đời sống sung sướng thì chúng ta phải minh triết và có dũng khí. Quan niệm tích cực của Mạnh Tử và quan niệm viên hoạt hiếu hoà của Lão Tử hoà hợp với nhau trong triết lí Trung Dung mà tôi muốn coi là một tôn giáo chung của dân tộc Trung Hoa. Sự xung đột giữa động (Mạnh Tử) và tĩnh (của Lão Tử) rút cục đưa tới một sự thoả hiệp này là dân tộc Trung Hoa tự lấy làm mãn nguyện trong một thế giới rất không hoàn mĩ, tức cõi trần này. Do đó mà có một triết lí sáng suốt, vui vẻ, và đời sống điển hình của triết lí đó là đời sống của Đào Uyên Minh, một thi nhân mà tôi cho là vĩ đại nhất, có tư cách điều hoà nhất của Trung Quốc.
 
Tất cả các triết gia Trung Hoa đều nhận trong thâm tâm rằng chỉ có mỗi vấn đề này là khá quan trọng: làm sao hưởng đời được và ai hưởng được đời hơn cả? Không truy cầu sự toàn thiện, không đeo đuổi những mục đích hão huyền, không tìm hiểu những cái không thể biết được; bản chất tầm thường của con người ra sao thì chịu nhận nó như vậy, rồi tự tổ chức lối sống ra sao để có thể yên ổn làm việc, nhận sự đau khổ với một tinh thần khoáng đạt và sung sướng ở đời.
 
Chúng ta là ai? Đó là vấn đề thứ nhất nhân loại đặt ra. Gần như không thể giải đáp được. Nhưng chúng ta đều nhận rằng cái “ta” đương lăng xăng về những hoạt động hàng ngày đây không phải hoàn toàn là cái “ta” chân thực. Chúng ta biết chắc rằng trong cuộc sống chúng ta đã đánh mất một cái gì đó. Khi thấy một người chạy khắp một cánh đồng tìm một vật gì, thì một người hiền minh có thể hỏi khách bàng quan câu này: Họ đánh mất cái gì vậy? Người thì đoán đánh mất một cái đồng hồ, người lại đoán đánh mất cây trâm nạm kim cương, mỗi người đưa ra một phán đoán. Người hiền minh kia cũng chẳng biết rõ sự thực ra sao, đợi cho mọi người đưa ra hết những ức đoán lầm lẫn ra rồi, mới bảo: “Tôi nói cho các bạn nghe nhé: họ đánh mất hơi thở của họ đấy!”[1]. Và ai nghe cũng phải nhận là đúng.
 
Trong cuộc sinh hoạt, chúng ta cũng thường quên cái “ta” chân thực của mình đi, cũng như con chim khách quên nỗi nguy hiểm khi đuổi bắt con bọ ngựa, mà con này cũng quên nỗi nguy hiểm khi đuổi bắt một con mồi khác trong ngụ ngôn tuyệt diệu dưới đây của Trang Tử:
 
“Trang Chu dạo chơi trong vườn Điêu Lăng, thấy một con chim khách kì dị ở phương Nam bay lại, cánh rộng bảy thước, mắt tròn một tấc, bay sát trán Trang Chu rồi đậu ở một cây giẻ.
 
Trang Chu hỏi: “Loài chim nào đây? Cánh lớn như vậy mà không bay đi chỗ khác, mắt lớn như vậy mà không thấy gì cả”.
 
Ông bèn vén áo tiến nhanh lại, cầm cây cung lắp đạn muốn bắn nó. Lúc đó ông thấy một con ve đương hưởng bóng mát mà quên nó đi (không để ý đến chung quanh). Rồi ông thấy một con bọ ngựa nhảy tới bắt con ve, mà quên chính cái thân của nó đi; con chim khách kì dị kia thừa cơ vồ lấy nó, cũng vì lợi mà quên thân nó đi.
 
Trang Chu thở dài nói: “Ôi! Vật vẫn làm hại lẫn nhau. Lo cái lợi thì thế nào cái hại cũng theo sau”.
 
Rồi ông bỏ cây cung, trở về nhà, người coi vườn chạy lại hỏi ông vào vườn y làm gì.
 
Trang Chu về nhà rồi, ba tháng không ra khỏi nhà. Lận Thư lấy làm lạ, hỏi: “Sao thầy lâu quá không ra ngoài?”.
 
Trang Chu đáp: “Ta giữ cái hình hài của ta mà quên cái chân thân; ngó dòng nước đục quá mà quên cái vực trong. Vả lại ta nghe thấy Thầy ta dạy rằng “sống trong cõi tục thì phải theo tục”. Nay ta dạo chơi ở Điêu Lăng mà quên mất thân ta; con chim khách kì dị kia bay sát trán ta để lại cây giẻ mà quên mất thân nó; người giữ vườn giẻ đó tưởng ta là kẻ trộm; vì vậy mà ta không ra khỏi nhà nữa”[2].
 
Trang Tử là môn sinh của Lão Tử cũng như Mạnh Tử là môn sinh cũng Khổng Tử, cả hai đều có khẩu tài, đều sống cách sư phụ khoảng trăm năm. Trang Tử đồng thời với Mạnh Tử cũng như Lão Tử đồng thời với Khổng Tử. Mạnh Tử đồng ý với Trang Tử ở chỗ chúng ta đánh mất một phần nhân tính, và nhiệm vụ của triết học là phải tìm kiếm thu hồi cái phần đánh mất đó, cái mà ông ta gọi là “xích tử chi tâm” – tấm lòng đứa con đỏ - Ông bảo: “Bậc đại nhân là người không đánh mất cái “xích tử chi tâm” của mình” (Đại nhân giả, bất thất kì xích tử chi tâm giả dã[3]). Ông cho rằng đời sống văn minh ảnh hưởng đến cái “xích tử chi tâm” của nhân loại cũng như búa rìu làm hại cây cối trên núi.
 
“Cây cối trên núi Ngưu Sơn xưa vẫn tươi tốt; nhưng vì ở giáp một nước lớn nên thường bị búa rìu tiều phu đốn chặt; như vậy làm sao còn tươi tốt được nữa? Nhờ ngày đêm còn chút nhựa lưu thông, lại được mưa, sương tẩm nhuần, nên mới còn đâm chồi nảy mộng. Nhưng bò dê kéo nhau đến ăn phá, vì vậy mà núi hoá trơ trọi, và người ta thấy nó trơ trọi, tưởng chừng như núi chưa từng có cây lớn. Nhưng có phải bản tính của núi như vậy đâu?
 
Cái bản tính còn lại ở con người cũng thế. Ai mà chẳng có sẵn lòng nhân nghĩa. Nhưng người đời buông mất tấm lòng lương thiện đi, cũng như búa rìu đốn chặt cây trên núi đi; ngày nào cũng đốn, thì làm sao còn tốt đẹp được nữa? Tất nhiên ngày đêm lòng lương thiện còn sanh ra được, và khí lành buổi sớm còn nuôi được, nhưng khí lành đó chẳng được bao nhiêu mà những hành vi ngày đêm lại ngăn phá nó. Ngăn phá nó hoài thì cái khí ban đêm không đủ để bảo tồn nó nữa thì con người có khác cầm thú bao nhiêu đâu? Thấy họ không khác gì cầm thú mà tưởng rằng họ chưa từng có lòng lương thiện. Nhưng có phải bản tính của con người như vậy đâu”[4].
 
2. TÌNH, TRÍ, DŨNG: MẠNH TỬ
 
Người nhiệt thành, ưu nhân, can đảm là người có thể hưởng thụ đời sống được hơn cả. Mạnh Tử cho nhân, trí, dũng là ba cái mĩ đức quan trọng nhất của bậc mà ông gọi là “đại nhân”. Tôi muốn đổi chữ “nhân” ra chữ “tình” và coi tình, trí, dũng là ba đức của một đại nhân. Anh ngữ và Pháp ngữ đều có chữ “passion” nghĩa rất gần với chữ “tình” của Trung Hoa. Cả hai chữ mới đầu đều có cái nghĩa hẹp là “tình dục”, nhưng ngày nay nó đã có nghĩa rộng hơn như trong lời này của Trương Trào: “Người đa tình tất hiếu sắc, nhưng kẻ hiếu sắc vị tất đã đa tình”, hoặc như trong câu: “Một chữ tình để duy trì thế giới, một chữ tài để tô điểm càn khôn”. Nếu chúng ta không có chữ tình thì ở đời không có việc gì để làm cả. Tình là linh hồn của đời sống, là ánh sáng của tinh tú, là nhịp điệu trong âm nhạc, thi ca, là cái tươi đẹp của hoa, là màu sắc của lông chim, là cái duyên dáng của đàn bà, và là sinh khí trong học vấn. Linh hồn thì phải có tình cũng như âm nhạc thì phải biểu tình. Nhờ có tình mà lòng ta mới ấm áp, mới có đủ sinh lực để vui vẻ đối phó với cuộc đời.
 
Nhưng có lẽ tôi đã lầm mà dùng chữ passion để dịch chữ tình của Trung Hoa; dùng chữ sentiment thì đúng hơn chăng vì chữ này có cái nghĩa êm đềm hơn, ôn nhu hơn, không gợi những tình cảm cuồng nhiệt như chữ trên. Hay là chữ tình có cái nghĩa rất gần với các nhà lãng mạn đầu tiên gọi là Sensibilité, tức cái tình của các tâm hồn nồng nàn, đại lượng và nghệ sĩ.
 
Nhưng nếu cái phương Tây gọi là passion khác với cái mà họ là sentiment, và có tính cách sôi nổi, cuồng nhiệt, thì quả người Trung Hoa không có tiếng để trỏ nó, và đành phải tạm dùng chữ “tình” vậy. Mà như vậy có phải là vì tính tình của dân tộc Trung Hoa khác các dân tộc phương Tây không, có phải là vì người Trung Hoa không có những nhiệt tình vĩ đại nó xâm đoạt tâm hồn và làm tài liệu cho những bi kịch trong văn học phương Tây không? Có phải vì vậy mà văn học Trung Hoa không sản xuất những bi kịch hiểu theo cái nghĩa Hy Lạp không, mà trong bi kịch Trung Quốc thường có những nhân vật gặp cảnh nguy kịch thì thường khóc lóc và nhường nhân tình cho kẻ thù, hoặc như Sở Bá Vương, giết chết tình nhân rồi tự vẫn luôn không? Lối kết thúc như vậy không làm vừa lòng khán giả phương Tây, nhưng đời sống Trung Hoa ra sao thì văn học họ như vậy. Con người chiến đấu với định mạng rồi bỏ cuộc, và bi kịch tiếp tục trong hồi ức, hối hận và tưởng vọng, như trường hợp vua Đường Minh Hoàng, vì quân lính nổi loạn mà phải đau xót ra lệnh cho Dương Quí Phi tự tử rồi nhớ tiếc, nằm mê thấy nàng. Trong kịch Trung Hoa, ý nghĩa bi thảm hiện ra sau khi kết thúc, và nỗi buồn kéo dài ra, mỗi lúc một thấm thía. Trong khi tị nạn, dưới trận mưa dầm, Đường Minh Hoàng nghe tiếng lục lạc của đàn bò trên đồi xa vẳng lại, mà soạn ra bản Vũ lâm linh khúc để kỉ niệm ái phi; ông nhìn thấy cái gì, cầm tới vật gì, hoặc là một nữ tì già, hoặc là một chiếc khăn còn vương lại chút dư hương, đều nhớ lại hình ảnh ái phi và bi kịch kết thúc ở cái hồi ông được các đạo sĩ giúp mà gặp lại hương hồn Dương Quí Phi trên tiên cảnh.  
 
Tình đó nếu không phải là thứ passion (nhiệt tình) thì là thứ sensibilité (đa cảm) của phái lãng mạn phương Tây. Nhưng nó chính là thứ passion mà tính cách kịch phát đã giảm đi. Vậy triết gia Trung Hoa khinh cái “tình dục” nhưng vẫn trọng cái nhiệt tình hoặc cái tình cảm và coi nó là cơ sở cho đời sống bình thường, cũng như coi tình vợ chồng là cái gốc của nhân luân.
 
Nhiệt tình hay tình cảm là vấn đề bẩm sinh; chúng ta mới sinh ra đã có người đa cảm, có người không; chúng ta không thể lựa thiên tính của ta được, cũng như không thể lựa cha mẹ được. Nhưng không có một đứa trẻ nào hoàn toàn lãnh đạm cả; lớn lên ta đánh mất lần lần cái tấm lòng hồi nhỏ mà mất nhiệt tình đi. Bản tính đa cảm bị hoàn cảnh khắc nghiệt tiêu diệt, bóp nghẹt, làm cho suy nhược đi, phần lớn là tại ta không gắng sức hoặc không biết cách bảo vệ nó. Trong khi “rút kinh nghiệm ở cuộc đời” ta tàn hại bản tính của ta, ta tập thói cứng cỏi, hư nguỵ, thường khi tàn nhẫn nữa, thành thử bộ thần kinh của những kẻ tự khoe là mỗi tuổi một thêm lõi đời, càng ngày càng nhụt đi, tê liệt đi – nhất là trong giới chính trị và thương mại. Kết quả là ta thành hạng người “tiến thủ” (go-getter) gạt tất cả các người khác ra để leo lên đỉnh danh vọng, hạng ý chí sắt đá, kiên quyết, vô tình vô nghĩa, coi tình nghĩa là một thứ lí tưởng lố bịch hoặc một thứ đa cảm bệnh hoạn. Thế giới này chật những người lòng khô khan như vậy, và họ không đáng cho tôi khinh nữa. Nếu một ngày nào đó, quốc gia cần làm tuyệt tử chủng, hạng người không thích hợp với đời sống thì phải bắt đầu từ hạng người vô tình về đạo đức, vô cảm về nghệ thuật, hạng người lòng trơ trơ như đá, tàn nhẫn để thành công, lạnh lùng khi quyết định: hạng đó đáng tuyệt tử chủng hơn bọn điên và bọn ho lao. Vì tôi nghĩ rằng nếu một người có tình cảm, có nhiệt tình, có thể làm những việc lố bịch, ngông cuồng, thì người vô tình không còn cái vẻ con người nữa. So với kĩ nữ Sapho trong truyện của Daudet, hắn chỉ như một côn trùng, một cái máy, một người máy làm dơ trái đất này thôi. Nàng Sapho đã tội lỗi. Thì đã làm sao? Nàng có tội lỗi nhưng nàng đã yêu, mà kẻ nào yêu nhiều sẽ được tha thứ nhiều. Sống giữa giới con buôn tàn nhẫn, nàng vượt lên được, lòng trẻ trung hơn biết bao kẻ triệu phú. Cho nên người ta thờ nữ thánh Marie Madeleine[5] là phải.
 
Nhưng vì đời sống tàn khốc nên một người bản tính nồng nàn, quảng đại, đa cảm dễ bị bạn bè khôn lanh lừa gạt. Họ lầm lẫn vì quá đại lượng với kẻ thù, quá tin bạn và đôi họ về nhà mới tỉnh ngộ mà làm một bài thơ chua chát. Ở Trung Hoa có nhiều thi sĩ như vậy, chẳng hạn như Trương Đại, một môn đồ của Trà đạo. Ông ta phung phí gia sản rồi bị bạn thân và họ hàng lánh bỏ, làm được mười hai bài thơ giọng cực kì chua xót. Nhưng tôi ngờ rằng ông vẫn đại lượng cho tới khi chết, cả những khi ông khốn cùng nữa vì nhiều lần ông suýt chết đói, và tôi tin chắc rằng nỗi chua xót của ông tan đi như đám mây mà ông vẫn sung sướng như trước.
 
Chính vì đời sống tàn khốc cho nên chỉ có nhiệt tình không thôi không đủ, phải có thêm trí và dũng nữa; hai đức này theo tôi chỉ là một, vì dũng do trí, do sự hiểu rõ nhân sinh mà ra, vả lại cái trí mà không đưa ta tới dũng thì cũng vô dụng.
 
Ở đời có vô số cái bả nó phỉnh gạt ta và Phật giáo ở Trung Hoa chia nó làm hai loại chính: danhlợi. Người ta kể chuyện rằng vua Càn Long khi du Giang Nam, một lần đứng trên một ngọn núi, nhìn ra biển thấy thuyền buồm qua lại rất nhiều, hỏi một vị đại thần: “Hàng trăm chiếc thuyền đó đi đâu vậy?”. Vị đại thần đáp chỉ trông thấy có hai chiếc, một chiếc tên Danh, một chiếc tên Lợi. Nhiều người có học tránh được cái bả Lợi, nhưng chỉ hạng vĩ nhân mới tránh được cái bả Danh. Một vị hoà thượng bảo đệ tử: “Tránh cái lợi dễ hơn tránh cái danh. Ngay những bậc ẩn sĩ, những bậc tu hành cũng mong được người ta biết đến mình. Họ muốn giảng kinh thuyết pháp trước đám đông, chứ không muốn ở ẩn trong một cái am nhỏ mà đàm đạo với một đệ tử như chúng mình lúc này đây”. Đệ tử đó đáp: “Bạch thầy, quả thực Thầy là bậc duy nhất tuyệt được lòng ham danh ở đời”. Và vị hoà thượng đó mỉm cười.
 
Theo sự nhận xét của tôi, đạo Phật sắp hai loại trên chưa đủ; có ba loại bả chứ không phải hai: Danh, LợiQuyền. Và một tiếng có thể gồm cả ba, tiếng Thành công. Nhiều người đã có đủ Danh và Lợi rồi còn muốn thống trị người khác nữa. Có những kẻ muốn kiệt lực “phục vụ tổ quốc”, và phải trả một cái giá rất đắt. Bảo một bậc trí giả giơ cái mũ vẫy vẫy đám đông và đọc bảy bài diễn văn một ngày rồi sẽ được bầu làm Tổng Thống, thì bậc trí giả lắc đầu xin chịu. James Bryce cho rằng chế độ dân chủ ở Mĩ làm cho những người ưu tú nhất muốn vào chính giới để phục vụ tổ quốc. Tôi thì tôi nghĩ rằng cái lối cạnh tranh gay gắt trong cuộc bầu cử Tổng Thống ở Mĩ cũng đủ cho bậc trí giả đâm hoảng. Một người tòng chính mỗi tuần thường phải dự sáu bữa tiệc, có vậy mới là phục vụ và hi sinh cho nhân quần. Sao họ không phục vụ và hi sinh cho họ, ăn bữa cơm xoàng ở nhà, bận bộ đồ bà ba[6] rồi leo lên giường ngủ? Khi đã bị mê hoặc vì Danh và Quyền rồi thì người ta còn phải nô lệ nhiều cái bả khác nữa. Không khi nào ngừng được.
 
Nhưng còn một bả tuy phụ thuộc nhưng cũng rất mạnh, rất phổ biến, tức cái thời thượng, cái “mốt”. Rất ít người có đủ can đảm sống theo ý mình lắm. Démocrite nghĩ rằng giải thoát cho nhân loại được hai nỗi sợ: sợ Thượng Đế và sợ chết, là cống hiến cho nhân loại được nhiều rồi. Nhưng như vậy chúng ta vẫn còn một nỗi sợ nữa, sợ ông hàng xóm. Dù hữu ý hay vô tình, chúng ta cũng đóng vai diễn trên sân khấu là cuộc đời, và muốn đóng trò sao cho vừa ý khán giả để được khán giả vỗ tay. Nhưng vỗ tay càng lớn thì ở hậu trường, tim ta đập càng mạnh.
 
Tài đóng trò đó có thể giúp ta mưu sinh, cho nên chẳng ai là đáng trách vì đã đóng trò theo mốt mà người đời công nhận. Nhưng có điều này là thường khi vai trò thay thế hẳn con người, chiếm hẳn con người. Chỉ có vài tâm hồn siêu quần ở địa vị cao, mang cái danh lớn mà vẫn mỉm cười, tự nhiên. Họ biết rằng họ đóng trò, họ không bị cái ảo tưởng quyền thế, chức tước, tư sản, tiền tài mê hoặc; những cái đó tới thì họ cũng nhận nhưng không cho mình là vì có nó mà khác những những người thường[7]. Chính những bậc tinh thần vĩ đại đó mới sống giản dị trong đời tư. Không có gì biểu thị cái trí óc hẹp hòi, nhỏ mọn bằng thái độ một anh chàng cạo giấy tự cho mình là tôn quí, hoặc một chú trọc phú mới phát mà khoe châu bảo, hoặc một văn sĩ còn ấu trĩ tưởng mình đã vào hàng bất tử mà đâm ra kiểu cách, không tự nhiên, giản dị nữa.
 
Bản năng đóng trò của ta thăm căn cố đế đến nỗi chúng ta thường quên rằng còn có một đời sống thực để sống ngoài cái đời trên sân khấu. Vì vậy chúng ta cặm cụi, hổn hển làm việc, không phải sống cho chúng ta, hợp với bản năng của ta mà để được xã hội tán thành; chúng ta y như những “cô gái già may áo cưới cho người” trong câu tục ngữ Trung Hoa (Vị tha nhân tác giá y thường[8]).
 
3. NGẠO ĐỜI, TỰA NHƯ NGU ĐỘN VÀ ẨN DẬT: LÃO TỬ
 
Thực là ngược đời, cái triết học “giảo hoạt” của Lão Tử lại sản sinh ra cái lí tưởng cao thượng nhất về hoà bình, khoan dung, giản phác và tri túc. Giáo huấn của ông gồm bốn điểm: trí tuệ nên như ngu độn, đời sống nên ẩn dật, xử thế nên nhu nhược và tính tình nên giản phác. Ngay đến nghệ thuật Trung Hoa, từ thi ý, ảo tưởng đến những lời tán tụng đời sống bình dị của tiều phu, ngư phủ, cũng không thể thoát li triết học đó mà tồn tại. Nguồn gốc chủ nghĩa hoà bình của Trung Hoa là do cái quan niệm chịu nhận sự thất bại tạm thời để đợi thời cơ thuận tiện, và do lòng tin rằng vạn vật trong vũ trụ đều tuân cái luật vận hành phản phục; do đó không một kẻ nào vĩnh viễn chiếm được ưu thế, mà cũng không có kẻ nào vĩnh viễn “u mê” bao giờ.
 
----Người rất khéo thì như vụng,
----Người nói giỏi thì như lắp bắp,
----Cử động thì thắng được lạnh;
----Nhưng yên tĩnh thì thắng được nóng.
 
Vậy cứ thanh tĩnh thì mọi việc sẽ đâu vào đấy.
 
Biết như vậy rồi thì còn cạnh tranh làm gì nữa. Cho nên Lão Tử bảo bậc thánh nhân “không tranh với ai nên không ai tranh được với mình”, lại bảo: “Kẻ hùng hổ nào mà không bất đắc kì tử, thì ta xin nhận kẻ đó làm thầy”. Một nhà văn ngày nay có thể thêm vào câu đó: “Kẻ độc tài nào mà không dùng mật thám để hộ vệ thì tôi xin tôn làm thủ lãnh”. Cho nên Lão Tử nói: “Thiên hạ có đạo thì người ta dùng ngựa để kéo và lấy phân; thiên hạ vô đạo thì người ta nuôi ngựa chiến ở ngoài thành”.
 
----Người đánh xe giỏi không xông bừa tới trước[9],
----Người chiến đấu giỏi không giận dữ.
----Kẻ khéo thắng dịch là không tranh với địch,
----Khéo dùng người là hạ mình ở dưới người.
----Đó là cái đức của sự không tranh,
----Đó là cái khéo của sự dùng người.
----Đó là hợp với chỗ cùng cực của Đạo trời.
 
Có cái qui luật động lực và phản động lực rồi, mới sản sinh ra cái cục thế bạo lực với bạo lực.
 
----Ai lấy Đạo mà phò vua,
----Thì không dùng binh mà bức thiên hạ,
----Vì việc như vậy thường hay trở về (nghĩa là dùng binh bức thiên hạ thì lại bị thiên hạ dùng binh bức lại mình)[10].
----Chỗ nào đóng quân thì gai góc mọc đầy,
----Sau cuộc chinh chiến tất mất mùa.
----Vậy khéo thắng rồi (khéo đạt mục đích cứu dân) thì thôi đi, mà không lợi dụng thắng lợi để bức người[11].
----Thắng mà không khoe khoang,
----Thắng mà không tự khen,
----Thắng mà không kiêu căng,
----Thắng vì bất đắc dĩ.
----Thắng mà không bức người,
----Vì vật mạnh thì có lúc suy,
----(Nếu không) như vậy (thì) là trái Đạo.
----Trái Đạo thì sớm bị tiêu diệt.
 
Tôi có cảm tưởng rằng nếu Lão Tử được làm chủ tịch hội nghị Verseilles[12] thì ngày nay không có Hitler[13]. Hitler tuyên bố rằng ông và sự nghiệp chính trị của ông tất được “Chúa phù hộ” (nên ông mới thành công mau như vậy). Tôi cho rằng việc đó giản dị hơn nhiều: chẳng có Chúa nào phù hộ cả, chỉ có Clémenceau phù hộ thôi[14]. Chủ nghĩa hoà bình của Trung Hoa không phải là chủ nghĩa nhân đạo mà là chủ nghĩa “giảo hoạt”, cơ sở không phải là bác ái mà là một thứ minh triết vi diệu, cận nhân tình.
 
----Sắp muốn rút lại, tất phải mở ra đã;
----Sắp muốn làm yếu đi, tất phải làm mạnh lên đã;
----Sắp muốn vứt bỏ đi, tất phải làm dấy lên đã;
----Sắp muốn cướp lấy, tất phải cho đã;
----Thế gọi là làm mờ ánh sáng đi[15].
----Nhu nhược thắng cương cường.
----Cá không nên ra khỏi vực;
----Lợi khí của quốc gia, không nên cho dân biết.
 
Thuyết về sức mạnh của nhu nhược, về lẽ hiếu hoà sẽ thắng, và lẽ ẩn dật bao giờ cũng có lợi, thì tôi chưa thấy ai có giọng mạnh mẽ, sâu sắc bằng Lão Tử trong đoạn đó. Ông cho nước tượng trưng sức mạnh của nhu nhược – nó cứ nhè nhẹ nhỏ từng giọt xuống mà đục được đá, nó có cái “trí” vĩ đại của Lão Tử là luôn luôn tìm chỗ thấp mà ở:
 
----Sông biển sở dĩ làm vua trăm hang
----Vì nó khéo ở chỗ thắp hơn cả;
----Nhờ vậy nó làm vua được trăm hang.
 
(Giang hải sở dĩ năng vi bách cốc vương giả, dĩ kì thiên hạ chi, cố năng vi bách cốc vương).
 
Chữ “cốc” (hang) trong học thuyết Lão Tử còn trỏ cái gì rỗng, tượng trưng cái tử cung của mẹ vạn vật, tức tượng trưng khí âm hoặc giống cái:
 
----Thần hang bất tử
----Cho nên gọi là Huyền Tẫn[16].
----Cửa của Huyền Tẫn
----Là gốc của Trời, Đất.
----Dằng dặc như còn hoài,
----Dùng hoài mà không hết.
 
Lấy giống cái đại biểu cho văn hóa phương Đông và giống đực đại biểu cho văn hóa phương Tây có lẽ không phải là khiên cưỡng.
 
Jules César muốn được làm người thứ nhất trong làng, Lão Tử trái lại, “không dám ở trước thiên hạ” (bất cảm vi thiên hạ tiên). Trang Tử cho rằng nổi danh là một điều nguy hiểm, và diễn ý đó trong đoạn văn phúng thích dưới đây để chê Khổng Tử là hay khoe tri thức cùng hành vi của mình. Trong bộ Trang Tử có nhiều chỗ bịa đặt ra để bài xích Khổng Tử vì lúc đó Khổng Tử đã mất rồi mà ở Trung Quốc thời xưa cũng không có luật pháp trị tội huỷ hoại danh dự của người khác.
 
“Khổng Tử bị vây ở giữa nước Trần và nước Sái[17], bảy ngày không có cơm ăn[18].
 
Quan đại công tên là Nhiệm lại chia buồn, hỏi:
 
- Ông đã suýt chết?
 
Khổng Tử đáp:
 
- Phải.
 
- Ông sợ chết không?
 
- Sợ.
 
Nhiệm bảo:
 
- Vậy tôi xin giảng cái đạo bất tử. “Ở Đông Hải có loài chim tên là Ý Đãi. Loài đó chậm chạp, từ tốn nhưng vụng về; bay cùng đoàn với nhau, con trước con sau, chen lấn nhau mà đậu. Khi tiến không con nào tranh bay trước, khi lui không con nào ở lại sau; khi ăn không con nào dám ăn trước, đợi những đồ thừa. Cho nên loài đó được sống yên ổn ở trong hàng, người ngoài không hại được nó, mà nó tránh được hoạ.
 
Cây thẳng thì bị đốn trước. Giếng nước ngọt thì bị cạn trước. Ông có ý trang điểm tri thức để làm cho bọn ngu phải sợ, sửa cái thân để làm rõ kẻ xấu xa. Ông rực rỡ như giơ cao mặt trời mặt trăng mà đi, cho nên không tránh được hoạ…”.
 
Khổng Tử đáp:
 
“Lời ông dạy thật hay!”. Rồi từ chối sự giao du, bỏ cả đệ tử, trốn trong một cái chằm lớn (chỗ hoang vu), làm lấy áo cừu áo cát mà bận, hái hột cây thữ, cây lật mà ăn, nhập bầy với đàn thú, đàn chim mà thú chim không để ý tới”.
 
Tôi đã làm một bài thơ tóm tắt tư tưởng Đạo gia như sau:
 
----Có cái sáng suốt của sự ngu muội.
----Có cái thanh nhã của sự hoà hoãn.
----Có cái cơ xảo của sự trì độn.
----Có cái hữu ích của sự ẩn cư.
 
Mấy câu đó chắc làm cho những độc giả theo đạo Ki Tô nhớ lại lời “Thuyết giáo trên núi”. Và chắc họ cũng cho rằng đều vô hiệu lực như nhau. Lão Tử còn bảo kẻ ngu được phúc vì họ là những kẻ sung sướng nhất đời. Trang tử theo cái thuyết “Người rất khéo thì như vụng, người nói giỏi thì như lắp bắp” và khuyên ta phải “liệng bỏ cái trí” (khí trí). Thế kỉ thứ tám, Liễu Tôn Nguyên đặt tên cho một ngọn núi gần chỗ ông ở là “Núi Ngu” (Ngu Sơn) và dòng suối nơi đó là “Suối Ngu” (Ngu Khê). Thế kỉ mười tám, Trịnh Bản Kiều có một câu danh ngôn: “Thông minh khó, hồ đồ khó, do thông minh mà đạt được hồ đồ lại càng khó”. Trong văn học Trung Hoa có nhiều câu tán tụng sự ngu độn như câu đó. Người Mĩ có câu: “Đừng nên tinh ranh quá” (Don’t be too smart), cũng là cái nghĩa: người đại trí thường có vẻ như ngu.
 
Vì vậy mà trong văn hóa Trung Hoa ta thấy hiện tượng lạ lùng này là bậc đại trí phát sinh lòng hoài nghi đối với mình cho rằng vũ khí tốt nhất trong cuộc tranh đấu trên đời là tôn sùng sự ngu độn và sự ẩn dật. Từ cái thuyết “khí trí” của Trang Tử đến sự tôn sùng kẻ ngu chỉ có một bước ngắn, và trong văn chương cùng hội hoạ của Trung Hoa ta thấy hình ảnh của nhiều người hành khất, nhiều nhà ẩn dật bất hủ, nhiều nhà sư điên, hoặc những đạo sĩ kì dị, như trong tập “Minh Liêu tử du”; đó toàn là phản ảnh quan niệm tôn sùng kẻ ngu độn cả. Khi một nhà sư điên lam lũ được coi là tượng trưng cho cái trí tuệ rất cao, cái tư cách rất quí, thì trong cái bến mê là cõi đời này, ta bỗng tỉnh ngộ; trong sự tỉnh ngộ đó có cái ý vị lãng mạn hoặc tôn giáo nó đưa ta vào cảnh giới ảo tưởng của thơ.
 
Kẻ ngu được hoan nghênh, đó là một sự thực không chối cãi được. Tôi tin rằng ở phương Đông cũng như phương Tây, người ta ghét những kẻ tinh ranh quá trong sự giao thiệp. Viên Trung Lang đã kể lí do tại sao mấy anh em ông đều thích giữ bốn tên gia bộc cực ngu nhưng trung tín. Chúng ta cứ nhớ lại tên bạn bè của mình rồi kiểm soát xem có phải những bạn ta mến không phải là những người ta trọng vì tài khôn lanh, và những bạn ta trọng vì tài khôn lanh không phải là những người mà ta mến. Chúng ta thích một tên gia bộc ngu độn vì hắn đáng tin hơn, đối với hắn ta không cần phải đề phòng. Nhiều người đàn ông khôn không muốn cưới người vợ tinh lanh quá mà nhiều thiếu nữ khôn cũng vậy, không muốn có người chồng tinh lanh quá.
 
Trong lịch sử Trung Hoa có nhiều người điên, hoặc điên thật hoặc giả điên mà được nổi danh, được người ta kính yêu. Như hoạ sĩ Mễ Phí, có lần bận lễ phục tới lạy một phiến đá, gọi phiến đá đó là “ông Nhạc”, vì vậy mà có danh hiệu là ông Mễ Điên. Ông ta với Nghê Vân Lâm[19], một họa sĩ danh tiếng đời Nguyên đều mê sự sạch sẽ. Lại như thi sĩ điên nổi danh, hòa thượng Hàn Sơn, đầu bù, chân không, đi lại các ngôi chùa, làm mọi việc lặt vặt trong cái nhà khói (nhà bếp của chùa), xin cơm thừa canh cặn mà ăn và làm được những bài thơ bất hủ viết lên tường các nhà khói. Vị hòa thượng điên được người Trung Hoa ái mộ nhất là hòa thượng Tế Điên[20], cũng gọi là Tế Công (ông Tế); đời ông sau được người ta chép thành một chuyện dài gấp ba bộ Don Quichotte mà vẫn chưa hết. Ông sống một đời ma thuật, làm thuốc, say rượu, và như có thần lực, có thể cùng một lúc xuất hiện ở hai nơi cách nhau cả trăm dặm. Miếu thờ ông hiện nay ở Hổ Bào, trên bờ Tây Tử Hồ ở Hàng Châu. Những thiên tài lãng mạn, vĩ đại, thế kỷ mười sáu và mười bảy, như Từ Văn Trường, Lý Trác Ngô, Kim Thánh Thán (ông này tự đặt tên hiệu là Thánh Thán[21] là vì, theo ông, đúng lúc ông sanh ra đời, ở miếu thờ Khổng Tử trong làng bỗng phát ra một tiếng thở dài bí mật). Tuy các vị đó cũng là những người bình thường như chúng ta nhưng bề ngoài có những cử chỉ trái hẳn thói thường, cho nên người đời gọi là cuồng.
 
4. TRIẾT HỌC TRUNG DUNG: TỬ TƯ
 
Tôi biết rằng một triết lí chủ trương vô ưu nhất định làm cho ta muốn tránh một đời sống quá phiền phức, tránh những trách nhiệm quá lớn lao và do đó làm giảm cái lòng ham hoạt động của ta đi. Nhưng mặt khác, tôi cũng nghĩ rằng con người ở thời đại này cần cái luồng gió mát mẻ của một triết lí ngạo nghễ, bỡn đời, nó chỉ có lợi cho chúng ta, chứ không có hại. Cái huyền thoại tấn bộ gây ra biết bao hoạt động phù phiếm, vô ích; mà trong bản chất chúng ta lại có quá nhiều xung đột sinh lí nó đẩy ta tới sự hoạt động thành thử dù có đề cao chủ nghĩa bỡn đời thì nó cũng không có thể lưu hành trong đại chúng được đâu, ta đừng lo điều đó. Ngay ở Trung Hoa, triết học của Đạo giáo hợp với bản năng con người như vậy, lại phát triển trong mấy ngàn năm rồi, mà đa số người Trung Hoa vẫn sống vui vẻ, vẫn ham danh, ham quyền, vẫn quyết tâm phụng sự Tổ quốc. Phải có vậy, đời sống mới duy trì được. Không, người Trung Hoa chỉ khi nào thất bại rồi mới có cái tinh thần bỡn đời, có tâm hồn thi sĩ; còn phần đông họ vẫn là những diễn viên rất đắc lực. Ảnh hưởng của đạo Lão chỉ để giảm cái mức khẩn trương trong đời sống thôi, và trong những thời gặp thiên tai, nhân hoạ, nó giúp cho ta tin tưởng rằng luật phản phục, luật tác động và phản động, rút cục sẽ đem lại sự công bằng cho mọi người.
 
Trong tư tưởng của Trung Hoa có một triết học tương phản với triết học vô ưu, triết học tự nhiên, phóng lãng đó. Đối lập với triết học của phái tự nhiên, có triết học của phái xã hội[22]; đối lập với Đạo giáo, có Khổng giáo. Nếu cho rằng Đạo giáo và Khổng giáo chỉ là hai quan niệm – một tiêu cực, một tích cực – về nhân sinh quan thì theo tôi, không phải chỉ dân tộc Trung Hoa là có hai triết học đó, vì bản tính của nhân loại đều có sẵn hai khuynh hướng đó. Chúng ta mới sinh ra đều có một phần hướng theo Đạo giáo, một phần hướng theo Khổng giáo.
 
Theo Đạo giáo thì kết luận hợp lí là phải vô núi ở ẩn, bắt chước lối sống vô ưu của tiều phu hay ngư phủ, mà làm chúa trong rừng xanh nước biếc, tâm hồn hoàn toàn an tĩnh. Nhưng triết học lánh đời đó không được phong phú.
 
Còn có một triết học phong phú hơn, triết học nhàn tĩnh, và con người lí tưởng của Trung Hoa là người không trốn đời, trốn xã hội mà vẫn giữ được bản tính, thiên chân của mình. Kẻ nào còn phải lánh nơi thành thị mà vào núi ở một mình, thì kẻ đó là một ẩn sĩ tầm thường. Bậc “đại ẩn sĩ” là ẩn sĩ ở giữa đô thị. Vì tự làm chủ được mình rồi, không sợ bị hoàn cảnh chi phối nữa. Cho nên nhà sư nào trở về xã hội, ăn thịt, uống rượu, giao thiệp với đàn bà mà linh hồn vẫn trong sạch thì mới thật là vị “Cao tăng”. Vậy có thể dung hoà được hai triết học trên. Sự tương phản của Khổng giáo và Đạo giáo chỉ là tương đối, vì cả hai đều là cực đoan, và ở giữa có giai đoạn trung gian.
 
Cái lối sống điển hình cao nhất là lối sống trung dung mà Tử Tư, cháu nội Khổng Tử đã dạy cho ta. Chưa có một triết học nào tìm được một chân lí thâm thuý như học thuyết Trung Dung, một học thuyết chỉ cho ta sống một cách điều hoà giữa hai cực đoan. Cái đạo lí nhẹ nhàng đó đạt tới một sự quân bình giữa động và tĩnh, tạo nên lí tưởng của một hạng người không khinh danh mà cũng trọng sự ẩn dật, hoạt động một cách vừa phải mà làm biếng cũng vừa phải, không nghèo đến nỗi không trả nổi tiền mướn phố, không giàu đến nỗi có thể ở không mà ăn hoặc có thể luôn luôn giúp bạn bè một cách vừa ý được, chơi đàn nhưng chỉ đủ để tiêu khiển hoặc để cho người thân nghe, chơi đồ cổ nhưng chỉ thu thập ít món đủ để trang hoàng trên một cái tủ, đọc sách nhưng không đọc quá nhiều, nghiên cứu nhưng không thành một chuyên gia, viết văn nhưng cứ hai bài thì nhà báo gởi trả lại một; tóm lại là lí tưởng của một lối sống trung bình, một lối sống kiện toàn nhất mà người Trung Hoa tìm ra được. Lí tưởng đó được Lí Mật Am tả rất khéo trong bài “Bán bán ca” (Bài ca Một nửa, một nửa) dưới đây:
 
----Tôi đã thấy già nửa kiếp phù sinh này rồi.
----Chữ “nửa đó có công dụng vô biên.
----Có hưởng nửa tuổi trời rồi mới cảm được hết cái vui nhàn nhã,
----Trong một thế giới rộng rãi triển khai giữa trời và đất.
----Sống ở nơi nửa thành thị nửa thôn quê,
----Có vườn tược ở nửa đường lên núi, nửa đường xuống sông.
----Nửa đọc sách, nửa làm ruộng, nửa buôn bán,
----Nửa là kẻ sĩ, nửa là bà con với bình dân.
----Có những đồ dùng nửa nhã nửa thô;
----Có ngôi nhà nửa đẹp nửa xấu;
----Quần áo nửa mới nửa cũ,
----Thức ăn nửa phong nửa kiệm,
----Người ở nửa khéo nửa vụng,
----Vợ nửa chất phác nửa khôn lanh.
----Tâm tình tôi nửa Phật nửa Thần tiên,
----Tên tuổi nửa vinh hiển nửa tối tăm.
----Một nửa nghĩ tới Trời,
----Còn một nửa lo việc nhân gian,
----Nửa tính việc để ruộng, lẫm lại cho đời sau,
----Nửa nghĩ tới lúc thình lình chầu Diêm Vương.
----Uống rượu nửa say mới thú,
----Ngắm hoa thì bán khai mới đẹp.
----Thuyền giương nửa buồm mới khỏi lật,
----Ngựa ghì nửa cương mới yên ổn.
----Có không đầy một nửa thì mới có thêm,
----Có quá một nửa thì hoá chán và lo lắng.
----Cuộc đời trăm năm nửa vui nửa khổ,
----Thì hưởng một nửa là thích đáng hơn cả.
 
Đem cái triết học lánh đời của Đạo giáo dung hoà với cái triết học tích cực của Khổng giáo thì thành một triết học trung dung. Con người đã sinh ở giữa khoảng trần thế chân thực và thiên đường hư ảo, thì theo tôi, lối sống đó vẫn là hơn cả vì cận nhân tình hơn cả, mặc dầu người phương Tây có thể cho là bất mãn vì họ có một quan niệm rất tấn bộ. Chúng ta nhận rằng loài người cần có một số siêu nhân như các nhà thám hiểm, chinh phục, phát minh, các vị đại tổng thống, đại anh hùng để thay đổi tiến trình của lịch sử; nhưng chúng ta cũng phải nhận rằng người sung sướng nhất là người được chút ít độc lập về kinh tế và làm được chút gì, một chút gì thôi, cho nhân loại, được xã hội biết tên tuổi một chút thôi, đừng nhiều quá. Chúng ta đã phải sống trên cõi trần thì cũng nên kéo triết học từ chín tầng mây xuống mặt đất này mới được.
 
5. MỘT NGƯỜI YÊU ĐỜI: ĐÀO UYÊN MINH
 
Như ta đã thấy, sự dung hoà hai quan niệm tiêu cực và tích cực về nhân sinh tạo được một triết học điều hoà, triết học Trung dung. Quí hơn nữa là nó còn tạo được một nhân cách điều hoà, mục đích của mọi nền văn hóa và giáo dục. Và chúng ta nên chú ý rằng một cá tính điều hoà thì yêu đời, coi đời là một cảnh hoan lạc.
 
Tôi thấy khó tả được tính chất của lòng yêu đời đó, vậy xin mượn một ví dụ, xin kể đời sống của một người thực là yêu đời. Và tôi nghĩ ngay tới Đào Uyên Minh[23] mà ai cũng nhận là một thi hào bực nhất và nhân vật hoàn mĩ, điều hoà nhất trong truyền thống văn học Trung Hoa.
 
Không hề làm một vị quan lớn, không có quyền uy, không có sự nghiệp nào cả trừ một tập thơ mỏng và vài ba thiên tản văn, mà ông chiếu sáng cổ kim như một ngọn đuốc lớn, và được các văn nhân thi sĩ coi là tiêu biểu cho một nhân cách cao quí nhất. Trong đời sống và trong phong độ của ông có một sự giản phác làm cho ta phải kính phục, rồi tự xét mình mà thấy thẹn.
 
Ngày nay người ta coi ông là một kiểu mẫu yêu đời hoàn toàn vì tuy ông phản kháng những dục vọng trần tục nhưng vẫn không lánh đời mà lại khiến cho thất tình điều hoà được. Gần hai thế kỉ, chủ nghĩa lãng mạn trong văn học và triết học nhàn tản của Đạo giáo phối hợp với triết học tích cực của Khổng giáo mới sản sinh được một nhân cách như vậy. Trong con người ông, ta thấy triết học tích cực mất tính cách tự mãn tự đại, triết học lánh đời mất tính cách chống đối chua chát, và lần đầu tiên, sự minh triết của loài người đạt tới mức thành thục hoàn toàn trong một tinh thần trào lộng mà khoan hoà.
 
Theo tôi, ông đại biểu cho cái đặc chất kì dị của văn hóa Trung Hoa, tức một tinh thần vừa trọng tình dục vừa ngạo nghễ, vừa trọng linh tính mà không khổ hạnh, trọng vật chất mà không say đắm nhục dục, điều hoà được thất tình và tâm linh. Vì triết gia lí tưởng là người biết ngắm cái đẹp của phụ nữ mà không thô tục, yêu đời nhưng không quá độ, coi sự thành công và thất bại chỉ là hư ảo, có thể thoát li được nhân sinh mà không cừu thị nó. Vì ông đã đạt được sự điều hoà tâm linh đó nên không có một chút gì xung đột nội tâm, và đời sống của ông tự nhiên như thơ của ông vậy.
 
Ông sinh vào khoảng cuối thế kỉ thứ tư, cháu bốn đời một học giả danh tiếng[24]. Ông cố ông thường mỗi sáng khiêng một đóng gạch lại một nơi khác rồi chiều lại khiêng trở về chỗ cũ, để vận động cơ thể cho khỏi làm biếng. Hồi trẻ, nhà thì nghèo, cha mẹ thì già, ông làm một chức quan nhỏ ở châu quận, được ít lâu từ quan về cày ruộng, vất vả mà mang bệnh. Một hôm ông nói với thân thuộc bạn bè: “Nếu bây giờ tôi đi đàn ca dạo để có tiền sửa sang vườn tược thì có nên không?”. Một người bạn nghe được lời đó, tiến cử ông làm chức tri huyện Bành Trạch. Ông vì thích uống rượu, nên ra lệnh rằng ruộng trong huyện phải trồng lúa nếp hết, nhưng vợ ông thấy như vậy quá đáng, xin ông, ông mới bằng lòng cho một phần sáu số ruộng được trồng những giống lúa khác. Sau, nhân trên quận sai một viên đốc bưu[25] đến huyện, nha lại trình với ông nên đeo đai ra đón, ông than: “Ta có thể nào vì năm đấu gạo (tức số lương) mà phải khom lưng như vậy”, rồi trả áo mão cho triều đình, viết bài phú danh tiếng “Qui khứ lai từ”. Từ đó ông sống đời nông phu, mấy lần người ta vời ra làm quan, ông đều cự tuyệt. Nhà ông vốn nghèo nên ông sống với dân nghèo; trong một bức thư gởi cho con, ông có lần ân hận rằng để con lam lũ, làm những công việc chân lấm tay bùn. Có lần ông cho mỗi đứa nhỏ con một nông phu lại giúp những việc lặt vặt như gánh nước kiếm củi cho con ông, ông dặn con ông “nên đối đãi với nó cho tử tế vì nó cũng là con cái của người ta”.
 
Ông chỉ có mỗi nhược điểm là ham uống rượu. Bình thường sống đời cô độc, rất ít giao du, nhưng nơi nào có bày rượu thì dù chẳng quen thuộc chủ nhân, ông cũng ngồi vào tiệc. Có lúc ông làm chủ nhân đãi khách, khi đã bắt đầu say, ông tạ khách: “Tôi say, buồn ngủ rôi, xin mời ông về”. Ông có một cây đàn cầm đứt hết dây. Thứ nhạc khí thời cổ đó, chỉ khi nào tâm tình thật bình tĩnh khoan thai, nắn nhẹ vài tiếng thì mới hợp. Trong tiệc rượu hoặc lúc nào cao hứng, ông ôm cây đàn không dây đó mà vỗ vỗ, vuốt ve, và nói: “Hiểu thú chơi đàn thì cần gì phải khó nhọc gẩy lên thành tiếng?”.
 
Ông khiêm tốn, giản phác, độc lập, rất thận trọng trong sự kén bạn. Khi Vương Hoằng làm chức phán quan[26], ngưỡng mộ ông lắm, muốn kết giao với ông, nhưng không biết làm cách nào được. Ông thường nói một cách rất tự nhiên: “Tính tôi không thiệp thế, vì đau nên không đi đâu, chứ không phải làm cao để cầu danh đâu”. Vương Hoằng phải lập mưu với một người bạn để được gặp ông; người bạn đó mời ông đi uống rượu, đi được nửa đường thì ngừng lại, vào nghỉ một ngôi nhà mát, bày rượu ta uống. Đào Uyên Minh vui vẻ ngồi uống; Vương Hoằng đã núp sẵn ở gần đó nên tiến ra chào ông. Ông cao hứng, chén thù chén tạc tới hết ngày, quên hẳn cái việc lại chơi nhà bạn. Vương Hoằng thấy ông không có dép đi, kêu kẻ tả hữu làm cho ông một đôi; bọn này muốn biết dép dài ngắn to nhỏ cỡ nào, ông duỗi ngay chân cho họ đo. Từ đó Vương Hoằng mỗi lần muốn gặp ông thì phải đón ở bên bờ rừng hay bờ chằm, đợi ông đi qua. Một hôm bạn bè nấu rượu, ông lột ngay chiếc khăn trên đầu ra để lọc rượu, lọc xong lại quấn lên đầu.
 
Hồi ông ở chân núi Lư Sơn, tại núi có một nhóm nhà tu hành nổi danh trong phái Thiền tôn, lập một phái gọi là Bạch Liên Xã, mà người chủ trì là một vị học giả[27]. Vị này muốn ông vô Bạch Liên Xã, một hôm mời ông lại dự tiệc; ông đưa điều kiện là trong tiệc phải có rượu. Điều kiện đó trái với giới điều của đạo Phật, chủ nhân nể ông đành phạm giới. Nhưng đến lúc ngỏ ý mời ông vô Xã thì ông “cau mày mà bỏ ra về”; trong khi đó một đại thi nhân là Tạ Linh Vận vận động đủ cách để được vô Xã mà vẫn bị từ chối. Nhưng vị chủ trì Bạch Liên Xã vẫn không giận ông, lần khác mời ông lại uống rượu với một đạo nhân, bạn thân của mình. Thế là đủ tam giáo. Đào Uyên Minh đại biểu Nho giáo, vị thiền sư có lời thề rằng không khi nào đi qua một chiếc cầu nọ nữa, nhưng một lần ông tiễn Đào Uyên Minh và đạo nhân, qua cầu lúc nào không hay. Khi hay rồi thì cả ba phá lên cười. Câu chuyện đó về sau làm đề tài cho nhiều hoạ sĩ. Vì nó tượng trương cho cái vui vẻ, cái hạnh phúc của ba vị trí giả vô tư vô lự, mà cũng tượng trưng cho sự hoà hợp của tam giáo nhờ tinh thần hài hước.
 
Đời ông như vậy, vô tư, tự do, khiêm tốn, giản phác, là nông phu mà là thi sĩ, minh triết mà vui vẻ. Trong tập thơ nhỏ của ông tả thú uống rượu và thú điền viên, trong ba bốn thiên tản văn ngẫu hứng mà viết, trong một bức thư gởi cho các con, trong ba bốn bài văn tế (một bài ông tự tế mình) và một lời di chúc cho con cháu, chúng ta thấy ông có thiên tài cảm được và tả được một lối sống điều hoà, thiên tài đó tới cái mức hoàn toàn tự nhiên, bình dị mà từ xưa tới nay chưa ai đạt được. Bài phú “Qui khứ lai từ” dưới đây, viết vào tháng 11 năm 405, khi ông quyết định từ chức tri huyện, biểu hiện được tình cảm và thiên tài của ông.
 
-------------QUI KHỨ LAI TỪ
 
----Đi về sao chẳng về đi?
----Ruộng hoang vườn rậm, còn chi không về?
----Đem tâm để hình kia sai khiến,
----Còn ngậm ngùi than vãn với ai?
----Ăn năn thì sự đã rồi,
----Từ đây còn lại, biết thôi mới là.
----Lối đi lạc chưa xa là mấy,
----Nay khôn rồi chẳng dại như xưa,
----Con thuyền thuận nẻo gió đưa,
----Gió hây hẩy áo, thuyền lơ lửng chèo.
----Hỏi hành khách lối nào đi tới,
----Bóng mập mờ trời mới rạng đông;
----Miền quê nẻo bước[28] xa trông,
----Chân hăm hở bước, đường mong tới nhà.
----Chạy đón chủ năm ba đầy tớ,
----Đứng chờ ông mấy đứa trẻ con;
----Rậm rì bao xóm con con,
----Mấy cây tùng cúc hãy còn như xưa.
----Tay dắt trẻ vào nhà mừng rỡ,
----Rượu đâu đà sẵn chứa đầy vò;
----Thoạt ngồi tay đã nghiêng hồ,
----Cười nom sân trước thấp tho mấy cành.
----Ngồi giễu cợt một mình trước sổ,
----Khéo cũng hay vừa chỗ rung đùi.
----Thăm vườn dạo thú hôm mai,
----Cửa dù có, vẫn then cài như không.
----Chống gậy dạo quanh vườn lại nghỉ,
----Ngắm cảnh trời khi ghé trông lên:
----Mây đùn mấy đám tự nhiên,
----Chim bay mỏi cánh đã quen lối về.
----Bóng chiều ngả bốn bề bát ngát,
----Quanh gốc tùng tựa mát thảnh thơi;
----Từ đây về thực về rồi,
----Thôi xin từ tuyệt với người vãng lai.
----Vì ta đã với đời chẳng hiệp,
----Cần chi mà giao thiệp với ai?
----Chuyện trò thân thích mấy người,
----Bạn cùng đèn sách khi vui đỡ buồn.
----Người làm ruộng ôn tồn hỏi chuyện,
----Tới xuân rồi, sắp đến việc ta;
----Hoặc truyền sắm sửa cân xa[29],
----Hoặc khi đủng đỉnh thuyền ra coi đồng.
----Dưới khe nọ nước vòng uốn éo,
----Bên đường kia gò kéo gập ghềnh;
----Cỏ cây mơn mởn màu xanh,
----Suối tuôn róc rách bên ghềnh chảy ra.
----Ngắm muôn vật đương mùa tươi tốt,
----Ngán cho ta thôi trót già rồi;
----Thôi còn mấy nỗi ở đời,
----Khứ lưu sao chẳng phóng hoài[30] tự nhiên?
----Cớ chi nghĩ thêm phiền tấc dạ,
----Đi đâu mà tất tả vội chi?
----Giàu sang đã chẳng thiết gì,
----Cung tiên chưa dễ hẹn gì[31] lên chơi!
----Chi bằng lúc chiều trời êm ả,
----Việc điền viên vất vả mà vui,
----Lên cao hát một tiếng dài,
----Xuống dòng nước chảy ngâm vài bốn câu.
----Hình thể này mặc dầu tạo hóa,
----Tới lúc nào hết cả thì thôi,
----Lòng ta phó với mệnh trời,
----Đừng ngờ chi nữa, cứ vui vẻ hoài!
 
--------------------------------------TỪ LONG dịch
 
Có người cho rằng Đào Uyên Minh chủ trương “lánh đời”, nhưng không phải vậy. Ông lánh chính trị chứ không lánh đời. Nếu ông là một nhà luân lí thì ông đã xuất gia làm hoà thượng rồi. Nhưng ông yêu đời lắm nên không muốn lánh đời. Ông coi tình vợ chồng, cha con không phải là hư ảo; những cành lá rủ trong vườn của ông, mấy gốc tùng mà ông thích kia, cũng không phải là những vật hư ảo; vì ông là người cận tình hợp lí cho nên ông quyến luyến với người và vật. Do thái độ yêu đời, thái độ tích cực mà hợp lí đó, ông mới cảm được một sự điều hoà đặc biệt nó biểu hiện trong thi ca của ông. Ông sinh trên cõi trần, thuộc về cõi trần, cho nên không lánh cõi trần mà muốn:
 
----…lúc chiều trời êm ả,
----Việc điền viên vất vả mà vui,
----Lên cao hát một tiếng dài,
----Xuống dòng nước chảy ngâm vài bốn câu.
 
Ông vui vẻ trở về cảnh điền viên giữa gia đình. Như vậy kết cục là một sự hoà hợp với thiên nhiên, với đời sống, chứ đâu phải là một sự phản kháng.
Chú thích:
[1] Nghĩa là họ đã tìm kiếm hết hơi rồi.
[2] Sách Trang Tử, thiên Sơn Mộc. (Goldfish)
[3] Sách Mạnh Tử, thiên Li Lâu hạ. (Goldfish).
[4] Sách Mạnh Tử, thiên Cáo Tử thượng. (Goldfish).
[5] Một người đàn bà nhiều tội lỗi nhưng sau ân hận sửa tánh, rất trung thành với Ki Tô, cho nên được thờ phụng.
[6] Trong bản tiếng Anh, Lâm Ngữ Đường bảo là mặc bộ pyjamas mà bản chữ Hán dịch là: thuỵ y (睡衣). (Goldfish).
[7] Đoạn “những cái đó [quyền thế, chức tước, tư sản, tiền tài] tới thì họ cũng nhận nhưng không cho mình là vì có nó mà khác những những người thường” thật khó hiểu, sách in sai chăng? (Goldfish).
[8] Câu cuối trong bài thơ Bần nữ của Tần Thao Ngọc. (Goldfish).
[9] Theo Lâm Ngữ Đường. Có người hiểu câu đó là: người tướng giỏi không dùng vũ lực.
[10] Theo Lâm Ngữ Đường. Có người hiểu câu đó là: sẽ thấy được kết quả tốt đẹp.
[11] Cũng theo Lâm. Có người hiểu là: không dùng sức mạnh.
[12] Năm 1919, sau thế chiến thứ nhất.
[13] Sách này viết năm 1936, 1937.
[14] Ý muốn nói: Clémenceau đại diện cho Pháp ở hội nghị Verseilles, yêu sách quá đáng, bắt Đức bồi thường quá nặng, nên dân tộc Đức bất bình mà Hitler dễ lợi dụng sự bất bình đó.
[15] Cũng theo Lâm. Có người hiểu là: Thế gọi là ánh sáng huyền vi, hoặc: Thế gọi là sâu kín sáng sủa.
[16] Theo bản tiếng Hán thì Lâm dịch là Mysterious female: tức Giống cái Mầu nhiệm. Mẹ của Vạn vật. Có người cho Huyền Tẫn là tên riêng của Đạo, trỏ cái thể hư không của Đạo.
[17] Sái: trong bộ Trang tử, thiên Sơn mộc, cụ Nguyễn Hiến Lê phiên âm là Thái. (Goldfish).
[18] Nguyên văn: hoá thực là đồ nấu nướng.
[19] Sách in là Nghê Văn Lâm, tôi sửa lại thành Nghê Vân Lâm. (Goldfish).
[20] Hàn Sơn thuộc đời Đường, Tế Điên thuộc đời Tống. (Goldfish).
[21] Thánh Thán nghĩa là tiếng thở dài của Thánh (Khổng Tử).
[22] Tức phái lo cho đời, phái xử thế của đạo Nho, chứ không phải phái xã hội theo nghĩa ngày nay.
[23] Thi sĩ cuối đời Đông Tấn (364-427) tên là Tiềm, tự là Uyên Minh, biệt hiệu là Ngũ Liễu tiên sinh, nổi tiếng về nhiều bài thơ điền viên và các bài tản văn ngắn, lời rất bình dị, tự nhiên mà ý tứ thâm trầm. Người đương thời tặng ông Tĩnh Tiết tiên sinh, vì phục ông là cao khiết.
[24] Tức quan đại tư mã Đào Khản.
[25] Một chức lại nhỏ đi thâu thuế.
[26] Có sách chép là Thứ sử.
[27] Tức Sơ tổ Tuệ Viễn. (Goldfish).
[28] Có bản chép là “nẻo trước”. (Goldfish).
[29] Là cái xe có trang sức.
[30] Là thả lỏng.
[31] Có bản chép là “hẹn kỳ”. (Goldfish).