Người dịch: NGUYỄN BÁ
Chương Bốn
BẢY, TÁM, TÔI SẮP CHÚNG THẬT THẲNG

I
Thời gian trôi đi. Đã hơn một tháng kể từ khi ông Morley chết và vẫn chưa có tin tức gì về cô Sainsbury Seale cả.
Khi nào nghĩ tới điểm đó, Japp đều nổi giận. Hôm đó, sau khi mào đầu bằng một lời rủa, ông la lên:
- Poirot, cuối cùng con mụ đàn bà ấy phải ở đâu đó chứ!
- Điều đó là không thể chối cãi được, ông bạn thân mến.
- Hoặc là cô ta đã chết, hoặc là cô ta còn sống. Nếu cô ta chết rồi, thì thi thể ở đâu? Chúng ta hãy giả thử là cô ta đã tự tử...
- Lại một vụ tự tử nữa?
- Chúng ta đừng trở lại việc đó nữa. Ông tiếp tục tin rằng người ta đã giết Morley, còn tôi, tôi vẫn tin rằng ông ấy đã tự sát.
- Ông mãi mãi vẫn không biết ông ta đã kiếm được súng lục ở đâu hay sao?
- Không. Đấy là một vũ khí ngoại.
- Một chi tiết lý thú.
- Không phải trong nghĩa mà ông hiểu. Morley đã đi du lịch. Ông ta đã có những chuyến du hành với chị ông và rất có thể là ông ta đã đi mua khẩu súng lục ấy trong một chuyến dừng lại. Khi đi du lịch, người ta thường để cho các vũ khí cám dỗ. Điều đó cho họ một cái ảo tưởng rằng họ sống một cuộc sống nguy hiểm.
Poirot nghe, hoài nghi rõ ràng.
- Nhưng - Japp tiếp tục - chúng ta đừng lạc đường. Tôi nói rằng coi chừng, đấy là một giả thiết đơn giản. Nếu người phụ nữ đáng ghét ấy tự tử, nếu, chẳng hạn cô ta nhảy xuống nước, thì xác của cô ta phải được tìm thấy lại vào lúc này. Vả lại, nếu cô ta bị giết thì cũng như thế.
- Trừ phi - Poirot bác bẻ lại - người ta dằn cái xác bằng một trọng lượng nào đó trước khi ném nó xuống sông Tamise...
- Trong một đêm không trăng, ở đâu đó về phía Limehouse? Ông Poirot thân mến, ông nói, như một bà viết tiểu thuyết đăng từng kỳ ấy.
- Tôi biết. Và những sự việc đó, tôi nói tới chúng mà thấy xấu hổ.
- Tất nhiên. Và đấy là một băng những bọn bất lương quốc tế sẽ quan tâm đến cô ta?
Poirot thở dài và nói:
- Gần đây nhất, người ta còn cam đoan với tôi rằng những băng thuộc loại ấy còn tồn tại.
- “Người ta” là ai?
- Ông Reginald Barnes, đường Castlegardens, ở Zaling.
Đến lượt mình, Japp tỏ rõ một sự hoài nghi nào đó.
- Ông ta phải biết điều đó - ông nói với giọng mỉa mai - Khi ông ta ở bộ Nội vụ, ông ta có khá nhiều người nước ngoài để giám sát.
- Người ta bảo rằng ông không đồng ý?
- Đấy không phải là phạm vi của tôi. Tôi không khẳng định rằng những tổ chức quốc tế ấy không tồn tại, nhưng nói chung tôi cho rằng chúng không nguy hiểm.
Poirot vê ria mép.
Vì hình như ông không muốn nói, nên Japp lại nói tiếp:
- Về cô Sainsbury Seale, chúng tôi đã thu thập được một số thông tin bổ sung nhỏ. Cô ta từ Ấn Độ trở về trên cùng một chuyến tàu với Amberiotis. Cô ta đi hạng hai và ông kia đi hạng nhất, hẳn là một sự trùng hợp đơn giản. Thế nhưng, có một trong những người hầu bàn ở Savoy tin rằng cô ta đã ăn trưa với ông kia, tất nhiên là ở Savoy, khoảng tám ngày trước khi Amberiotis chết.
- Đến mức cũng có thể là họ quan hệ với nhau?
- Có khả năng, nhưng điều đó theo tôi ít có thể xảy ra. Tôi chưa thấy một bà quan tâm đến các công việc từ thiện và các hội tuyên giáo lại dính vào những tổ hợp đáng ngờ.
- Từ đó ông kết luận rằng ông bạn Amberiotis của chúng ta quan tâm đến cái mà ông gọi là các "tổ hợp đáng ngờ"?
- Về việc đó, không có nghi ngờ chút nào cả. Ông ta đã liên hệ chặt với các tổ chức tình báo.
- Ông có chắc không?
- Hoàn toàn. Ông ta đã để công việc tồi cho những người khác và chúng tôi đã bất lực để tóm được ông ta. Ông ta vạch ra kế hoạch chiến dịch, phân phối công việc nhận báo cáo. Tất cả điều đó, chúng tôi nắm chắc. Nhưng về việc có liên quan đến người đàn bà biến mất, chúng tôi không nắm được gì cả. Tôi không thấy cô ta trong một cái mánh khóe như thế?
- Chớ có quên rằng cô ta đã sống ở Ấn Độ. Ở đấy trong những năm gần đây, đã có những cuộc rối loạn.
- Một sự liên kết giữa Amberiotis và cô Sainsbury Seale, tôi không tưởng tượng được điểm đó. Ông có biết rằng cô Sainsbury Seale đã là một người bạn gái lớn của bà Alistair Blưnt đã quá cố không?
- Người ta đã nói với ông điều đó sao? Tôi không tin một chút nào cả. Họ không thuộc cùng một giới với nhau.
- Tôi thuật lại điều mà cô Sainsbury Seale đã nói với ông ấy.
- Điều mà cô ấy đã nói với ai?
- Với chính Alistair Blunt.
- Tôi hiểu điều đó. Đó là một mánh khóe cũ rích và Blunt thường thường phải gặp như vậy, những bà mạo xưng là bạn của bà vợ quá cố của ông. Còn như giả thiết rằng Amberiotis có thể nghĩ tới việc dùng mánh khóe bằng cách ấy, thì không. Điều đó sẽ không tiến hành được. Blunt sẽ tống khứ cô ta đi với một món tiền trợ cấp nào đấy, nhưng ông ta sẽ không mời cô ấy đi nghỉ cuối tuần trong trang trại của ông ta. Cũng không nên coi ông ta như là một người đần.
Poirot, người mà sự cám dỗ này không bao giờ lướt tới, tán thành một cách nghiêm trang. Sau đó một chút, một lần nữa, Japp xem xét lại tình hình. Cô Sainsbury Seale có thể đã ra sao rồi?
- Tất nhiên, xác của cô ta có thể đã bị một nhà bác học bị bệnh tâm thần dìm vào trong một cái bồn tắm đầy axít. Trong cách sách vở, thường thường người ta tống khứ các thi thể kềnh càng như thế đấy, nhưng là một giả thuyết không làm vừa lòng tôi. Đối với tôi, nếu cô ấy đã chết, thì người ta đã lặng lẽ đem chôn cô ấy ở đâu đó.
- Đúng, nhưng ở đâu?
- Đấy là điều mà tôi tự hỏi. Chính cô ta đã biến mất ở London. Ở London không có vườn. Ít ra cũng không có vườn xứng đáng với cái tên ấy và cho phép tiến hành những lễ tang nhỏ kín đáo và riêng tư. Cái mà chúng ta tìm, đấy là một đám vườn, một cái sân của trang  trại.
Một đám vườn! Đúng, một cái, Poirot thấy lại cái vườn đẹp mà ông đã khâm phục ở Ealing với những bãi cỏ đối xứng và những khóm cây được giữ gìn một cách hoàn hảo. Sẽ là quái dị nếu một người đàn bà được đem chôn ở đấy. Ý nghĩ làm ông vui, nhưng ông thừa nhận tính vô lý của nó.
Trong khi Japp tiếp tục:
- Bây giờ, chúng ta cứ thừa nhận là cô ấy không chết. Vậy thì cô ta ở đâu? Cô ta đã biến mất hơn một tháng rồi, ảnh của cô ta được công bố trong tất cả các báo hàng ngày...
- Và không ai thấy cô ta hay sao?
- Ông hãy nói đúng hơn là mọi người đã thấy cô ta. Ông không tưởng tượng số lượng những người đàn bà mà dấu hiệu nhận dạng tương ứng với cô Sainsbury Seale đang đi lại hiện nay ở trên lãnh thổ Anh! Người ta đã gặp cô ta trong các trang trại ở Yorkshire, trong các quán trọ ở Devon, trong các khách sạn ở Liverpool và trên bãi biển của Ramsgate… Các nhân nên của tôi đã kiên nhẫn điều tra tất cả mọi nơi mà cô Sainsbury Seale đã bị nhận ra. Họ đã bị không biết bao nhiêu bà cô rất đáng kính trọng, tuy rằng đã tàn úa chửi rủa, nhưng họ không biết được gì cả.
Nét mặt của Poirot biểu lộ một sự thông cảm buồn bã.
Thế nhưng, Japp tiếp tục bằng một giọng tỏ rõ sự bực tức của ông:
-  Cô Sainabury Seale không phải là một con ma. Đôi khi, người ta bảo chúng tôi đi tìm lại một cô Spinks nào đó, cô này đã đến ở đâu đó trong một ngày đẹp trời sau thì biến đi, không để lại dấu vết. Cô Spinks tồn tại ngắn ngửi, đấy là cái mà tôi gọi là một con ma. Nhưng cô Sainsbury Seale của chúng ta thì là cái có thật. Cô ta có một quá khứ thời thơ ấu và cả cuộc đời của cô ta tôi biết cho đến ngày mà cô ta biến mất như bằng ảo thuật.
- Phải có một lý do - Poirot nói.
- Nếu đấy là một cách để nói bóng gió rằng cô ta đã giết Morley - Japp cãi lại - tôi trả lời rằng "Không!". Amberiotis đã thấy Morley sống sau khi cô Sainsbury Seale đi rồi và chúng tôi biết điều mà cô ấy làm khi rời đường Hoàng hậu Charlotte.
Poirot tỏ ra sốt ruột.
- Tôi không khẳng đinh rằng cô ta đã giết Morley. Tôi tin chắc là không, thế nhưng...
Japp ngắt lời ông:
- Tôi biết. Nếu ông có lý đối với Morley, người ta có thể thừa nhận rằng ông ta đã nói điều gì đó có thể đặt chúng ta vào cái nút của kẻ giết người. Từ đó, cần phải làm cho cô ta biến mất.
- Điều đó giả thiết - Poirot lưu ý - một tổ chức quy mô, một tổ hợp rộng, hơi không cân xứng với mục tiêu của nó; cái chết của một nha sĩ bé nhỏ, tầm thường ở đường Hoàng hậu Charlotte.
- Vậy thì đừng có tin tưởng nhiều vào điều mà Reginald Barnes kể cho ông. Đấy là một người điên, có cái đầu bị các nhà trinh thám và các nhà cách mạng của ông ta quấy rầy.
Japp đứng dậy. Ông cáo từ sau khi đã hứa với Poirot là sẽ cho ông biết rõ nếu ông có được tin tức.
 

*

 
Poirot ngồi mơ màng trước chiếc bàn của mình. Rõ ràng là ông có tinh thần chờ một điều gì đó, nhưng ông không thể nói được là điều gì.
Trước đó một thời gian, ông cũng ngồi trước cùng một cái bàn ấy, để ghi lên trên một tờ giấy vài cái tên và những sự kiện mà không có gì chứng tỏ nối chúng lại với nhau. Một con chim đậu một lúc vào rìa cửa sổ. Nó ngậm ở mỏ một cái cành nhỏ.
Ông cũng vậy, giống như con chim, ông đã nhặt những cành nhỏ. Năm, sáu, tôi nhặt những mẫu gỗ...
Những cành cây, ông bắt đầu có nhiều. Tất cả đều để dành ở trong một góc trí nhớ của ông, nơi mà ông sẽ tìm lại chúng khi cần. Cho đến bây giờ, ông chưa thử sắp xếp chúng lại, sắp đặt chúng lại. Điều đó sẽ đến...
Tại sao ông chưa bắt đầu làm từ bây giờ? Ông biết điều đó: ông chờ đợi một điều gì đó.
Một điều gì đó không thể tránh được.
Khi điều gì đó sẽ xảy ra, lúc đó, nhưng chỉ lúc đó, thời cơ sẽ đến để bắt tay vào việc.
II
 
Tám ngày sau, cuối buổi tối, Japp gọi điện thoại. Giọng ông nhanh và vội.
- Ông đấy à, Poirot? Chúng tôi đã tìm thấy cô ta rồi! Đến gặp chúng tôi đi. Trạm nghỉ Vua Lepold, công viên Batterreas, số 45.
Chưa đầy mười lăm phút sau, một chiếc taxi đã để Poirot xuống trước một ngôi nhà lớn có cửa sổ mở ra phía công viên Batterreas. Số 45 ở tầng hai và chính Japp ra mở cửa cho Poirot. Ông có vẻ rầu rĩ.
- Lại đây - ông nói - Cảnh tượng không đặc biệt thích thú, nhưng tôi nghĩ rằng ông phải thấy cô ta.
Poirot hỏi, nhưng đấy gần như không phải là một câu hỏi:
- Chết rồi?
- Chứ còn gì nữa.
Một tiếng động đặc biệt, nhưng khá dễ đoán ra, thu hút sự chú ý của Poirot.
- Đấy là người gác cổng - Japp giải thích - Anh ta đang ở dưới bếp, hơi chán nản. Tôi yêu cầu anh ta lên để nhận dạng nạn nhân.
Một mùi nôn mửa phảng phất trong hàng lang hẹp mà họ men theo. Hai lỗ mũi của Poirot lạnh buốt.
- Thật khá chán - Japp nói - nhưng phải chờ đợi. Cô ta chết đã hơn một tháng rồi.
Họ vào trong một căn buồng rỗng không, rõ ràng là một căn buồng cất đồ kềnh càng. Giữa buồng có một cái hòm lớn, giống như tất cả mọi cái hòm mà người ta dùng để bảo quản các đồ da, lông thú. Nắp đã bật lên.
Poirot lại gần và nhìn vào trong.
Trước tiên, ông thấy một bàn chân. Ông nhận ra cái vòng sắt trang trí chiếc giày xấu, cái vòng ấy mà ông đã nhận xét vào hôm ông gặp cô Sainsbury Seale lần đầu tiên ở trước số 58 đường Hoàng hậu Charlotte. Đôi mắt ông chuyển lên theo chiều dài của một chiếc áo dài bằng len xanh và cuối cùng tới đầu. Poirot không thể ngăn được những cử động giật lùi nhỏ. Khuôn mặt hình như bị đánh đến mức chỉ còn là một đám bột nhão không ra hình thù gì, còn kinh tởm hơn là thịt phân hủy đã rất sớm.
Hai người rút lui nhanh chóng. Cả hai đều tái mét.
- Úi chà! - Japp la lên - Những chuyện vui đùa nhỏ ấy là thuộc về chương trình hàng ngày của chúng tôi. Nghề nghiệp không thể mãi mãi là buồn cười được. Ông hãy tới chỗ kia, tôi đã phát hiện ra một cái chai cô-nhắc. Một cốc rượu trắng hảo hạng sẽ không làm hại chúng ta đâu.
Căn buồng, một căn gồm một phòng, được trang bị lịch sự, nhưng đúng kiểu hiện đại rất khẳng định: đồ đạc bằng ống thép, ghế bành rất rộng, bọc thảm thêu các hình vẽ hình học.
Poirot uống một cốc cô-nhắc, rồi sau khi hơi khỏe lại, ông yêu cầu giải thích.
- Đây này - Japp nói - Chúng ta hiện đang ở trong căn hộ của một bà Chapman nào đó. Theo những điều chỉ dẫn mà chúng tôi thu thập được, bà Chapman ấy là một phụ nữ đẹp, tóc hoe, khá béo trục béo tròn, gần bốn mươi tuổi. Bà ta thanh toán hóa đơn đều đặn, thỉnh thoảng chơi bài brít ở chỗ bạn bè, nhưng nói chung không ra ngoài nhiêu. Bà ta không có con cái và chồng bà là người đi chào hàng.
Cô Sainsbury Seale đã đến đây tối hôm mà chúng ta đã gặp cô. Cô ta đến vào lúc bảy giờ mười lăm, điều đó cho giả thiết rằng cô ta từ Glengowrie Court đến thẳng đây. Người gác cũng đã gặp cô ta trước đó ít lâu, đã nhận ra cô đến thăm, chỉ thế thôi, và thoạt đầu không có gì đáng nghi ngờ trong cô. Người gác cổng lên cầu thang cùng cô ta, và anh này thấy cô ta lần cuối cùng, khi cô ấn ngón tay vào núm chuông.
- Giữa chúng ta - Poirot lưu ý - anh ta có để thì giờ để nhớ lại điều gì đó không?
- Hình như - Japp trả lời - anh ta bị ốm và phải nằm bệnh viện một thời gian ngắn, trong thời gian đó, anh ta đã bị thay thế, chỉ trong tuần vừa rồi, anh ta thấy trong một tờ báo cũ thông điệp mà chúng tôi đã cho công bố chỉ rõ dấu hiệu nhận dạng của người đàn bà biến mất. Trước tiên, anh ta nói với vợ: "Có thể đó chính là cái bà đã đến gặp bà Chapman ngày hôm kia. Bà ấy mặc đồ xanh và có những chiếc vòng sắt ở giầy". Rồi một giờ sau, anh ta đã nhớ được tên... hoặc hầu như. "Nhưng theo anh, anh ta nói với vợ, bà ấy có một cái tên như thế này: Cô… cái gì đó Seale".
Tiếp theo, phải bốn ngày sau, anh ta mới vượt được sự ghê tởm tự nhiên đối với cảnh sát và cung cấp cho chúng tôi điều chỉ dẫn. Tôi dè chừng người ta đã nhiều lần quấy rầy chúng tôi về những vấn đê vô ích. Song tôi đã chuyển tin mách này cho Beddoes. Đấy là một trung sĩ trẻ, khá xuất sắc. Có lẽ anh này được giáo dục tốt, nhưng anh ta không thể làm được gì cả. Vả chăng, đây là cái mốt bây giờ.
Lần này, anh ta cảm thấy ngay rằng chúng ta đã có một dấu hiệu tốt. Người ta đã không thấy cái bà Chapman ấy từ hơn một tháng rồi, và bà ta đã đi, không để lại địa chỉ. Người gác cổng không thấy cô Sainsbury Seale đi khỏi, đấy là bình thường. Rất có thể là cô ta đã đi qua trước chòi gác mà anh ta không thấy. Trái lại, cái điều không bình thường, đấy là sự ra đi đột ngột của bà Chapman. Bà ta không báo trước cho ai cả và chỉ cho anh ta biết vào sáng hôm sau bằng một tấm biển mà bà ta treo ở cửa: “Không cần sữa - Nói với Nellie rằng tôi phải đi vắng”. Nellie, chính là cô hầu nhỏ đến chỗ bà vào các buổi sáng. Vì đã một hoặc hai lần, đã có chuyện bà Chapman chuồn đi mà không báo, cô bé không thấy điều đó là kỳ quặc. Nhưng có điều lạ là, bà ta ra đi mà không yêu cầu người gác cổng đem va-li của bà xuống và đi tìm giùm cho bà một chiếc taxi.
Tất cả điều đó giải thích sự đến thăm căn hộ. Chúng tôi đã xin một cái lệnh, người quản lý đã đưa chìa khóa cho chúng tôi và chúng tôi đã đến làm một vòng. Chỉ ở trong phòng tắm là các sự vật bắt đầu trở nên thú vị. Hình như nó được lau rửa với nhiều nước và vội vàng: Người ta đã chùi vải linoleum trải trên sàn nhà nhưng trong các góc, người ta còn để lại những vết máu. Chỉ còn lại vấn đề tìm xác chết. Nếu bà Chapmon ra đi với hành lý, thì người gác cổng đã biết. Chúng tôi đã lưu ý ngay đến chiếc hòm da lông thú. Chúng tôi đã mở nó ra bằng cái chìa khóa nhặt được ở trong một cái ngăn kéo và ông biết phần sau: người đàn bà đã ở trong đó!
- Bà Chapman sao? - Poirot hỏi.
- Tôi biết rằng - Japp trả lời - bà ta gọi là Sylvia, nhưng tôi không thể thêm gì khác. Trừ ra rằng chính bà ta đã giết cô Sainsbury Seale và đã bỏ cô ta vào hòm. Bà ta hoặc các bạn cửa bà ta, tất nhiên...
- Nhưng tại sao người ta lại đánh đến mức để làm cho cô ta biến dạng hoàn toàn? Thật kinh tởm.
- Để làm cho kinh tởm - Japp nói - thật là kinh tởm. Còn như giải thích tại sao người ta đã đánh cô ta như vậy: người ta hầu như chỉ phó mặc cho những giả thuyết. Một sự dã man thế thôi. Trừ phi người ta muốn làm biến dạng cô ta để ngăn trở chúng ta nhận ra cô...
Poirot chau mày.
- Tôi không có cảm giác ấy.
- Vả chăng - Japp nói thêm - người ta để lại cho chúng ta quần áo, mà chúng ta có một sự mô tả rất chính xác, và người ta đã nhét vào trong hòm, bên cạnh cô ta, chiếc ví cầm tay của cô, đựng một cái thư của cô gửi cho  khách sạn cũ ở quảng trường Russel.
- Nhưng - Poirot la lên - tất cả những cái đó không có lý!
- Đấy cũng là ý kiến của tôi. Có lúc, những kẻ tội phạm phạm những sai lầm.
- Vâng, nhưng...
Poirot không nói xong câu. Một ý nghĩ nảy ra trong óc ông.
- Ông đã  khám xét trong tất cả căn hộ chưa? - Ông hỏi.
- Đã - Japp trả lời - Cuộc viếng thăm đã không cho chúng tôi cái gì đáng chú ý cả.
- Tôi muốn xem buồng ngủ của bà Chapman.
- Tới đi!
Trong buồng này, không có gì gợi lên một sự ra đi vội vàng cả. Không có một sự lộn xộn nào cả. Bà ta đã không ngủ ở trong giường, nhưng cái chăn thì được xếp dọn. Ở trên các đồ đạc có một lớp bụi dầy.
- Tôi không thấy dấu tay ở đâu cả - Japp nói - trừ ở bếp, trên các dụng cụ nấu ăn. Các dấu tay của cô ở gái, chắc hẳn thế.
- Điều đó hình như chỉ ra rằng người ta đã cẩn thận xóa các dấu vết đi sau vụ giết người chăng?
- Đấy là điều mà tôi tin.
Poirot đưa mắt đảo một vòng khắp căn phòng. Cũng như căn nhà một phòng, nó được trang bị rất hiện đại, nhưng không xa xỉ thực sự. Một số đồ đạc "gây ấn tượng" nhưng không có cái nào giá rất đắt cả. Poirot mở cái tủ hốc tường và xem xét các bộ quần áo đàn bà treo ở bên trong. Chúng đều lịch sự, nhưng không phải do một người thợ may áo nữ có tiếng may. Cũng có những đôi giầy mà ông nhìn sát, ghi nhận rằng bà Chapman mang cỡ giầy 36 và bà ta thích giầy có đế to, đóng theo mốt khá mới.
Ông mở một cái tủ hốc tường thứ hai, mà ở phía dưới là cả một đống da lông thú.
- Tất nhiên, chúng được lôi từ hòm ra - Japp nói.
Poirot xem một cái áo khoác bằng da lông sóc.
- Da rất đẹp - ông nói.
Rời buồng ngủ, ông đi qua buồng tắm. Có một lô kỳ dị những bình và lọ khác nhau: Kem bôi mặt, phấn đánh mặt, son đỏ. Hai chai thuốc nhuộm tóc đặc biệt làm cho nhà thám tử chú ý.
- Hình như không phải rằng bà Chapman là một người có tóc hoe nhuộm màu bạch kim rất xác thực - Japp nhận xét.
- Đến tuổi bốn mươi, ông bạn ơi - Poirot nói - số đông đàn bà bắt đầu có tóc hoa râm. Bà Chapman chắc chắn thuộc về những người đàn bà không chịu khuất phục trước những luật lệ của tạo hóa...
- Vào lúc này, hẳn là bà ta đã trở thành màu hung.
- Đấy là điều mà tôi tự hỏi.
Hình như Poirot băn khoăn...
- Poirot, có gì làm ông lo lắng hả? Cái gì vậy? - Japp nói.
- Đấy đơn giản là tôi đã phát hiện ra một vấn đề mà theo tôi, hình như không giải đáp được.
Ông kiên quyết kéo ông thanh tra vào trong buồng có xác chết. Cầm lấy một bàn chân của người chết, ông rút chiếc giầy ra khá vất vả. Ông xem xét nó rất kỹ. Cái vòng sắt đã được mạng lại, với một sự vụng về thấy rõ.
- Tôi tự hỏi có phải tôi nằm mơ không - Poirot nói với một tiếng thở dài.
Japp nhìn con người nhỏ bé này đầy nghi ngờ.
- Ông đang phát minh ra cái gì đấy? - Ông ta hỏi - Ông còn tìm cách làm phức tạp vấn đề hay sao?
- Tôi đã nói với ông rồi.
Japp nhún vai.
- Ông có ở kia một chiếc giây đầy đủ với vòng sắt của nó. Ông còn băn khoăn gì nữa?
- Không gì cả - Poirot nói - Nhưng tôi cũng cứ không hiểu.
III 
 
Theo người gác cổng, người bạn gái tốt nhất của bà Chapman là bà Merton ở số 82, trạm nghỉ Vua Leopold.
Japp và Poirot tới gặp bà ta ngay.
Họ thấy một bà có đôi mắt rất đen và mái tóc rối rắm, rất ba hoa, và chỉ thích nói thôi.
- Sylvia Chapman? - bà ta nói - Tất nhiên, tôi biết chị ấy. Chúng tôi không phải cái mà người ta gọi là những người bạn thân thiết, nhưng chúng tôi đã nhiều lần chơi brít với nhau, và có lúc cùng đi đến các cửa hàng. Nhưng, các ông hãy nói cho tôi biết, các ông chắc rằng chị ấy chưa chết phải không?
Sau khi được Japp trấn an, bà ta lại nói:
- Điều đó làm cho tôi vui lòng, bởi vì người phát thư vừa kể cho tôi hay rằng người ta đã tìm thấy một cái xác đàn bà chết ở trong một căn buồng của ngôi nhà bên cạnh. Người ta có lý khi nói rằng chỉ nên tin một nửa những điều mà người ta nghe.
Japp đặt ra một câu hỏi chính xác.
- Không - bà ta trả lời - Tôi không có tin tức về bà Chapman. Bà ấy biệt vô âm tín từ hôm mà chúng tôi đi xem một bộ phim mới của Fred Astaine. Hôm đó, chị ấy đã không nói bóng gió về một chuyến di du lịch nào cả...
Bà Merton không bao giờ nghe nói đến cô Sainsbury Seale. Không bao giờ bà Chapman đã nói đến tên cô này trước mặt bà cả.
- Thế nhưng - bà nói thêm - cái tên này nói lên cho tôi một điều gì đó. Hình như tôi đã thấy nó ở đâu đó, cách đây không lâu.
- Trong thời gian gần đây, nó đã có ở trong các báo hàng ngày - Japp nói.
- Ông có lý - bà Merton la lên - Chính bà ấy đã biến mất! Các ông nghĩ rằng bà Chapman biết cô ấy?... Tôi không tin. Dù thế nào đi nữa, bà ấy đã không bao giờ nói đến cô ta cả.
- Bà Merton, bà có thể nói cho chúng tôi đôi điều về ông Chapman không?
Câu hỏi làm cho bà Merton ngạc nhiên.
- Theo tôi - bà trả lời - hình như ông ta là đại diện thương mại. Đấy, tôi tin, là điều mà Sylvia đã nói với tôi. Ông ta đi ra nước ngoài cho một hãng vũ khí, nếu tôi không nhầm. Ông ta đi khắp châu Âu.
- Bà có bao giờ gặp ông ta không?
- Chưa bao giờ! Ông ấy ít khi trở về London, và khi ông có mặt ở đây, thì bà Chapman bỏ rơi các bạn bè một chút. Đấy là điều tự nhiên.
- Bà có biết bà Chapman có bà con và bạn bè khác ở London không?
- Bạn bè, bà ấy có, tôi không biết họ. Còn bà con, tôi không tin rằng bà ấy có. Dù thế nào đi nữa, bà ấy không bao giờ nói về họ.
- Bà ấy có ở Ấn Độ không?
- Tôi không biết.
Tất cả im lặng. Rồi đến lượt mình, bà Merton hỏi:
- Nhưng, ông hãy nói cho tôi biết, tại sao ông đặt ra cho tôi những câu hỏi ấy? Ông là người của Sở Cảnh sát, tôi hiểu rõ điều đó, nhưng phải có một lý do để ông hỏi tôi tất cả điều đó
- Trời ơi! Bà Merton, vì cuối cùng bà cũng sẽ biết, tôi sẽ không dấu bà là người ta đã tìm thấy một xác chết ở trong căn hộ của bà Chapman.
Trạng thái sững sờ đã làm cho người đàn bà tử tế ấy lặng đi trong vài giây.
- Một xác chết! - Bà ta kêu lên sau đó - Không phải xác của bà Chapman, tôi hi vọng? Hoặc là của một người nước ngoài?
- Không. Vả chăng, đấy là một người đàn bà...
- Một người đàn bà?
Bà Merton hình như càng sững sờ hơn.
- Thưa bà - Poirot nói giọng nhẹ nhàng hơn - tại sao bà lại nghĩ rằng đấy là một người đàn ông?
- Tôi không biết! Điều đó theo tôi tỏ ra bình thường hơn...
- Tại sao? Có phải là vì bà Chapman có thói quen hay tiếp các ông không?
Bà Merton phản đối bằng giọng phẫn nộ.
- Không! Tôi không bao giờ muốn nói như thế cả!... Sylvia Chapman không thuộc hạng đàn bà ấy!... Nhưng, cho rằng bà Chapman... Tôi muốn nói rằng...
- Thưa bà - Poirot lại nói - tôi tin rằng bà biết nhiều hơn điều mà bà muốn nói với chúng tôi.
Bà ta ngoảnh về phía Poirot.
- Sự thực - bà nói với đôi chút bối rối - chính là tôi không biết điều mà tôi phải làm. Tôi không muốn lộ một điều bí mật, và điều bí mật mà bà Chapman đã nói với tôi, tôi đã không nói lại với bất cứ ai, ngoại trừ hai hoặc ba người bạn thân thiết, mà tôi biết là đáng tin cậy...
Khi bà ta ngừng lại để lấy lại hơi, Japp xen vào:
- Chính xác là bà Chapman đã nói với bà cái gì?
Để trả lời, bà ta hạ thấp giọng xuống.
- Một điều bí mật hầu như do bà ấy buột miệng nói ra. Một hôm chúng tôi đi xem một cuốn phim trinh thám. Lúc ra về, bà ấy đã nói với tôi rằng tác giả của kịch bản biết rất tồi về điều mà ông ta nói… rằng ông Chapman thuộc Sở tình báo Anh và bắt tôi thề không được nói lại với ai. Chính vì vậy mà ông ấy đi ở nước ngoài nhiều. Xưởng vũ khí chỉ là cái vỏ bọc ngoài. Ông Chapman làm tình báo... và thật là kinh khủng đối với bà vợ tội nghiệp của ông, không thể trao đổi thư từ với ông trong những lúc ông đi vắng. Và vì vậy, như ông biết, ông ta bị tất cả mọi sự nguy hiểm đe dọa.