- 4 -

    
iữa lúc ấy thì Bính, một hôm không biết sang Phương Trà làm gì, lại đạp xe vào lối ngõ nhà Viên. Lúc ấy dễ mới non trưa. Viên chơi mãi cũng chán, định cầm cái sảo ra ao ngoài vớt hộ mẹ ít bèo tây về cho lợn, kẻo mấy ngày nay, chiều nào bà đi làm đồng về cũng vội xách sảo đi vớt bèo. Khi Viên vừa mở cổng nhô ra, thì một anh chàng đi chiếc xe đạp Thống Nhất màu xanh lá mạ từ ngoài đường lao vào, chẳng biết có thuộc lối, hay mải nhìn cô gái xuất hiện đột ngột trước mắt, mà cứ thế lao thẳng vào cổng, đánh rình một cái. Cả người và xe kềnh ra ngõ, cách chỗ Viên đang đi chỉ nửa bước chân. Viên giật nẩy người quay lại, rồi vội vất tệch cái sảo, chạy đến giúp anh ta dựng xe đạp lên, mới rút được một bên chân ra khỏi xe. Khi anh chàng rút được một bên chân ra khỏi xe đạp, thì người như mất hết thần sắc, cứ đứng trân trân nhìn Viên như bị thôi miên. Quái lạ, cái cô em gái tay chủ nhiệm bị cách chức, chẳng lẽ mới đi thoát ly lên huyện có hơn năm mà đã thay hình đổi dạng, đẹp đến kia a! Người nhỏ nhắn, rắn rỏi, chỉ phải cái hơi cao, nhưng cũng nhờ cái dáng cao ấy mà có cái lưng dài thắt đáy lưng ong mền mại, với bước chân uyển chuyển như múa. Bính lướt nhanh nhìn Viên từ đầu xuống chân, rồi lại từ chân lên đầu. Càng nhìn càng như mê muội. Không chỉ ở ánh nhìn sắc như dao cau phóng ra từ đôi mắt nhỏ, dài đen như hai giọt nước của Viên. Chàng trai ở tuổi hai mươi nhăm mới chỉ nhìn thấy hai cái núm chỏng chơ giữa bộ ngực thây nẩy cũng đủ thèm nhỏ rãi, chứ chưa cần ngửi thấy cái mùi hoi hoi, ngầy ngậy, nồng nồng, thơm thơm toát ra từ hai cái núm hồng hổng quyến rũ kia. Vừa nhìn thấy Viên, Bính đã như có thần giao cách cảm mách cho chàng trai, tiếng nhà không có gì nhưng lại có cái uy của ông chú là chủ tịch xã làm bảo bối, nên lúc nào mặt cũng vênh vênh, coi các cô gái quê không được nghiêng nước nghiêng thành cho lắm, bằng nửa con mắt. Giờ bỗng gặp cô gái nửa tỉnh nửa quê, xinh đẹp một cách quyến rũ, vừa mang nét hồn nhiên, vừa in đậm bàn tay chăm chút của người biết tự làm đẹp. Đời lắm khi cũng thật trớ trêu. Có người theo đuổi hàng năm trời, tưởng mười mươi nên vợ nên chồng, bỗng lại hoá người dưng nước lã. Người trước đó chẳng quen biết gì, chỉ gặp chốc lát, chuyện trò dăm ba câu, thế là thành vợ thành chồng. Chẳng lẽ tình yêu lại có giác quan thứ sáu mách giùm hay sao, chứ thực, Bính mới chỉ một lần mặt nhìn mặt Viên thôi, mà lòng như đã hẹn tự những ngày còn thơ rồi. Bính cứ đứng nhìn Viên như ngây như dại, đến nỗi Viên phải giục, thôi anh đi đâu thì đi đi, kẻo trưa rồi đấy. Bấy giờ, Bính mới lấy lại được thần hồn, hỏi: “Nhà em ở đây à?”. Viên cười hóm hỉnh, trêu: “Nhà em không ở đây dễ ở Phương Trì chắc!”. Bính nghe câu ấy thích chí, nghĩ ngay con cá này to ngon, nhưng cũng không khó buông mồi, liền cười tít mắt, bảo: “Em có sang Phương Trì với anh không?”. Viên cũng không phải tay vừa, cười cười: “Sang thì sang, nhưng còn phải xem xem đã!”. Câu nói lấp lửng của cô gái ngoan, làm chàng trai dại khờ điêu đứng mấy ngày trời. Chẳng chiều tối nào Bính không lượn lờ trở đi trở lại lối ngõ nhà ông bà Mải. Rồi cô cậu cũng hẹn được nhau ra cây gạo lối làng Phương Trà sang Phương Trì, cũng vào một đêm thượng tuần như đêm nay.
Nhưng khác đêm nay. Vì đêm ấy có trăng, dẫu là trăng non đầu tháng. Còn đêm nay cũng là thượng tuần, nhưng không có trăng, dù là một mảnh trăng non cũng không hề có. Chỉ có những đám mây mọng nước che sẫm bầu trời đêm. Sau khi anh con trai làm ám hiệu “choác…choác…choạc!”, kiểu con chão chuộc ngồi trên tàu lá khoai nước bờ ao gọi nhau, như anh ả đã mật khẩu với nhau, mỗi lần Bính đến chỉ cần đứng ngoài bờ dậu dâm bụt gại lưỡi thế, là Viên có nhà thể nào cũng lẳng lặng ra ngõ, rồi có đi đâu thì đi, hay chỉ nói với nhau đôi ba câu rồi về cũng thoả. Khi Viên ra đến ngoài, Bính vội bá chặt lấy vai như mọi lần, nhưng liền bị Viên hất tay ra, bước rảo lên trước. Bính biết ngay là Viên giận chuyện lợn gà cân kẹo hồi sáng, vội bước dấn lên, cầm lấy một bên cánh tay Viên lắc lắc:
- Em giận anh thật à?
- Biết giận sao còn đến. Dơ. Người thế mà dơ!
- Anh xin lỗi em, và cả mẹ em nữa! Được cviệc gì thì đi tắt ra ngoài cho nhanh, khỏi qua cổng chính đóng mở ký cách, gặp người này hỏi, gặp người kia chào nhiêu khê. Nhưng người ngoài ít ai biết chỗ ấy có cổng sau vào thẳng phòng chủ tịch, trừ người nào thân cận lắm mới thông tỏ ngõ ngường lối đó. Xuê tay cầm bản báo cáo tổng hợp tình hình khắc phục hậu quả bão lốc, từ dẫy nhà văn phòng đi lên dẫy nhà làm việc của chánh phó chủ tịch huyện, chợt nhìn thấy một người cứ trở đi trở lại trước cửa phòng của Trường, liền nghĩ nhanh trong đầu. Rồi rảo chân bước vội về phía người ấy. Gần đến nơi, Xuê hơi ngớ ra. Người ấy không phải ai xa lạ, chính là Thuật, chủ tịch uỷ ban xã Tiên Trung, người mà đến Trường còn phải gọi là anh nữa là. Vừa nhìn thấy Thuật đang trở đi trở lại trước cửa phòng Trường, Xuê vội cất tiếng hỏi, có phần hơi to, như sợ người đang đi đằng kia không nghe rõ:
- Bác Thuật đi cửa sau vào hả. Có việc gì mà đến sớm thế?
Thuật dừng lại, như có ý chờ Xuê đến gần mới nói. Nhưng khi Xuê đến gần thì ông lại chẳng nói năng gì, chỉ đưa tay chỉ chỉ về phía cửa phòng Trường như ra hiệu bảo Xuê khe khẽ chứ, cửa đóng trái và hình như bên trong… Nhưng Xuê đúng là gần đèn mà đen, chẳng nhìn xa trông rộng được tý nào, ít ra là mỗi việc làm sao phòng làm việc kiêm luôn phòng ngủ của Trường ở cơ quan, mà giữa ban ngày ban mặt lại thấy cửa đóng trong là nghĩa thế nào. Nên thấy Thuật ra hiệu, Xuê nliệch miệng cười:
- Chắc là anh Trường đang thay quần áo.
Đúng là trong phòng Trường đang mặc vội hai tấm vải, được gọi là áo và quần, để che đi cái thân hình chỉ có da là da, sau giây phút tình si đến không còn biết đây là đâu, giờ này là giờ gì. Chỉ biết, đúng cái lúc Trường vừa buông hai tay ra khỏi hai bầu vú cứng căng, định vần Hà nằm xuống dưới, còn mình trườn lên phủ trên người Hà, như cái lẽ thường của bao cuộc làm tình giữa hai người đàn ông và đàn bà khác, thì bất thình lình nghe tiếng Xuê hỏi Thuật ở ngay ngoài cửa. Trường vội vàng bật dậy, vơ lấy cái quần mặc vội, đến nỗi luống cuống thọc cả hai chân vào một bên ống quần, vừa đứng lên liền mất đà ngã ịch xuống nền nhà. Giữa lúc ấy, Hà cũng mới mặc xong cái quần con, đang luồn nịt vú qua đầu kéo xuống ngực, vội xô lại đỡ Trường, không may làm đổ chiếc ghế Trường vẫn ngồi làm việc bên chiếc bàn cạnh giường nằm. Tiếng người ngã, tiếng shế đổ trong phòng làm ngực Xuê bỗng giật thót, ngỡ Trường bị cảm gió hay làm sao, vội giật cửa, xô vào. Thuật cũng tất tưởi vào, theo chân Xuê. Thì lạy trời, ma quỷ nào hiện vào đây thế kia, chứ có phải là anh Trường, chủ tịch uỷ ban huyện hay không? Lại ai nữa đây? Chị Hà! Có phải thật chị Hà, chủ nhiệm mua bán huyện? Trời cao đất dầy ơi! Chị cứ để anh Trường đấy cho em. Chị đi mặc áo quần vào ngay đi, nhanh lên! Xuê mặt méo xệch vì lo lắng, giọng nói cũng méo xệch, nhưng nghe ra vẫn rất nhỏ, rất nhẹ, chỉ đủ người trong phòng nghe, chứ không để âm thanh lọt một tý nào ra ngoài, cũng không tỏ ra một tý nào là vội vàng, hốt hoảng.
Dường như đây không phải lần đầu Xuê xử lý những pha như thế này, nhưng đến mức có mặt người thứ ba, thậm chí cả Thuật nữa là thứ tư rồi, mà người thì vẫn lúng túng hai chân xỏ vào một bên ống quần, người vẫn còn ngỗn nghện vú vê ra thế kia, thì chỉ có là ma xui quỷ ám mới thế. Xuê miệng giục Hà mặc áo quần, chân vội quay ra cửa khép chặt hai cánh lại. Trước khi khép chặt hai cánh cửa lại, Xuê không quên ngó đầu ra đảo nhìn hành lang và ngoài sân, xem có người nào đi qua, rồi mới quay vào, bảo Thuật đến đây thì ở lại đây, không ra ngoài lúc này rách việc, cứ ngồi yên ghế kia uống nước đi, chờ một chút. Rồi Xuê quay vào, đến bên Trường đang đứng cạnh giường mặc quần áo, chiếc quần ka ki màu tro xám, chiếc áo sơ mi trắng cổ cứng bỏ trong quần, trông đẹp và trẻ đến dăm tuổi, nếu không nhìn vào khuôn mặt lưỡi cày đang tím tái đến cắt không được giọt máu. Xuê hỏi, như chỉ đủ hai người nghe: “Anh ngã có đau không?”. Trường cũng nói nhỏ, giọng như người bị ngạt mũi: “Cũng may ngồi xổm”. Xuê bỗng thở phào, rồi vội nói: “Em lại cứ tưởng anh ngã vào bàn ghế gì cơ”. Trường hất đầu về phía người đàn bà, dường như vừa mặc xong quần áo, một chiếc cúc gần ngực quên chưa đóng, để phơi một đám da thịt trắng ngồn ngộn nơi giữa ngực, đang đứng trước chiếc gương to treo cạnh tấm ri đô, tay cầm lược chải chải lên mái tóc, như thể đang chỉnh trang lại áo quần, đầu tóc để đi ra ngoài, chứ không hề vương chút thẹn thùng trên nét mặt. Xuê nhìn cái hất đầu của Trường, thầm hiểu người ngã xô vào ghế là Hà, chứ không phải Trường, bỗng thấy yên tâm. Anh vừa đi lại bàn làm việc của Trường kê gọn một góc phòng, cạnh cửa sổ nhìn thẳng ra cổng sau, vừa bảo Trường: “Em gửi anh báo cáo tổng hợp tình hình khắc phục hậu quả bão lốc đây nhá”. Trường cũng đã chỉnh tề trang phục, quay ra, bảo Xuê: “Cứ để lên bàn, ra ghế ngồi uống nước mình nhờ tý việc”. Vừa nói, Trường vừa đi lại bàn nước. Thuật thấy Trường ra, vội đứng lên, nhưng Trường đưa tay ra hiệu, bảo: “Bác cứ ngồi uống nước”. Nhưng Thuật vẫn đứng, chứ chưa dám ngồi. Thuật xưa nay vẫn ý tứ thế, mỗi khi có mặt Trường. Bởi trong nhà Thuật là bề trên, Ngấn, vợ Trường, là em gái ruột của Thuật. Trong nhà Thuật là bề trên, nhưng ra ngoài, Trường lại là người đứng đầu chính quyền của cả một huyện, còn Thuật, tiếng là cũng đứng đầu, nhưng lại chỉ ở một xã. Trường như biết ông anh vợ giữ ý, liền ngồi xuống ghế, đưa tay cầm phích nước, định rót, nhưng Xuê đã vội đưa tay ra: “Anh để em”. Vừa lúc, Hà như vờ soi gương xong, quay ra săn đón hỏi Thuật: “Cán bộ Tiên Trung dạo này toàn đi xe đạp mới hay sao, không thấy cửa hàng mua bán xã lên xin phiếu mua xăm lốp?”. Thật nằm ngủ gặp chiếu manh, có cái xe đạp cả hai lốp đã bục khâu mấy chỗ, đang cạy cục mãi chưa xin được cái phiếu, giờ bỗng; dưng lại có người nói thế còn gì bằng. Bụng thích rơn, nhưng Thuật vẫn làm như giữ kẽ, bảo: “Vẫn xe cũ cả đấy chứ. Nhưng chắc ngoài cửa hàng xã không biết trên mua bán huyện mới có xăm lốp về, nên không lên xin. Để tôi về bảo họ lên, chị giải quyết cho mấy đôi, chị nhá”. Hà nói ngay: “Thôi, anh không phải bảo ai lên, lát nữa anh qua chỗ em, em giải quyết ưu tiên cho anh một đôi”. Thuật đứng bật dậy, rối rít cảm ơn Hà. Trường nhìn Hà cười, như thầm khen Hà nhanh trí, dở ngay cái bài nắm xôi nhét miệng thế, một Thuật, chứ mười Thuật cũng phải im re. Nhưng Trường không nói, lại quay sang bảo Xuê: “Chú dẫn cô Hà sang gặp anh Vinh bên ngân hàng, bảo tôi đồng ý cho mua bán huyện rút ngay hôm nay hai triệu tiền mặt để đi miền Nam mua gạo, về cứu đói cho bà con vừa bị bão lốc nhá. Đi ngay đi!”. Hà nghe Trường nói, hiểu ngay là giục cả mình, vội chào Thuật đi nhanh ra cửa. Xuê cũng chào hai người đi ra. Nhưng mới được mấy bước, Trường gọi giật lại, kéo vào sau cánh cửa dặn dò gì đó. Chỉ nghe tiếng Xuê dạ dạ vâng vâng, anh yên tâm, anh yên tâm luôn miệng, chứ không nghe rõ câu nào vào câu nào.
Trong phòng còn lại hai anh em Thuật và Trường. Vừa rót nước mời ông anh trưởng về đằng vợ, Trường vừa hỏi:
- Bà mấy hôm nay bệnh tình có thuyên giảm chút nào không bác? Chủ nhật vừa rồi vợ chồng em định sang, nhưng đang chuẩn bị đi thì vợ chồng đứa em gái ở thành phố đưa nhau về, mãi chiều muộn mới đi, nên không sang bên bác được nữa.
Ông anh vợ nhấm một ngụm nước chè, rồi đặt nhẹ cái chén xuống khay, không trả lời câu hỏi thăm sức khoẻ bà mẹ của ông em rể, mà lại nói bằng một giọng tiêng tiếc:
- Thế mà chú không sang. Muộn thì muộn chứ sao!
Sự xuất hiện đường đột của ông anh vợ đã là sự phân vân chưa lời giải trong đầu Trường, giờ lại nghe ông ấy nói một câu nửa tiêng tiếc, nửa ngầm trách, Trường thầm hiểu chắc có việc hệ trọng, liền hỏi:
- Bà mệt hả bác? Đã thuốc thang gì thêm cho bà chưa?
Thuật thấy Trường tỏ ra lo lắng cho sức khoẻ của bà mẹ, dù là mẹ vợ, nhưng Ngấn, vợ Trường, lại được bà cụ cưng chiều từ bé. Lấy Trường, mỗi khi vợ chồng dẫn con cái sang chơi, bà cụ vẫn một lời con, hai lời con với cả con gái chàng rể, chứ không như những ông bố bà mẹ khác, cứ coi rể như là khách. Ông anh vợ không muốn để em rể lo lắng về sức khỏe của mẹ, nhưng cũng còn ngần ngại chưa muốn nói thẳng cái ý định mình lên gặp em, dẫu là em rể nhưng lại là người đứng đầu chính quyền huyện, nên Thuật cứ ngập ngừng mãi mới cất lên lời:
- Bà vẫn thế, chứ không sao cả chú…à, anh ạ!
- Bác sao thế? Có chuyện gì muốn nói à? Hay dưới xã lại có đứa nào đơn từ kiện cáo bác, bác cứ bảo để em cho công an xuống gô cổ chúng nó lại?
Dãu được khích lệ, Thuật vẫn ý tứ lựa lời. Vì dù sao việc Thuật sắp nói ra lại vượt ra ngoài khuôn khổ gia đình giữa anh vợ với em rể, mà là việc của xã, của huyện, giữa chủ tịch xã với chủ tịch huyện. Hơn thế nữa, lại liên quan đến một người chức quyền còn cao hơn cả Trường, đứng đầu huyện này. Người ấy là Cải. Nên sự thận trọng, dè dặt của Thuật là điều dễ hiểu. Biết đâu, dẫu Cải mới về, nhưng Trường với Cải cũng gần gũi và có phần suồng sã như với ông Giá bí thư cũ thì sao? Trong khi Thuật còn đang phân vân, mặt ngay cán tàn như khi ngồi cầu tiêu, thì Trường bỗng như sực nhớ, vội chồm người lên:
- Thôi thôi đúng rồi! Lại cái ông Mải ấy chứ gì! Hôm lâu lên giữa lúc đang họp thường vụ, không có ông Cải bảo cậu Thơi dẫn vội ra ngoài thì em gọi công an sang gô cổ lại rồi. Thôi, bác cứ về đi. Sáng nay em còn những mấy cuộc họp. Em sẽ gọi điện bảo huyện công an cho người xuống theo dõi, nếu có hiện tượng gì là cho bắt ngay.
Thuật liền hiểu đây chính là cơ hội, không nói nhanh có khi lại lỡ dịp, vội nghiêm mặt, như người cấp dưới nói với người cấp trên, với một giọng nửa kín nửa hở, như vừa khám phá ra tốp gián điệp hay phần tử phản đảng, vội nói:
- Báo cáo chủ tịch, quả là chuyện này có liên quan đến ông Mải, nhưng có lẽ chủ động lại là người khác kia ạ.
Trường cũng cảm thấy rất nhanh vấn đề trở nên nghiêm trọng, vội hỏi:
- Người nào, người nào chủ động? Bác cứ nói người nào dám cả gan ném đá giấu tay để em trị thẳng tay, chứ không thể có cái kiểu dân chủ quá trớn thế được!
- Người này có nói ra chú cũng không trị được đâu.
- Ai? Ai mà bác bảo em không trị được!
- Ông Cải…!
Trường như nghe sét đánh bên tai, không còn giữ được bình tĩnh, vội dồn:
- Ông Cải làm sao? Làm… sao? Ông ấy mới chân ướt chân ráo về huyện…
Sự tức giận cùng câu nói đầy nghi hoặc của Trường làm Thuật cảm thấy đã đến lúc có thể nói thẳng ra được rồi, liền bảo:
- Chú cứ bình tĩnh để tôi kể rõ ngọn ngành cho mà nghe…
Ở nông thôn ngày nay vẫn còn thành kiến với những người đàn ông bỏ vợ, đàn bà rẫy chồng lắm, chứ chưa hoàn toàn tân tiến được đâu. Thằng Bính năm nay mới hai mươi sáu tuổi, nhưng đã qua một đời vợ, dẫu chưa con sống cũng có con chết, dù lý do ly hôn không ở phía thằng Bính, nhưng chính nó là người đứng nguyên đơn. Dẫu cô vợ không ký và khi ra toà đã nhận hết ba bảy hăm mốt lần ăn nằm với cái thằng công nhân trạm bơm điện đồng Chua, thành thật khai báo, mong chồng cùng hai bên nội tộc tha thứ. Nhưng ông chú ruột là Thuật, bấy giờ làm phó chủ tịch xã, vẫn một mực bảo cháu mình là gia đình giác ngộ, có bố liệt sĩ, lại có tới hai chú ruột, tức là Thuật và Lận, một người làm phó chủ tịch uỷ ban xã, một người làm phó chủ nhiệm hợp tác xã, rồi cả bà cô ruột, tức là Ngấn, vợ Trường, chẳng gì cũng phu nhân chủ tịch huyện. Còn mẹ con cháu thì đường đường gia đình liệt sĩ, được ưu tiên về mọi mặt, lấy đâu chả được vợ, việc gì phải lấy cái con mèo mả gà đồng ấy. Nhưng được ưu tiên về mọi mặt những gì không biết, lấy đâu chả được vợ chưa thấy, chỉ thấy khắp cái làng Phương Trì đông dân nhất xã, chỉ tính những nhà có hộ khẩu bìa vàng đã gần ba trăm gia đình, còn nếu tính riêng con gái, thôi thì cứ gọi là con gái, chứ ma nào biết những đứa nào đã ăn chung ngủ chạ với đứa con trai nào mà tách bạch con gái với đàn bà bây giờ. Nếu tính riêng con gái, thôi thì cứ gọi là con gái, làng này dễ có tới mấy chục đứa chưa chồng. “Xoàn xoạt như lá chuối khô; trông về ngõ Bắc chín cô chưa chồng”, là mới một con ngõ xóm Bắc mà người ta đã vận vè thế rồi, còn cả làng những bảy con ngõ, có ngõ dài hun hút đến nỗi người đầu ngõ, kẻ cuối ngõ chỉ đi làm đồng mới chạm nhau, còn không, cả năm cũng chỉ đến nhà nhau mỗi lần vào dịp tết nhất, thì không biết là còn bao nhiêu câu vè và bao nhiêu cô gái chưa chồng. Thế mà cái sự ưu tiên về mọi mặt đối với Bính đâu không thấy, chỉ thấy về mặt lấy vợ Bính thiệt đơn thiệt kép, hỏi đến mấy đám cũng không đâu nhận lời. Thế mới biết ở vùng quê nghèo nàn và lạc hậu, người ta thành kiến với đàn ông bỏ vợ, đàn bà rẫy chồng ghê lắm. Đám nào cũng ngại cái chỗ nhà ấy không biết thế nào, khéo không lại phải dớp cái con vợ trước, chỉ có trẫm mình xuống vũng trâu mà chết. Cũng may, giữa lúc thằng Bính chạm ngõ mấy đám chưa đám nào thành, thì cái Viên bị giảm biên chế về nhà làm ruộng, nên mới yêu thằng Bính, chứ không, chắc gì một người như ông Mải lại để con gái yêu thằng Bính. Nhưng cũng chỉ mới yêu thôi, còn lấy lại là chuyện hồi sau, chưa biết thế nào mà nói trước. Chỉ biết, tối hôm ấy Bính theo lời ông chú ruột sai khiến đến rủ bằng được Viên ra bờ đầm sen để “khai thác tin”. Và tin Bính mang về cho ông chú chẳng những không giải toả được sự phân vân đến mất ăn mất ngủ của Thuật, mà còn làm chú lo lắng bội phần. Đến nỗi mới sớm ra đã hộc tốc lên huyện, đi vội cổng sau vào thẳng phòng ông em rể đứng đầu huyện.
Trường vừa nghe, vừa đoán già đoán non về cái sự Cải xuống nhà ông Mải. Cái ông này, mới chân ướt chân ráo về huyện, muốn nắm tình hình thì khó gì, cứ lần lượt gọi từng trưởng phòng ban, thậm chí từng thường vụ, thường trực huyện uỷ, uỷ ban đến báo cáo, xem có bố thằng nào dám từ chối. Việc gì phải lần mò xuống làng xã, vào tận nhà dân cho vừa khổ mình, lại vừa phiền hà dân chúng cơm nước, ăn ngủ. Đúng là cái thân làm khổ cái đời. Nhưng mà này, sao chỉ đến mỗi nhà ông Mải mà lâu thế hử? Từ buổi sáng, đến cả buổi chiều, rồi còn ngủ lại qua đêm, sáng hôm sau mới đạp xe về huyện sớm à? Có chuyện gì mà nhiều thế, Cải và Điền nói chuyện với nhau suốt đêm ư? Cái Viên nói với thằng Bính như thế, khi hai đứa khoác vai nhau đi từ nhà nó ra bờ đầm sen thì đúng rồi còn gì. Bắt chết quanh đi quẩn lại cũng chỉ là chuyện Điền bất mãn vì bị kỷ luật. Trường vừa nghĩ đến đấy, vội nhoài người qua chiếc bàn uống nước ngăn cách hai người, hỏi Thuật:
- Điền hết hạn kỷ luật lưu Đảng chưa?
Thuật ngồi ngây ra mươi giây, rồi ngập ngừng bảo:
- Hình như còn mấy tháng nữa mới hết thì phải.
Trường nhìn ông anh vợ, cười:
- Chán bác quá, mang tiếng là phó bí thư đảng uỷ mà không biết đảng viên của mình kỷ luật lưu Đảng được bao lâu rồi!
Thuật ngượng ngùng, với tay lấy chén nước trên khay đưa lên môi, lại vội đặt xuống, hỏi:
- Nhưng ý chú là thế nào, tôi chưa hiểu?
Trường không cần ý tứ em rể anh vợ, nói ngay:
- Bác về trao đổi với ông Sa, xem lại thời gian lưu Đảng của Điền được bao lâu rồi. Nếu được quá hai phần ba thời gian, thì thường vụ đảng uỷ làm văn bản đề nghị lên đây, để đưa ra thường trực huyện uỷ xét giám thời hạn lưu Đảng cho hắn ta.
Thuật nghe rõ từng lời Trường nói, nhưng sao trong đầu vãn ù ù cạc cạc như vịt nghe sấm, chưa hiểu thế là thế nào, đúng hay không đúng, vì sao lại phải làm thế, làm thế để đạt mục đích gì? Thuật cứ ngồi ngây cán tàn. Giọng Trường lại bing bung bên tai:
- Còn cái cô gì em tay Điền, con gái út ông Mải, em sẽ bảo xí nghiệp cơ khí nông nghiệp huyện cho nó lên làm hành chính văn thư.
- Nhưng nó mới yêu thằng Bính nhà mình.
- Thì cứ để hai đứa nó yêu nhau.
- Thế sao được. Chồng làm ruộng, vợ thoát ly…
- Không được cũng phải được. Bác không nhớ các cụ xưa dạy “nắm xôi nhét miệng” à. Nên tạm thời cứ thế đã. Lùi một bước để tiến hai bước, bác không hiểu ý em. Lúc này không hoà hoãn, thêm bạn bớt thù, tranh thủ cảm tình với cha con nhà ông ấy, cũng là tranh thủ cảm tình với thiên hạ, mà cứ nhất mực hơn thua thì không khéo bị cô lập. Bây giờ là thời ông Cải làm bí thư, mà ông Cải lại là chỗ thân quen với nhà ông Mải. Bác có hiểu ý em không?
“Bây giờ là thời ông Cải làm bí thư, mà ông Cải lại là chỗ thân quen với nhà ông Mải. Bác có hiểu ý em không?”. Trường nhắc lại câu nói ấy một lần nữa với ông anh vợ, nhưng thực, lại là nói với chính mình.
Trong đầu Thuật lúc này cũng tan dần những tiếng binh bung ù ù cạc cạc, nhưng cũng chưa thật nắm bắt được ý định của ông em rể. Thuật nói:
- Giờ thì tôi hiểu phần nào ý chú rồi. Nhưng tôi hỏi chú, còn cái việc ông Mải làm đơn xin ra đảng thì xử lý thế nào?
Trường định nói, việc ấy không phải của anh em mình, vì trên thực tế đơn ông Mải gửi lên tỉnh uỷ, chứ có gửi đảng uỷ, huyện uỷ đâu. Nhưng lại nhìn Thuật như đánh bài ngửa:
- Còn em, còn bác, không bao giờ ông Mải lại bỏ Đảng đâu. Đấy chẳng qua chỉ là cái cớ để ông ấy đi bêu riếu cán bộ xã các anh thôi.
Thuật nói một câu ngay thuồn thuỗn, rõ là anh vai u thịt bắp thấy sao nói vậy: - Chẳng lẽ chỉ bêu riếu xã thôi ư, còn huyện nhẽ nào không có gì đê bêu riếu! Nhưng ông em rể cũng không phải tay vừa, nói như để xoa lòng ông anh vợ, cũng là để ngầm nhắc anh còn là chủ tịch xã dưới quyền lãnh đạo của tôi nữa đấy, chứ không chỉ là ông anh trưởng đâu mà nói năng xách mé thế:
- Ai làm việc mà chẳng có khuyết điểm. Nhưng nhớ là đừng có ếch chết tại miệng, cứ mặc cho ông ấy đi bêu, chỉ sợ không đi được mãi mà bêu!
Trường vừa nói đến đấy, Thuật vội đặt chén nước cạch xuống bàn, nói ngay: - Nhưng ông ấy chưa đi đâu, thì ông Cải đã đến tận nhà hỏi han cặn kẽ rồi! Ông Cải đến tận nhà hỏi han cặn kẽ rồi, thật thế sao? Chỉ hỏi những chuyện ở xã, hay còn những chuyện gì gì nữa. Chẳng lẽ chỉ bêu riếu xã thôi, còn huyện nhẽ nào không có gì để bêu riếu!? Trường nhẩm lại mấy câu Thuật vừa nói mà bỗng giật mình, nhưng vẫn làm ra vẻ bình thản, hỏi chủ tịch xã Tiên Trung:
- Trường học xã quyết toán xây dựng xong chưa?
Thuật hiểu ngay đằng sau câu hỏi uacute;, chú bảo cái này. Thế thôi!
- Thế mà nó lại thay quần áo! Hay là…
Ông em lại nghĩ ông anh sợ hay là thằng cháu không sang, bắt đi tìm lần nữa, vội nói như đinh đóng cột:
- Thôi, bác vào trong nhà uống nước. Thể nào cháu nó cũng sang bây giờ đấy! Lận vừa nói vừa kéo tay ông anh vào cổng. Nhưng bỗng Thuật dừng chân, quay lại hỏi:
- Thím ấy với các cháu có nhà cả chứ?
Lận chẳng nghĩ ngợi tý gì về câu hỏi của ông anh, đáp ngay thật:
- Các cháu đang học ở nhà dưới. Còn nhà trên chỉ có mỗi nhà em đang xem ti vi. Chẳng biết bác gái bên ấy thế nào, chứ nhà em từ hôm mua được cái ti vi giải hệ về đến nay, say như say thuốc lào, cứ cơm tối xong là xem mê xem mải, có hôm chẳng còn biết giờ giấc, nghỉ ngơi là gì nữa.
Ông anh tiếp lời bằng một câu đanh gọn như ra lệnh:
- Nhưng tối nay phải nghỉ xem. Chú vào nói khéo với thím ấy hãy sang bà Quý, hay nhà Liên xem nhờ một tối, để anh em tôi ở nhà bàn công việc, bao giờ xong, sang gọi hẵng về. Thế nhá. Chú vào nhà trước đi, tôi đứng đây chờ thằng Bính. Nhớ bảo thím ấy đi sang hàng xóm ngay đấy!
Đến lúc ấy, cái đầu củ chuối của Lận mới lờ mờ cảm thấy tính chất nghiêm trọng của công việc mà lát nữa đây mình và đứa cháu đích tôn được nhận từ ông anh trưởng. Nhưng cũng phải mất mươi mười lăm phút, kể từ lúc Hoan, vợ Lận, hậm hực bước lịch bịch xuống sân, ra ngõ, sang nhà bà Quý xem nhờ cái ti vi đen trắng loằng nhoằng đến loé cả mắt, mới thấy thằng Bính ăn mặc gọn gàng, áo sơ mi trắng cộc tay bỏ trong quần âu phục xanh xi lâm, trông oách và chững chạc hẳn lên. Cả hai ông chú đều khen anh cháu trai mặc bộ này hợp. Nhưng ông chú Thuậl khen xong trong lòng lại thấy lo lo, không biết thằng này định đi đâu mà diện thế kia, hay nó cũng đang định đi gặp cô con gái ông bà Mải. Chẳng có lẽ. Mới sáng nay ở chỗ cân lọn, con bé có cử chỉ hỗn hào, dám giật thốc tờ danh sách những hộ bán lợn từ tay mình, thằng Bính phải chạy ra nói mãi mới đưa trả; rồi sau đó lại bực tức bảo mẹ kéo lợn về, chứ không bán nữa. Lỗi là do thằng Bính nói với bà Mải một câu không khéo, làm bà ấy, rồi cả con gái, đều giận quá hoá mất khôn, đùng đùng kéo lợn về, chứ cái giống lợn đã trói chỏng chơ bốn vó cho lên xe, còn kéo về thả vào chuồng nuôi sao lớn mà nuôi. Thuật nghĩ thoáng, rồi hỏi cháu:
- Mày định đi đâu hả Bính?
Thằng cháu đưa tay lên vò vò nắm tóc rối trên đầu, ấp a ấp úng mãi mới lúng búng như người ngậm hạt thị:
- Dạ, cháu…cháu định sang nghe chú Lận bảo gì, rồi nhân thể…
Ông chú lõi đời mới nghe đến đấy đã như đi guốc trong bụng thằng cháu đích tôn, liền nửa đùa nửa thật nói như một sự tình cờ:
- Đến nhà con Viên hả? Vậy thì tao cũng nhân thể nhờ một việc.
Rồi không chờ thằng cháu xác nhận lời ông chú thật giả bao nhiêu phần trăm, Thuật đưa tay kéo thằng Bính lại gần, nói nhỏ chỉ đủ cho ba người nghe, thực ra chỉ hai chú cháu Thuật nghe rõ, chứ Lận cũng phải nghiêng đầu ghé tai gần vào, im lặng lắm mới nghe lõm bõm lời Thuật dặn cháu.
Thế nên, ngay lúc ấy Lận chưa thể hiểu hết tính chất nghiêm trọng của việc Thuật cho thằng Bính đi dò la tung tích Cải xuất hiện ở nhà ông bà Mải bên làng Phương Trà, hay ở xã này thì cũng thế, đều là lãnh thổ Tiên Trung, mà chẳng lẽ người đứng đầu chính quyền xã lại không biết, thì còn gọi gì là quản lý địa phương nữa. Nhưng nếu chỉ có thế thì làm gì quan trọng đến vậy, bất quá cũng như một lần cấp trên về cơ sở không báo trước. Đã không báo trước thì chúng em biết đâu tổ chức đón tiếp mà chả có sơ suất. Ối dào ơi, ngay cả đến báo trước tới bốn năm ngày, như hôm lâu đoàn thanh tra của tính về làm việc đất đai kiện cáo, đến gần trưa giữ ở lại ăn cơm ra chiều giữ kẽ không ở, sau lại phải đưa mỗi vị cái phong bì, còn tốn gấp mấy bữa cơm gà cá gỡ ấy chứ. Nhưng vẫn chưa ngặt bằng lúc ra xe đi, một bố trong đoàn làm như khi ấy mới sực nhớ, hớt hải quay lại kéo tay chủ nhiệm ra một chỗ thì thầm, có lợn giống lai kinh tế, giải quyết cho mỗi anh em trong đoàn một đôi thì tốt quá. Thật là tội chết giáng xuống đầu bỗng dưng. Trại lợn hợp tác em, đúng là cơ sở chăn nuôi điển hình của huyện bao nhiêu năm nay thật, nhưng mới tuần trước xuất chuồng một lúc hon trăm con lợn giống, toàn lợn lai ép một (F1), con nào con ấy đẹp như tranh; nhưng hôm nay thì thật không còn đàn nào có thể xuất chuồng được ạ! Em hứa với các bác, khi nào có, em thuê xe chở đến tận cơ quan cho. Nói thế là thật lòng, là nhiệt tình, là tận tâm vì đồng chí, tận sức vì cấp trên lắm lắm. Vậy mà mấy ngày sau Lận lên huyện họp, ông trưởng ban thanh tra huyện lại gọi ra ngoài rỉ tai, cậu giở quá, các bố ấy đã bảo giải quyết cho mỗi người một đôi lợn giống thì kể cả trại không có cũng phải vào nhà dân lùng bằng được, chứ ai lại chối đây đẩy thế bao giờ. Khổ quá, em đâu dám chối, chỉ bảo khi nào có sẽ thuê xe chở đến tận cơ quan… Cậu thật thà quá đấy. Các bố ấy bắt lợn ở hợp tác cậu đâu phải mang về nuôi, mà chỉ lên đến chợ Đôi bán tống bán tháo, là mỗi đôi lợn mỗi ông đã có khoản tiền bằng cả tháng lương rồi. Thế ạ, em đâu có biết. Lúc ấy em mà biết ý định của cấp trên như anh vừa nói, thì mỗi người một đôi, chứ vài đôi em cũng chỉ hô một tiếng là dân phải mang ra ngay tắp lự.
Đã phải một lần thế, lần này dẫu chỉ nghe lỏm ông anh nói với thằng cháu đầu sai vậy, Lận đã thấy vừa lo lo lại vừa mừng mừng. Lo là lo bí thư huyện uỷ về tập hậu thế này, không vào bất cứ nhà cán bộ chủ chốt nào của xã, lại chỉ đến mỗi nhà ông Mải, một người đang bất mãn làm đơn xin ra đảng, hẳn là lành ít dữ nhiều. Nhung trong hoạ vẫn có phúc, trong nỗi lo vẫn lấp ló điềm mừng, thế lại hoá ra Tiên Trung là xã được bí thư chú ý đến đầu tiên, kể từ khi ông ấy về huyện. Mà phàm đã là đầu tiên, thì bao giờ cũng để lại ấn tượng. Chưa biết tốt xấu ra sao, hẵng cứ để lại ấn tượng cái đã. Thuật nghe ông em giãi bày tâm trạng, liền bảo:
- Trước tiên phải thấy cái việc ông Cải vừa chân ướt chân ráo về huyện đã xuống thăm nhà ông Mãi là hợp đạo lý cái đã. Chẳng gì thì những năm chống chiến tranh phá hoại của Mỹ, đơn vị pháo cao xạ của ông ấy cũng cắm chốt ở đây hàng năm trời…
Ông anh túc trí đa mưu mới nói đến đấy, ông em đã như chợt nhớ:
- Ngày ấy chị Phượng nhà ta làm chủ tịch uỷ ban xã, nghe họ đồn hai ông bà ấy hay đèo nhau đi họp hành đêm hôm…
Câu nói của Lận làm Thuật cũng thấy lòng cồn cào, pha chút ghen tuông, bực dọc, nhưng vội gạt đi, không để việc nhỏ lấn át việc lớn:
- Chú bấy giờ còn nhỏ, biết gì mà hớt lẻo. - Rồi tiếp mạch vừa nãy - Nhưng chắc là ông Cải không chỉ đơn thuần xuống thăm, mà công đôi việc, vừa thăm, vừa tìm hiểu tình hình của xã cũng nên. Mà đã tìm hiểu tình hình của xã lại đi tập hậu thế này là nhất định có chuyện, chứ không, dù là ngày nghỉ cũng báo qua cho xã như mọi lần chú Trường vẫn đưa khách trên tỉnh về ấy.
- Tìm hiểu tình hình xã thì thể nào cũng cho gọi bác với ông Sa đến báo cáo chứ, sao lại về cả ngày mà im hơi lặng tiếng thế là thế nào.
- Ấy đấy! Cái khó hiểu chính là ở chỗ ấy. Sự nghiêm trọng cũng chính là ở chỗ ấy đấy!
- Nhưng em hỏi thật, đích thị bác nhìn thấy ông Cải đạp xe về Phương Trà, vào nhà ông Mải, hay bác chỉ nghe ai nói?
Thuật chờ đợi mãi chưa thấy cháu về đã sốt cả ruột gan, lại nghe em hỏi dồn đến chân tường, sẵng:
- Nhìn thấy sao còn phải cho thằng Bính đi tận nơi dò la tin tức làm gì cho nhọc lòng. Mà sao cái thằng chết binh chết dịch đi lâu thế không biết nữa!
Thằng Bính không chết binh chết dịch, nhưng tý nữa thì chết đòn.
Hai đứa dẫn nhau ra bờ đầm sen làng Phương Trà ngồi tự tình.
Viên và Bính từ lúc đưa nhau ra ngồi bên bờ đầm sen, cũng thôi những câu đối thoại dấm dẳng, kiểu như ta nghe được khi hai người mới ở nhà Viên đi ra. Họ ngồi sát bên nhau, giữa khoảng trống của hai khóm chuối loà xoà tàu lá. Cách đó không xa, cũng lại một chiếc chòi vệ sinh làm vỏng xuống đầm, có hai gốc tre cộc buộc vào nhau làm cầu cho mỗi khi có người ra “ngồi đồng” đi lại cho tiện. Hai người đều đã ở cái tuổi ngoài nhăm, Bính năm nay hai mươi sáu, còn Viên hơn Bính một tuổi, năm nay hai mươi bảy, nên cũng khó có thể nói là chưa biết một tý gì về cái khoản kia. Thế nên, vừa đưa nhau ra bờ đầm ngồi chưa nóng chỗ, Bính đã tý máy tý mẻ. Đầu tiên còn một tay luồn dưới vạt áo sơ mi trắng ngắn tay của Viên, rồi cứ thế đặt bàn tay lên bụng xoa xoa, làm Viên lúc đầu còn định kéo tay Bính ra, sau cứ thấy nhổn nhột, buồn buồn trên làn da bụng thì lặng đi. Đến khi Bính rờ rờ thế nào, lại nhoáng cái đã cởi được chiếc áo con trên ngực Viên ra, rồi luồn cả hai tay dưới làn áo mỏng để nắm chặt lấy hai bầu vú căng cứng của Viên xoa xoa, nắn nắn thì Viên thấy tê mê, rạo rực hết cả người. Một tay Viên cũng rờ rờ xuống phía dưới của Bính, nắm được cái vật dài dài, nho nhỏ cứng như thanh sắt của hắn ta mà xoa xoa, vuốt vuốt. Bỗng Viên bật ngồi dậy, làm Bính luống cuống rút vội tay ra khỏi bộ ngực ngồn ngộn của Viên, suýt nữa đứt cả mấy cái cúc &aacut;i tuổi các cụ hay bảo: “Trai ba mươi tuổi đanạxoan; gái ba mươi tuổi đã toan về già”. Dậm chưa già, nhưng cũng không còn non trẻ đối với cô gái ở một vùng quê có tập quán lấy vợ lấy chồng từ khi mới nứt mắt.
Ở một vùng quê có tập quán lấy vợ, lấy chồng từ khi mới nứt mắt, nên dẫu Dậm chưa già, thì cũng không còn là non trẻ so với nhiều cô gái khác.
Nhưng công bằng mà nói, sự muộn mằn ấy không thuộc về cô con gái hiền thục, dịu dàng, mà lại ở bà mẹ khó tính và “lạc hậu”, như anh con rể Đĩnh có lần thuyết phục mẹ vợ không được, gắt lên thế. Bà cụ goá chồng sớm, không có con trai, được hai cô con gái, thì cô chị lấy Đĩnh, còn mỗi mình Dậm, bà cụ đã nói ra mồm là nhất định lấy rể, chứ không cho đi làm dâu nhà nào, dẫu đó có là nhà ông hoàng bà chúa cũng mặc. Bà cụ lo còm cõi tuổi già trong cái dinh cơ không đến nỗi rớt mồng tơi, nhưng cũng chưa vào loại có bát ăn bát để. Bà cụ lo còm cõi tuổi già cũng còn một điều không lấy gì làm khó hiểu nữa, đối với những người đã ở cái tuổi gần đất xa trời.
Thế nên, từ sau cái chết của ông Đang, bà cụ Dậm càng lo còm coi tuổi già trong cái dinh cơ mà sự nền nếp hiện ngay ra từ cách chọn hướng làm nhà. Mặc dù cô con gái đã bước sang cái tuổi “toan về già”, nhưng bà mẹ vẫn giữ mực lấy rể chứ không cho đi làm dâu, dẫu anh con rể làm phó chủ tịch xã không ít lần bảo mẹ vợ “lạc hậu”, bà cụ vẫn cứ như điếc đông điếc đặc, không để vào tai lấy nửa lời.
Vậy mà bây giờ…
Chẳng lẽ bà cụ đã nhận ra một sự thật hiển nhiên ở làng, là cánh nam giới không mấy người còn nghĩ đến đận đi ở rể như “chó cui gầm chạn” nữa rồi sao. Vả cũng không mấy người làm cha, làm mẹ nào ở làng bây giờ còn nghĩ đến việc cho con cái đi ở rể. Đành rằng cái việc cưới dâu, hay gọi rể, cũng đều là chuyện dựng vợ, gả chồng cho con cái. Nhưng cái sự ở rể, dẫu sao vẫn có cái gì như anh nhà trai chịu nước nép với chị nhà gái, nên chẳng mấy ai màng. Vậy mà lại cứ bắt con gái tìm một người vừa đôi phải lứa, lại ở gần nữa, thì nội ở cái làng lấy vợ lấy chồng từ khi mới “nứt mắt” này, giờ đến bói không ra anh chàng nào tâm đầu ý hợp. Thế nên, phong phanh biết con gái với cái anh Điền người bên Phương Trà, trước có dạo làm chủ nhiệm hợp tác, lại bạn học với thằng Đĩnh, chồng con Lơm (tên cúng cơm của Liên bây giờ) hình như đã có ý tứ với nhau, bà cụ xem ra thay đổi cách nhìn nhận người chồng tương lai của cô con gái út. Còn Dậm cũng hay ra ngoài nhà chị gái hơn. Nhưng khác với nlìững cô gái ở cái tuổi đang xoan vẫn “tư lệnh phòng không” mạnh mẽ và dạn dĩ, Dậm đúng là “ra đa cảnh giới” hăm bốn trên hăm bốn, như mấy cô gái làng Phương Trà kháo nhau khi nói về Dậm, lúc nào cũng thận trọng, dè dặt thăm dò đối phương, chứ không mấy khi chủ động điểm hoả trước. Mặc dù Dậm chạm trán Điền như cơm bữa ở nhà vợ chồng chị gái.
Mãi cho đến cái lần Điền sang nhà Đĩnh ôn bài, ăn cơm tối xong ngủ luôn ở đấy để hôm sau cùng nhau đi học sớm, hai người mới có dịp hỏi han trò chuyện với nhau lâu. Cơm tối xong, trong lúc Đĩnh đạp xe lên thị trấn lấy cái bình ắc-quy ban sáng mang đi sạc điện, thì Điền ngồi thơ thẩn ở hiên, còn Dậm đang chơi với đứa con nhỏ của vợ chồng Đĩnh ở ngoài sân. Không biết trong đầu Điền khi ấy đang nghĩ gì, lại ngay thật hỏi Dậm:
- Chồng cô Dậm đi bộ đội, hay làm gì, tôi chưa biết đấy nhá?
Dậm hơi hếch cái mặt bầu bầu, với đôi mắt to ướt chườiì chượt, người ta bảo đàn bà mắt ướt là chúa dâm ngầm, liếc nhìn Điền, miệng dẻo kẹo:
- Chồng em làm công an!
Vợ Đĩnh vội dừng tay giần gạo, nhìn cô em gái mắng yêu:
- Chỉ ăn không nói có! Đã chó nào lấy mà bảo chồng em làm công an.
Mặt Dậm bỗng chín như quả cà hồng. Tưởng đã là một sự xác nhận. Vậy mà Điền lại quá thật thà nói với Liên, chị gái Dậm:
- Em tưởng cô ấy lấy chồng lâu rồi chứ?
Vợ Đĩnh cũng không vừa, nói trong tiếng cười như trêu đùa, lại như vun vào:
- Lấy ai. Lấy chú hả?
Dậm chạy lại một tay bưng miệng như để ngăn tiếng cười đang chực bục ra, một tay phát đen đét vào vai chị gái, rồi quay lại bế vội thằng cháu ra cầu ao đứng nhìn vào. Chẳng biết nhìn ai, chị Liên đang dần gạo, hay Điền đang ngồi sững sờ trên bậc cửa. Chỉ biết Dậm cứ đứng ở cầu ao đăm đắm nhìn vào cái sân sáng lờ mờ từ chiếc đèn soi cá treo ở cửa nhà trên.
Sau hôm ấy, cứ đúng ngày mồng năm hàng tháng, Điền y hẹn qua nhà Đĩnh rủ anh đi học, lại gặp Dậm lẩn quất bế cháu, thái rau lợn, dọn dẹp sân xướng ở nhà chị gái. Không ai hẹn ai mà chẳng lần nào sai.
Đến một hôm. Điền sang rủ Đĩnh đi học, thấy Dậm ngồi sàng gạo ở nhà ngang. Điền dựng xe ngoài sân, vào nhà trên ngồi uống nước, chờ Đĩnh còn chạy nháo ra đồng tháo ít nước vào diệc mạ. Bỗng ngoài sân có tiếng nổ đanh như tiếng pháo. Điền vội chạy ra, chiếc lốp xe đạp của anh phía sau bị vỡ tung một miếng, toạc một mảng cả xăm lẫn lốp ra ngoài vành. Thấy thế, Dậm cũng chạy lên, đứng ngó chỗ xăm lốp vỡ xuýt xoa tiếc rẻ, rồi quay ra, đi biến. Lúc lâu, Dậm quay lại, tay dong chiếc xe đạp Phượng Hoàng nữ màu rêu. Dậm dong chiếc xe vào đến sân, nói lấp lửng:
- Ai cần xe, cho thuê đây!
Đĩnh bấy giờ cũng vừa về, đang rửa chân tay ngoài bể nước, quay vào bảo cô em vợ:
- Dì cho chú Điền đổi xe để chú ấy đi không muộn. Dì ở nhà có đi đâu thì mang xe của chú Điền ra quán vá xăm, khâu lốp đi tạm cũng được.
Điền còn đang ngập ngừng, không biết có nên hỏi mượn, thì đã nghe Dậm nửa nếp nửa tẻ:
- Có thuê thì cho, chứ mượn thì không được. Cái xe đạp bằng cả con trâu đấy, anh ạ!
- Tôi làm gì ra tiền mà thuê xe đi học cơ à!
- Không làm gì ra tiền thì làm cái khác!
Dậm nói rồi khúc khích cười, làm Điền không còn đường nào mà đối đáp. May vừa lúc Đĩnh ở ngoài bể nước đi vào, nhìn cô em vợ nói mà như mắng:
- Đổi xe cho chú ấy đi không muộn. Còn ẫm ờ mãi.
Dậm xưa nay vẫn kính nể ông anh rể, coi Đĩnh như người quyết định mọi công việc trong gia đình, mỗi khi có công to việc lớn cũng đem sang bàn bạc, hỏi ý kiến chị gái, anh rể, có khi chị gái chưa thông, nhưng anh rể bảo được, là cứ làm. Nên khi nghe Đĩnh nói như mắng đổi xe cho chú ấy đi không muộn, Dậm chẳng những không thấy giận, còn thấy nhẹ bẫng cả người, liền đưa mắt nhìn xéo Điền đang cúi xuống chiếc xe, cố nhét chỗ xăm vỡ vào trong lốp mà mãi chưa xong.
Xong đợt học, Điền mang xe đạp đến nhà Dậm trả.
Đây là lần đầu tiên Điền bước chân vào nhà Dậm. Một ngôi nhà xây gạch pa-panh một thò hai thụt, nằm lọt thỏm trong con ngõ nhỏ giữa làng. Mái nhà phần dưới lợp ngói móc, nửa phần trên lợp rạ, đang là một kiểu nhà được nhiều nông dân trong vùng ưa chuộng. Vì tiền mua ngói tốn kém mà rạ lại sẵn, lợp rạ còn mát hơn lợp ngói. Chả thế từ bao đời nay ông cha mình chỉ toàn ở nhà rạ. Trước nhà cũng có một mảnh sân gạch để phơi phóng, như bao gia đình khác trong làng. Chỉ khác là trên cái vồng con cạnh nhà thiếu vắng những cây ăn quả lâu năm loà xoà cành lá, như thường thấy trong vồng những nhà có người đàn ông. Thay vào đó là mấy khóm chuối cao vổng lên, một đám rậm rì mồng tơi, rau đay, cùng mấy cây không biết là cam hay chanh, thấp lè tè mà đã thấy chĩu chịt những quả là quả. Nhìn thoáng bên ngoài cũng biết nhà không có người đàn ông, nhưng cũng không thể nói những người chủ nhà ăn ở tềnh toàng, tạm bợ. Tềnh toàng sao không thấy có vật dụng để vạ vật trong sân, ngoài ngõ. Tạm bợ sao lại có ngôi nhà xây một thò hai thụt, cửa chính hướng nam, với cái sân lát gạch, lại còn đan cái nan nia thế kia. Điền dắt xe vào ngõ, không đánh tiếng, cứ lặng lẽ dựng xe dưới cửa nhà bếp, rồi đi thẳng ra giữa sân đứng ngáo ngơ, ra ý chờ có nhìn thấy ai ở nhà, mới lên tiếng chào cho đĩnh đạc. Nhưng mãi vẫn không thấy bóng người, Điền đành lên tiếng:
- Nhà không có ai, sao cửa rả lại mở toang cả ra thế này?
Lúc ấy Dậm mới từ sau nhà vừa nói, vừa rảo bước vào:
- Em đang hái nắm lá ngót. Hôm nay giở giời hay sao rồng lại đến nhà tôm thế này?
- Rồng rắn gì đâu. Tôi mang trả Dậm cái xe đạp và xin được có lời cảm ơn Dậm đã cho tôi mượn xe mấy hôm để đi học.
Dậm đi thẳng vào bếp để cái rá, trong có nắm lá ngót vừa hái. Rồi quay ra, nhìn Điền dáng cao cao, vận bộ quần áo bộ đội chưa cũ nhưng cũng không còn là mới, chỉ được cái màu vải vẫn còn xanh, áo bỏ trong quần chững chạc, khuôn mặt chữ điền với đôi mắt to và sáng. Dậm nhìn Điền, cười:
- Anh coi em là người thế nào, lại nói năng khách khí thế nhỉ?
Điền bảo:
- Tôi không khách khí đâu. Nhưng làm ơn thì phải được lời cảm ơn chứ!
- Thôi thôi, ơn huệ gì! Mời anh vào trong nhà uống chén nước đã.
Nhưng Điền vẫn như còn ngập ngừng, đã vào đến cửa lại dừng chân. Dậm thấy vậy, vội không ai khảo đã xưng:
- Mẹ em hôm nay sang ăn giỗ nhà ông chú bên đằng ngoại, chiều tối mới về.
Quả nhiên, sau câu nói như liều thuốc an thần của Dậm, Điền như bớt ngại ngần, đôi chân bước qua bậc cửa có phần mạnh bạo hơn lúc còn đi dưới sân gạch. Điền đi thẳng vào, ngồi xuống chiếc ghế đẩu để bên cái bàn con uống nước ở gian giữa nhà. Khi Điền ngẩng lên không thấy Dậm đâu, tưởng chủ nhà xuống bếp nấu nước, vội bảo:
- Thôi đừng nước nôi gì nữa, cô Dậm ơi! Tôi mang trả cái xe, nhân tiện thăm cửa nhà một tý rồi về, còn xuống ao tranh thủ lấy ít bùn lên úp vào mấy gốc chuối trong vồng, không có mấy trận mưa to phơi ráo cả gốc rễ ra rồi.
Nhưng lại nghe tiếng Dậm từ trong buồng nói vỏng ra:
- Anh chờ em một tý. Em xong rồi đây.
Lát sau, Dậm đi ra nhà ngoài. Thiếu chút nữa Điền không sao nhận ra. Dậm lúc này đã thay bộ quần áo khác. Chiếc quần phin hoa lấm tấm xanh, chiếc áo sơ mi ngắn tay cùng loại vải quần, trông nền nã, xinh đẹp hẳn so với ban nãy mặc quần đen, áo xanh si lâm. Hơn nhau manh áo tấm quần, các cụ nói quả không sai. Dậm vừa thay bộ đồng màu mặc mát ở trong nhà vào, trông như cô gái mười tám đôi mươi, chứ không ai dám bảo gái ấy đã ở cái tuổi “toan về già”. Từ làn da, nét mặt, đến cái nhìn của Dậm giờ đều khác. Tươi mát, dịu dàng, đắm đuối thế nào ấy, rất khó nhận xét. Điền đưa mắt lướt nhanh Dậm và thầm nghĩ. Rồi không biết từ miệng Điền, hay miệng ai, bỗng buột ra một câu mà mãi sau này, Điền vẫn không sao cắt nghĩa được vì cớ gì khi ấy mình lại có con mắt nhận xét tinh tế, chính xác và đúng lúc, với một câu có cánh đến vậy: “Trông em đẹp hẳn ra đấy, Dậm ơi!”. Dậm không những không chối, mà còn nhìn Điền đắm đuối, bối rối hỏi: “Thật không anh? Trông em đẹp hẳn ra thật à!”. Điền cũng đưa đôi mắt to và sáng, tình tứ nhìn thẳng vào đôi mắt long lanh ướt của Dậm, vừa định mấp máy môi, thì Dậm đã chủ động bíu lấy cổ Điền, rồi nhanh như chớp, kiễng cả hai chân lên cuống quýt áp đôi môi của mình lên làn môi Điền mà hà, mà hít lấy, hít để cái hương vị ngọt ngào, ngai ngái, gấp gáp trên làn da, hơi thở của Điền, sao mà như hút hồn Dậm bao nhiêu ngày nay thế vậy. Điền thấy Dậm chủ động, cuống quýt thì hiểu ngay, đây là nhà Dậm cơ mà, cô ấy làm gì lúc này chả được, một khi cô ấy muốn. Dậm muốn thì đúng rồi, chẳng thế Dậm lại chủ động hôn Điền, một cử chi thường chỉ diễn ra ở người con trai trước, chứ ít khi lại ở phía người con gái trước. Còn Điền, cũng không thể nói rằng không muốn, không muốn thì tự dẫn thân đến nhà Dậm làm gì. Trả xe ư, việc ấy quá đơn giản, Điền hoàn toàn có thể để ở nhà Đĩnh lúc nào Dậm qua lấy chả được. Dậm chủ động bíu lấy cổ Điền và nhanh như chớp, kiễng cả hai chân lên, cuống quýt áp đôi môi của mình lên làn môi Điền, rồi cứ thế lướt lướt hai làn môi nóng hôi hổi quanh cái miệng của Điền. Bỗng Điền cũng thay đổi tư thế, trở nên chủ động hơn, lùa cả cái lưỡi dài và nóng ấm vào miệng Dậm, làm Dậm thích thú mút chùn chụt. Dường như thế vẫn chưa thoả, Điền vội đưa một tay lần lần hàng cúc trên chiếc áo hoa cụt tay của Dậm, hai vạt áo mở ra, hiện rõ hai bầu vú Dậm trắng nõn, thây nẩy trước mặt Điền. Bỗng Dậm co rúm người lại, và nhanh như chớp, Dậm cầm tay Điền hất ra cùng với một tiếng nói rành rẽ, dứt khoát: “Đừng anh. Đùng làm thế!”. Chỉ cần có vậy, cũng làm người con trai tỉnh ra, vội thì thào bên tai người con gái với một giọng quân tử: “Anh xin lỗi! Chỉ vì anh yêu em lâu rồi mà”. “Em biết rồi. Mẹ cũng biết rồi đấy, anh ạ! Anh Đĩnh và chị Liên đã nói với mẹ về việc của chúng mình. Từ nay anh cứ đi lại bình thường anh nhé. Năng mưa thì giếng năng đầy, anh nhỉ!”.
Dậm vừa nói đến đấy, Điền bỗng sững người, hỏi Dậm, nhưng mặt lại hướng ra ngoài sân:
- Em có nghe thấy gì không? Hình như có tiếng người kêu ở đâu đấy!
Dậm cũng sững người, bước nhanh ra sân. Rồi dường như đã xác định được tiếng người kêu ở phía nào, vội quay vào, bảo:
- Có lẽ xẩy ra xô xát ở đầu làng rồi! Em phải thay quần áo ra xem thế nào, chứ mặc thế này ra họ cười chết. Anh cứ ở đây, đừng ra ngoài ấy. Vì anh không phải người làng này, ra không lợi đâu.
- 10-
Không biết Dậm đã biết sự việc đang diễn ra ở ngoài kia, căn nguyên là thế nào rồi hay sao, lại nói với Điền thế. Nhưng dường như Điền không nghe thấy, hoặc có nghe cũng để ngoài tai, làm gì đến mức nghiêm trọng thế, người làng hay không gặp đám to tiếng thì đến, chứ có gì mà lợi với không lợi. Thế là giữa lúc Dậm quay vào buồng trút bộ quần áo mặc trong nhà ra, lấy bộ quần đen áo xanh si lâm vừa thay, mặc vội vào, quay ra đã không thấy Điền đâu nữa. Dậm vội xách chiếc xe đạp dựng vào trong nhà, rồi quay ra đóng cửa. Định chỉ khép vào đấy rồi đi, nhưng ra đến ngõ nghĩ thế nào lại quay vào, lấy chiếc khoá to khoá chặt cửa lại, mới yên tâm chạy ra đường cái.
Cũng vừa lúc người từ các ngả trong làng, ngoài đồng lục tục, nhốn nháo chạy đổ về con đường cái vắt qua làng. Người chạy từ ngoài đồng về hỏi người chạy trong ngõ ra:
- Đã đánh nhau chưa? Có ai việc gì không?
Người trong làng ra, hỏi người đang chạy ngoài đường cái:
- Có cả xe con, xe to về hử? Chở thóc hay bắt lợn đi hả?
Thôi thì cứ nhớn nhác, ầm ĩ như cháy làng.
Đường làng đông như nước vỡ bờ.
Ông già bà cả, thanh niên phụ nữ, nhốn nháo nhất là đám học trò mấy lớp ở gần sân kho, đúng giờ ra chơi, tài thánh cũng không ngăn được chúng chạy ùa ra đường, lu cả vào ông già bà cả, vẫn cứ cắm đầu chạy.
Dậm phải chật vật lắm mới chạy lẫn vào trong đám trẻ, vượt lên trước, mà vẫn còn thấp thỏm không biết Điền đã chạy ra đến nơi chưa, hay còn đang lẫn trong đám người hỗn độn trên đường. Còn đang lẫn trong đám người hỗn độn trên đường thì tốt, chứ ra đến nơi rồi thì rách việc lắm đấy, anh ạ. Anh đã biết làm sao lại dẫn đến cái cơ sự này chưa? Chắc là chưa đâu, vì từ hôm làng cho đóng cột, dựng ba-ri-e, lập trạm kiểm soát ở đầu làng phía từ huyện xuống, em chưa bao giờ nói với anh duyên cớ sao lại làm vậy. Còn anh Đĩnh, em chắc cũng không dám hở ra với anh việc này đâu, vì nó đụng chạm đến cuộc sống của cả làng, nếu không muốn nói là cả sinh mạng chính trị của đảng viên trong chi bộ em. Anh đã có bài học cay đắng của chính mình, thì anh cũng hiểu cho em, vì sao một đội trưởng đội sản xuất của một làng với hàng trăm hộ dân, mà bỗng dưng lại cắt đứt mọi liên lạc với bên ngoài, cho dựng ba-ri-e, lập trạm kiểm soát không cho xe cộ và người lạ mặt vào làng, nếu không được sự đồng ý của chi uỷ và ban đội. Vô lý và lạ lùng quá phải không anh? Nhưng từ ngày xưa, các cụ đã có câu “phép vua cũng thua lệ làng” đó sao. Cũng là bất đắc dĩ, không còn cách nào khác mới phải làm thế, nếu không muốn để sự việc tày đình ấy bị vỡ lở, ít ra là từ nay đến khi gặt hái xong. Bởi em có linh cảm như bức vách có tai thật, anh ạ. Không thế, sao bữa trước họp trên xã, ông Thuật lại bóng gió nói rằng, không phải vô cớ mà ông Cải mới về đã xuống nhà ông Mải bên Phương Trà cả ngày, rồi lại còn ở lại chờ tay Điền đi học về, hai người nằm trò chuyện với nhau cả đêm. Vậy nên Phương Lưu chúng em mới phải dè chừng, phải cảnh giác, chứ biết đâu lại hỏng cả chì lẫn chài, như anh thì đau quá, anh ạ. Bởi thế, em không muốn cho anh ra cái chỗ lộn xộn ấy làm gì. Nhưng bây giờ anh đã ra rồi, thì em xin anh đừng có can dự vào đấy, vì anh can dự vào bên nào cũng dở. Tổ cờ đỏ Phương Lưu thì anh không phải người làng này, vô cớ lại vào hùa với họ. Còn phía bên kia, thì anh coi chừng, đầu không phải lại phải tai đấy thôi. Tốt nhất là tránh voi chẳng xấu mặt nào, cũng như em, dù đang ra đây, nhưng cũng không thể chiềng mặt ra đấy được, mà chỉ lẩn quất chỗ nào đó, xem xét sự tình, thể không đừng được mới xuất đầu lộ diện thôi.
Khi Dậm đến gần, đứng khuất trong đám học sinh lớp một, lớp hai đang chen vai thích cánh nhau, thì thấy chiếc xe u-oát của uỷ ban huyện chạy đến, len lách định vượt lên trước chiếc xe tải có bạt che đang đứng giữa đường cái lối vào làng. Trước mũi xe, sát cây tre đực dùng làm ba-ri-e, gần như đã có đủ mặt tổ cờ đỏ làng Phương Lưu. Dẫn đầu là ông Tinh, đội phó đội sản xuất kiêm tổ trưởng tổ cờ đỏ, mặt phừng phừng sát khí, đang chỉ tay vào mặt một người cao to, mặc quần xanh, áo xanh si lâm, chắc là phụ xe, đứng bên tay Minh, kỹ sư chăn nuôi ở ban nông nghiệp huyện. Ông Tinh đang nói lạc cả giọng, câu nào cuối cũng có tiếng nhấn “nhá”, nên sau mỗi câu của ông, những người đứng xem lại cất tiếng cười ồ, vẻ khoái trí vì tổ cờ đỏ làng đã chặn được cả xe to, xe con của huyện. Ông Tinh đang nói lạc cả giọng:
- Tôi nói mãi rồi mà các anh không nghe, nhá? Làng tôi không phải là cái chợ mà muốn cho xe ra, cho xe vào lúc nào cũnơ được, nhá. Nếu các anh cố tình, thì liệu đấy, ba-ri-e này mà đổ thì xe các anh cũng lăn kềnh xuống ruộng, nhá!
Vừa lúc, chiếc U-oát định len lên đứng trước xe tải không được, ý chừng người ngồi ghế sau thấy sốt ruột, bảo lái xe dừng đột ngột bên đường. Cùng lúc, cả hai phía cửa xe sau đều mở rất vội. Rồi hai người đàn ông cùng nhẩy ra. Dậm chợt nhận ra một trong hai người là Hưởng, phó chủ tịch phụ trách nông nghiệp huyện. Dậm vừa đưa mắt về phía mấy người và xe đứng lố nhố ở đằng xa, vừa lũi lũi người về đằng sau như nới rộng khoảng cách giữa mình với họ. Mấy ông bà, cả mấy chị đứng gần đó, hẳn cũng hiểu tình thế của cô đội trường của họ lúc này, nên không ai bảo ai đều dẹp đám trẻ, và chính mình cũng né người nhường lối, che chắn cho Dậm. Nhưng Dậm vẫn đưa mắt về phía mấy người và xe đứng lố nhố ở đằng kia, nghe rất rõ tiếng ông phó chủ tịch uỷ ban huyện đang phùng má tợn mắt, làm cho cái khuôn mặt lưỡi cày với làn da thiết bì của ông tím tái như miếng thịt trâu chín. Ông ta như nhận ra Tinh, gọi đúng tên, bảo:
- Anh Tinh đấy hả. Anh vừa nói xe của ai kềnh? Có thật các anh không cho xe của uỷ ban huyện vào làng không, hả… hả…?
Giọng ông Tinh cứng cỏi:
- Bất cứ xe nào cũng không được vào, dù là xe của uỷ ban hay của đâu cũng thế thôi!
Vẫn tiếng Hưởng, nhưng giọng có phần đanh thép hơn ban nãy:
- Ai cho các anh cái quyền rào làng, cấm đường ngang ngược như thế, hả, hả?
Ông Tinh bước lên, cùng mấy người trong tổ cờ đỏ:
- Dân Phương Lưu chúng tôi cho quyền đấy. Phép vua thua lệ làng, các anh khôn hồn thì quay xe về, không có đừng trách!
Hưởng vừa nghe đến đấy, bực không để đâu hết bực cái đám hỗn hào, liền quay lại phía sau vẫy tay ra hiệu cho cánh lái xe và tuỳ tùng cứ nổ máy cho xe vượt lên. Tức thì, những người trong tổ cờ đỏ đều nhào ra đứng chắn mũi xe. Rồi không chỉ những người cờ đỏ, cả dân làng Phương Lưu đều đổ ra, ào lên đứng chắn ngang cái ba-ri-e trên đường làng, trước mũi hai chiếc xe ô tô, người đứng đông đến không thể chen chân được nữa. Điền cố choãi người để chen lên, thì ông Tinh bất ngờ quay lại nhìn thấy, vội đưa tay kéo Điền vượt mấy người đàn bà vừa chen lấn vừa la hét, để lên đứng gần mũi chiếc xe con, cùng với ông và mấy người tổ cờ đỏ. Lúc ấy, cả ông phó chủ tịch và anh kỹ sư chăn nuôi cùng mấy nhân viên của huyện, ba chân bốn cẳng tót vội lên xe u-oát. Nhưng chiếc xe chỉ rú ga, gầm máy, chứ không sao lùi ra xa khoảng cách với những người dân đang nhốn nháo kia được. Người lái chiếc xe tải dường như chịu bó tay, chỉ còn trông mong vào chiếc xe con có thoát ra được thì mình mới có thể bám theo, còn không, thà cứ thờn bơn chịu lép một bề, tắt máy đứng im, người ta lại đỡ tức giận. Giá chỉ như thế, thà cứ thờn bơn chịu lép một bề, tạm ngồi yên trên xe chờ dân tình dịu đi, rồi hẵng quay xe về huyện, chắc không có việc gì xảy ra tiếp theo nữa. Nhưng ông phó chủ tịch như không kìm nén được sự tức giận, từ trong xe vội đẩy bật cửa, đứng ngay trong xe thò đầu ra, nói như quát, lạc cả giọng:
- Tất cả phải giải tán! Nếu không, gọi công an xuống gô cổ hết lại!
Tức thì, người ta lại chen lấn, xô đẩy nhau nhào đến gần chiếc xe con. Bỗng xoảng một cái, không biết là gạch đất ném vào, hay người nào cầm gậy gộc đập, mà tấm kính chắn phía trước chiếc xe u-oát vỡ toang, mảnh kính bắn tung toé như rắc mộng. Đến nước ấy thì dường như mấy người trên xe con không thể nín nhịn được nữa, nhẩy cả xuống. Nguy cơ xẩy ra trận ẩu đá một lành một vỡ là khó tránh khỏi. Điền thấy vậy cũng khôn? thể đứng nhìn, liền bước ra. Vừa lúc, thấy một người đứng cạnh ông Tinh giơ cây gậy tre đực, như cái gióng trâu lên. Điền vội giằng lấy. Nhưng lúc ấy Điền không thể ngờ là chính động tác giằng cây gậy ấy, mà Điền bị bắt giam ngay tức khắc. Người bắt Điền ngay tức khắc không phải ai khác là Lận, mới kế nhiệm Điền làm chủ nhiệm hợp tác xã Tiên Trung. Lận sáng ấy cũng không có việc gì bận, nhưng đến phiên trực vẫn cứ phải ra ngoài trụ sở xã. Không có việc gì bận, Lận ngồi nói chuyện góp và hút thuốc lào vặt với mấy tay bảo vệ ở bên hội trường, thì có tin báo tổ cờ đỏ Phương Lưu ách xe của phó chủ tịch uỷ ban và chiếc xe tải của huyện xuống trại chăn nuôi chở lợn đi, liền kéo ráo cả đám bảo vệ đang ngồi nói chuyện góp và hút thuốc lào vặt dông thẳng ra ngoài Phương Lưu. Khi Lận dông thẳng ra đến nơi, trời xui đất khiến thế nào, lại nhìn thấy tận mắt Điền đang giằng chiếc gậy trên tay một người đàn ông đứng bên ông Tinh. Thế là tinh ngay lý gian, cả Điền, cả ông Tinh, cùng người bị Điền giằng gậy, với mấy người nữa, bị Lận ra lệnh cho bảo vệ trói giật cánh khuỷ giải lên xã.