CON GÀ THỜ

Ở làng V.Đ. Ông chủ nhà trọ của tôi đáng lẽ cũng là bậc sướng. Dẫu không là tay cự phú, trong nhà cũng có gần sáu mẫu  ruộng, một con trâu cái, một con lợn nái, thóc lúa đủ ăn từ vụ nọ  đến vụ kia, tiền bạc tiêu đâu sẵn đó, nếu chỉ bảy tám chục đồng  trở lại, dù là việc bất thình lình, cũng không phải vay của ai. Gia  đình lại rất đề huề. Trên thì bà mẹ gần tám mươi tuổi, vẫn còn  sáng suốt, tỉnh táo, không lòa không điếc, cũng không lẫn lộn, dưới thì đàn con sáu đứa, trai có, gái có, đứa nào cũng ngoan ngoãn dễ  bảo. Cái cô con gái đầu lòng mới mười lăm tuổi mà đã bốn năm  ông tổng, ông bá muốn hỏi cho con. Bà vợ ông ấy chưa nhận lời ai,  sợ rằng gả chồng cho cô này, công việc đồng áng sẽ không đủ người  coi sóc. Tuy cũng là nhà làm ruộng, nhưng mà quanh năm chí tối,  ông ấy không hề phải đặt cái cày lên vai. Cho đến những lúc sớm  cạn, mạ úa, người ta đánh nhau vỡ đầu vì tranh nhau cái bầu tát  nước, ông ấy cũng chỉ đủng đỉnh ra đồng với cái cuốc bổ xem chỗ  nào còn nước, chỗ nào hết nước, đâu nên cấy trước, đâu nên cấy  sau, và anh thợ cày có chịu làm việc, hay chỉ ngồi hàng ngồi quán.  Ấy đó, công việc ông ấy đại khái có vậy. Ở thôn quê, như vậy cũng  là tiên cách. Quan bất phiền, dân bất nhiễu, suốt năm lúc nào cũng ung dung. Nhưng mấy tháng gần đây, ông ấy lại rất vất vả.  Chỉ vì có hai con gà. Năm đó ông ta chẳng đã năm mươi nhăm tuổi  à? Theo tục làng đó, đàn ông năm mươi sáu tuổi mới lên lão làng.  Nhưng từ ba mươi tháng một cái năm năm mươi nhăm tuổi, đã  phải sửa một cỗ xôi và một con gà để đem ra đình lễ thần, rồi biếu  dân. Cỗ xôi không quan hệ lắm, miễn được gạo trắng và dẻo, đóng  vào đầy một chiếc quả "phù trang" của làng. Duá có con gà thì hơi  cầu kỳ một chút. Nó phải là thứ gà sống mã đỏ, chân vàng, vặt  lông và luộc chín rồi, còn đủ bốn cân. Lệ làng định rõ như thế. Thế  nhưng ít ai chịu giữ đúng lệ. Người ta đua nhau tự tăng số cân ấy  lên, ít nhất cũng là năm cân, nhiều thì có khi sáu cân, bảy cân, hễ  gà càng lớn bao nhiêu, ông chủ càng được dân làng kính trọng bấy  nhiêu. Nghe nói từ đời Thiệu Trị, Tự Đức chi đó, có ông lão nuôi  được con gà nặng bảy cân rưỡi, đến nay cả làng vẫn còn ca tụng.  Họ bảo ông đó hết lòng thành kính đối với quỷ thần, nhờ có quỷ  thần phù hộ, cho nên gà của ông ta mới lớn như vậy. Dù chẳng  dám mong nối gót được ông cụ ấy, nhưng ông chủ nhà trọ của tôi  cũng vẫn quả quyết không chịu thua ai trong hồi gần đây. Hồi cuối  năm kia, nghe nói ở dưới làng Hồ có giống gà tốt, ông ấy muốn  mua, đã phải thân hành đến nơi để được tự mình kén chọn. Sau  mười mấy ngày lăn lóc ở vùng Hồ, ông ấy vui mừng trở về với hai  con gà con nhốt trong một chiếc lồng khiếu. Đôi gà mới lạ làm sao!  Nó lớn bằng con chim câu và trọc lông lốc như đầu ông sư. Từ cổ  đến đuôi toàn là thứ thịt đỏ hỏn, lơ thơ điểm ít sợi lông tơ. Mỗi con  ở hai vút cánh, đều có hai cái lông cánh lớn bằng vảy ốc và cong  vểnh lên như miếng cau khô để ngửa. Ông ấy bảo với tôi rằng:
- Những nhà hà tiện thường chỉ nuôi có một con. Bởi vì lệ  làng chỉ có một con. Nhưng mà con gà độ bốn, năm cân, tất nhiên phải nuôi trong khoảng hai năm trở ra. Giả sử nuôi đến nửa chừng, chẳng may nó chết, thì không thể nào mua đâu được nữa.  Bởi vậy, tôi phải mua phòng hai con. Nhờ giời nếu nó còn cả, thì  một con lễ đình, còn một con nữa tôi đem lễ chùa, chứ không dám  bán mà cũng không dám ăn. Vì rằng mình đã thành tâm nuôi về  việc thờ, nếu đem bán hay để ăn ấy là đắc tội với quỷ thần.
Tiếp đó ông ấy lại khoe:
- Đôi gà này nếu đem bán chợ, chẳng qua độ bốn năm hào  một con. Họ thấy mình chuốc, nên họ bóp mắt, bóp mũi. Tôi phải  trả một đồng một con, họ mới chịu bán. Tuy vậy, kể cũng không  đắt. Giống gà này quý lắm. Nó mới bỏ mẹ mà đã lớn bằng bấy  nhiêu. Nếu khéo nuôi, sau này có thể lớn bằng con ngỗng.
Luôn bữa đó, ông ta sửa lễ ra đình để trình với "đức thượng  đẳng" là mình đã mua được gà, rồi đem cả đôi quí vật thả vào nếp  chuồng ở đầu nhà trên. Chuồng ấy, ông làm riêng để nhốt gà thờ,  cũng mới hoàn thành độ một tháng trước. Cửa chuồng ngoảnh về  phía nam. Gậm chuồng xây gạch làm bức tường con, để giữ rắn,  chuột. Quanh chuồng lại có bốn bức rào bằng phên nứa, ngăn hẳn  khu đất đầu nhà thành cái vườn vuông, để làm chỗ cho gà ăn...  chơi. Ròng rã gần hai năm nay, những việc lấy nước cho gà uống,  tung thóc cho gà ăn và sớm mai mở cửa cho gà ra vườn, chiều tối  bắc cầu cho gà lên chuồng, đều do tự tay ông ấy làm lấy, không  dám giao cho người nào, vì sợ người khác làm không cẩn thận. Trừ  ra cái việc hai ngày một lần múc nước, quét rửa chuồng gà thì anh  thợ cày được thay. Hồi cuối năm ngoái, một trận gió bắc nổi lên  giữa khi ấm áp, đã gây cho làng V.Đ. cái nạn gà toi. Ông ấy lập tức  sai vợ sửa cái sỏ lợn và một mâm xôi làm lễ ra đình, để cúng các  đấng "bộ hạ", khấn ngài phù hộ cho gà của mình. Sau đó, bao nhiêu gà của làng ấy chết hết. Riêng đôi gà này vẫn được mạnh  khỏe như thường. Ông ấy cho là các đấng "bộ hạ" thiêng lắm.  Đúng như ông ấy ước mong. Đôi gà mỗi ngày mỗi thấy chóng lớn  như thổi. Trong hơn một năm nó đã xù xù như hai con công. Lông  đẹp, cánh đẹp; ống chân bóng nhoáng như ngà, tiếng gáy ò ò như  tiếng còi tàu thủy. Nhưng cả hai con đều gầy như hạc. Ông ấy cắt  nghĩa như vầy:
- Cái phép nuôi gà cũng như nuôi lợn, lúc nó còn non, phải  hãm cho nó đừng béo, thì nó mới lớn. Nếu khi nó còn đang lớn mà  đã béo rồi, ấy là nó sẽ không lớn được nữa.
Thế rồi bắt đầu từ cuối tháng tám, cái tháng cách ngày "lễ  thờ" độ một trăm ngày, công việc nuôi gà của ông ta bỗng thấy  thay đổi khác hẳn.
Khu vườn của gà không dùng đến nữa. Sớm ra, ông ấy bắt gà  ở chuồng xuống lồng, tối đến ông ấy bắt gà ở lồng lên chuồng. Trong tháng đầu, đồ ăn của gà đã xen thêm ngô, mỗi ngày bốn  bữa, hai bữa ngô và hai bữa thóc. Từ tháng hai trở đi, hai món ấy  đều bị bãi cả, ông ta cho gà ăn cám. Lúc đầu còn là cám nấu với  gạo đổ vào chậu sành để gà tự mổ. Hình như nó cũng thấy ngấy  không ăn được nhiều, nên sau lại phải dùng theo phương pháp bào  chế. Ông ta luyện cám như luyện thuốc tễ và đem viên lại mỗi viên  lớn độ bằng đầu ngón tay. Đến bữa ông ấy ngậm nước trong miệng, rồi ôm con gà vào lòng, một tay vành hai mỏ gà, một tay ấn  viên cám vào. Sau khi đã mớm cho nó hớp nước, ông ta sè sẽ lấy  tay vuốt vào cổ nó, để cho viên cám từ từ trôi xuống dưới diều, mới  lại bón tiếp viên khác. Mỗi con gà, mỗi bữa độ vài chục viên, mỗi  ngày độ chín mười bữa, đều do ông ta tự làm, chứ không khiến ai.  Thành ra suốt ngày, ông ấy chỉ quanh vào hai con gà mà không  lúc nào được nghỉ. Giữa lúc công việc túi bụi, bà mẹ ông ta lại bị  ốm nặng, cả ngày chỉ nằm trên giường và rên hừ hừ. Tuy vậy,  những việc cơm cháo thuốc men cho bà cụ, ông ta giao mặc vợ con,  vì mình không có thì giờ trông đến. Bà cụ hình như cũng biết thân  mình không quan hệ bằng hai con gà, cho nên, mỗi khi thấy cháu  gọi con lên buồng xem bà làm sao, bà ấy lại gạt ngay đi.
- Việc thờ không thể nói chơi. Cứ để thầy mày trông nom cho  gà. Gọi lên làm gì!
Hôm ấy nhân bữa 25 tháng một. Theo lệ mọi ngày, ông chủ  nhà trọ của tôi vừa ở trên giường xuống đất, mắt nhắm mắt mở,  chạy luôn ngay ra trước chuồng gà để rước gà ra. Quái lạ! Làm sao  hôm nay một trong đôi gà có vẻ khác thường! Thả vào trong lồng,  nó cứ rụt cổ mà đứng lù lù. Nhắc cái lồng ra, nó cũng không buồn  cựa quậy. Hoảng quá! Ông ấy vội bắt nó lên, để xem là chứng bệnh  gì. Chung quanh thân thể không thấy vết tích gì hết. Riêng có cái  diều cứng rắn và lớn chần chần như một quả bưởi. Vừa ôm con gà,  ông ấy vừa gọi mọi người nhà bưng rổ cám ra để mình bón thử cho  nó mấy viên. Nhưng mà nó không chịu nuốt, viên cám ấn vào trong mỏ, nó lại lắc đầu lắc cổ cho bật ra. Với vẻ mặt không còn  sắc máu, ông ấy hầm hầm chạy xuống nhà khách sau khi thả con  gà ấy vào lồng của nó. Rồi cơn thịnh nộ theo sự lo sợ nổi lên, ông ta bỏ cả cơm nước, gắt vợ, gắt con luôn miệng. Bởi vì, theo ý ông ấy,  con gà bị bệnh là do vợ con ông ta đều không thành kính mà ra.
- Đã bảo không được gọi "người" là "gà", cả nhà không đứa  nào nghe! Bây giờ còn năm hôm nữa thì được sửa lễ, nếu như "người" có làm sao, chúng bay còn khổ với ông! Ông thì tống cổ mẹ  con nhà mày!
Cứ một câu ấy, ông ta nhắc đi nhắc lại đến mấy chục lượt.  Các con đều phải nem nép không dám ho he. Hình như chúng cũng tự biết gọi gà là "gà" chính là một cái tội lớn. Cho được chuộc  lại cái lỗi ngạo mạn với gà, một lần nữa bà vợ ông ta lại phải đi  chợ mua đồ cúng các bộ hạ của "đức thượng đẳng". Trước khi đi, bà  ấy dặn anh thợ cày ở nhà giã gừng hòa với rượu tẩy uế chuồng gà  cho kỹ. Vì sợ chuồng không trai khiết, cho nên sinh ra thế chăng.  Tin tức truyền đi mới chóng làm sao! Bà này mới ra khỏi nhà độ  mười lăm phút, họ hàng làng nước kéo đến hỏi thăm rất đông. Người nào, người ấy nét mặt ngơ ngác, giống như đứng trước một  tai nạn lớn của người ruột thịt. Giữa khi ấy, bà mẹ ông chủ nhà tôi  ở nhà trên lại nổi cơn bệnh. Ngồi ở nhà dưới cũng nghe tiếng rên  và tiếng "ối chao". Nhưng không ai nhắc đến bà cụ. Người ta chỉ  hỏi chứng bệnh con gà. Có người bày cho ông ấy nên dùng tỏi tươi  giã nhỏ mà bón cho nó. Ông ta nhất định không nghe, cho rằng tỏi  tươi là vật uế tạp, nếu cho gà ăn, nó sẽ uế tạp lây đến gà. Vả  chăng, bà vợ ông ấy đã đi mua đồ cúng rồi, nếu lại chữa thuốc cho  gà, thì ra mình không tin ở quỷ thần nữa ư! Phải cứ thành tâm tin  ở quỷ thần, hễ ngài vuốt ve đi cho thì nó khắc khỏi. Ông ta đáp lại  họ mạc làng nước như vậy. Nhưng mà ông ta đã bị thất vọng. Bữa  trưa hôm ấy, sau khi bà vợ ở chợ về nhà, đồ lễ đã được sửa soạn  một cách hỏa tốc, ông ta liền tự tay ra đình lễ bái và cầu khẩn  thiết tha, vậy mà bệnh tình của gà chẳng những không chút thuyên giảm, lại còn trầm trọng hơn nữa. Sáng ngày nó còn chịu  đựng và chịu mở mắt, bây giờ thì chỉ nằm phục dưới đất, hai mắt  nhắm nghiền, nước mũi chảy ra rành rạch.
Cả nhà đều luống cuống chỉ lo còn con gà nữa lại mắc bệnh nốt. Cực chẳng đã, ông ấy phải dùng bài thuốc của người ta mách  lúc nãy. Thì ra con gà đã mắc phải bệnh thương thực. Bởi tại hôm  trước ông ta nhồi cám cho nó quá nhiều, tiêu hóa không kịp, diều  nó trương lên. Từ lúc được ít tỏi tươi vào miệng, giúp sức cho sự  tiêu hóa, hình như trong mình nó đã thấy dễ chịu, cho nên thỉnh  thoảng nó đã đứng dậy, đôi mắt có lúc mở to. Đến chiều hôm ấy, nó đã nhỏ nhẻ mổ vài hột gạo. Và sáng hôm sau thì nó ăn uống  như thường. Trong nhà lúc ấy vui vẻ như tết. Ông ấy lại sửa lễ ra  đình để tạ các vị bộ hạ của "đức thượng đẳng". Thấm thoát đến  ngày 29 tháng một. Sáng sớm hôm ấy, sau khi ra chuồng thăm gà,  ông ta liền sai người nhà quét dọn suốt cả nhà trên nhà dưới, rồi  đi gánh nước đổ thêm vào bể. Gần trưa, họ mạc làng xóm kéo đến  tấp nập. Người ta chia nhau mỗi người đi làm mỗi việc. Bà này rửa  bát, bà kia rửa nồi, ông này kê bàn, ông kia kê phản, năm bảy ông  khác vào chuồng bắt lợn làm thịt. Chừng đến quá trưa, con lợn bị  giết đã thành ra mấy chục mâm dấm ghém, la liệt bày khắp cả  mấy tòa nhà. Họ hàng ăn xong bữa ấy, mặt trời đã xế về tây. Bấy  giờ người ta bắt đầu lo đến việc thờ. Những người làm giúp lúc này  chia làm hai đội. Một đội sắp sửa quang gánh gánh mấy thúng gạo  ra giếng để vo, vì sợ vo bằng nước bể hột gạo xám đi, sau này xôi  sẽ không trắng. Còn một đội nữa thì đi đun nước để làm lông gà.  Gần tối, đôi gà đã vặt lông xong. Con nào con ấy màu da trắng  nõn. Cả họ đều khen là béo là lớn. Sau khi mấy anh con trai dùng  díp nhổ râu nhổ hết những sợi lông tơ ở đầu ở cổ, ở quanh hai mỏ  đôi gà, ông chủ nhà tôi quyết định để con bị ốm hôm nọ lễ chùa,  còn con không ốm thì đem lễ đình, và tươi cười nói với mấy ông  nhiều tuổi trong họ:
- Công việc nuôi gà của tôi thế là xong rồi. Bây giờ còn việc  luộc gà xin mặc các cụ. Nếu luộc được khéo, cả họ nhà ta sẽ được  tiếng khen. ạ hay! Luộc gà chẳng qua đến bỏ vào nước mà đun là  cùng, cớ sao ông này lại nói vậy? Hay là trong cái việc ấy ở đây còn  có bí quyết gì chăng? Tôi đương tự hỏi như vậy thì một ông già  trong đám dõng dạc đáp ông chủ tôi:
- Cái đó, cụ cứ yên tâm, chúng ta sẽ bắt anh em làm cho thật  khéo.
Rồi thì ông đó ngoảnh lại gọi bọn ít tuổi: - Ai biết chằng gà thì đem gà ra chằng đi. Sau một tiếng dạ  rất gọn, mấy anh con trai linh lợi bưng hai con gà đặt vào hai chiếc mâm đồng và để lên một cái bàn kê ở gian giữa. Rồi một  người khác đem đến cho họ một bó thanh tre và một cuộn dây gai.  Dùng tre làm cốt và dây cuốn ngoài, họ buộc cho hai con gà ngỏng  cổ, giương cánh, đứng trên mặt mâm. Rồi họ lấy những ruột non,  ruột già và bộ dạ dày của nó chằng từ đầu mỏ quặt sang hai cánh  làm cho con gà thành ra cái hình con phượng ngậm bức cuốn thư.
Cả đám xúm lại ngắm nghía, ai nấy đều cho là được. Bấy giờ họ  mới giục nhau đun nước luộc gà.
Mỗi con gà đó, từ cổ đến chân có thể cao đến gần hai thước,  hai cánh của nó cũng phải đến hơn một thước, tôi không hiểu rằng  luộc vào nồi nào cho vừa, nhưng vẫn yên lặng để xem họ làm ra  sao. Luôn trong một lúc thấy họ bắc bếp đến sáu chiếc nồi ba mươi, nồi nào nước cũng gần đến miệng. Nửa đêm, cả sáu nồi nước  đều sủi. Người ta liền bưng cả hai mâm gà xuống đó. Dưới hai ngọn đèn hai dây sáng như ban ngày, năm sáu cái gáo chĩa vào các  nồi múc nước giội từ đầu gà trở xuống. Và cứ giội luôn như thế  không lúc nào ngơi, hết nồi nước ấy, họ lại nấu nồi nước khác,  trong bếp không lúc nào không sẵn nước sôi. Giội đến gần sáng thì  gà vừa chín. Té ra cái kiểu luộc gà của họ là vậy. Chờ cho đôi gà  đều nguội, họ cởi hết các dây chằng, đặt vào trong giữa mâm xôi  rồi đem ra đình và đưa lên chùa. Lễ xong, con gà của ông chủ nhà  tôi cân được 7 cân. Ông ấy sung sướng bảo tôi:
- Đời như thế là mãn nguyện!