MỘT CHIẾC LĂM LỢN

Bấy giờ bóng đã chiều cả. Mặt trời chỉ cách ngọn tre của dãy  làng xóm xa xa độ vài con sào. Chân trời phía tây dần dần hiện  những tia đỏ. Dưới đồng còn đông người làm. Trong rừng ngô đậu  xanh rì, tiếng hát theo gió đưa đi réo rắt. Tôi vừa đi đến ngã tư rẽ  vào con đường làng Đ.C và những giọng lên bổng xuống chìm của  bọn gái quê xới đậu, vun ngô như đương bảo tôi khoan bước để  thưởng cái cảnh trời xuân mình mị.
Bỗng ở trong nẻo đầu làng có  tiếng thét lớn, như phá cái bầu tịch mịch của cánh đồng chiều, làm  cho các đám hát xướng đều phải im bặt. Càng đi gần lại, tiếng thét  càng dữ thêm. Tiếp đến tiếng chửi phũ phàng của cơn thịnh nộ, rồi  đến tiếng kêu làng nước inh ỏi.
Trong khu văn chỉ của làng Đ.C.  bóng người đen kịt. Và ở cổng làng cũng như các ngả đường khác,  đàn ông đàn bà tất tả chạy ra. Ai cũng như nấy, mỗi người trong  tay đều có một món khí giới, hoặc sào, hoặc gậy, hoặc cán cuốc,  hoặc đòn gánh, có người thì vác cái vồ đập đất. Tứ chi bát mạch,  nhất tề đổ vào khu đất văn chỉ với một bộ điệu hùng hổ.
Đánh!  Đánh! Đánh!
Mấy tiếng thét đánh vừa dứt, cuộc hỗn chiến tức thì  bắt đầu. Đòn gánh giơ lên, tai cuốc bổ xuống, tiếng chí chát của  các khí giới đụng nhau xen lộn với tiếng kêu, tiếng chửi, tiếng gầm  gào, nghe thật gớm ghiếc. Tôi phải dừng lại ở một quãng xa để chờ  đến lúc tan cuộc, vì rằng đường đi đã bị chiến trường ngăn cản,  không có lối nào qua được. Tấn náo kịch mỗi lúc một thêm kịch  liệt. Các toán viện binh các nơi vẫn tiếp tục kéo đến ầm ầm. Đáng  sợ nhất là mấy mụ đàn bà. Xắn váy, xắn áo và quấn búi tóc vểnh  ngược, các mụ liều mạng xông vào trận địa như một đội quân cảm  tử.
Tôi phải rùng mình sởn gáy, khi thấy một người lực điền thẳng tay giơ vồ đập đất bổ vào đầu một ông già vừa chui ra khỏi  vòng vây. Ông già ấy loạng choạng, lảo đảo như con gà toi giẫy  chết rồi ngã phục vị xuống đất. Người lực điền kia lại vác chiếc vồ  nghênh ngang vào trận. Giữa đám túi bụi, thấp thoáng có bóng  xanh xanh. Khi đã lách qua vòng vây, bóng xanh xanh liền hiện ra  thành hình người. Ôì! Lạ! Trong đám ẩu đả lại có người mặc áo thụng lam và đội mũ nhiễu hoa bạc! Tuy rằng đứng ở đằng xa, tôi  cũng trông rõ hình dạng. Người ấy hàm râu đã dài, cái áo thụng  lam đã toạc vạt trước, trên trán có một vết đỏ chạy thẳng từ trán  xuống cằm, có lẽ là vết máu chảy. Chỉ kịp lật mũ vất xuống vệ  đường, người ấy vén tay áo thụng, giằng lấy chiếc gậy của một  người khác, rồi quay vào đám đông người, ra sức vụt lấy vụt để.  Hình như bây giờ đến hồi loạn chiến, người ta chỉ cốt đánh cho  sướng tay, bất phân ai là phe thân, ai là phe thù. Vì vậy, giao chiến đã lâu mà vẫn chưa phân thắng phụ. Phía trong cổng làng  chợt có tiếng hiệu rúc hồi. Một đoàn tuần phu độ hơn mười người,  kẻ vác giáo, người vác mã tấu, tấp nập đi theo lý trưởng tiến lên  khu đất văn chỉ.
- Trói lại! Trói hết cả lại! Điệu về đình kia! Đánh nhau chết  người ra đấy, tội vạ ai chịu?
Lý trưởng thét vừa dứt miệng, cả bọn tuần đinh hăng hái  sấn vào đám đông, đàn áp một cách hùng dũng và can đảm. Các  tay chiến sĩ tuy đương "ham đánh" nhưng cũng còn sợ pháp luật,  thấy bóng tuần phiên tiến vào, ai nấy tản mác lùi ra, kẻ này chạy  vào trong làng, người kia trốn xuống dưới ruộng. Trên bãi chiến  trường còn lại bọn tuần đinh với một đám độ hơn mười người hầu  hết có mặc áo thụng.
Cái gì thế nhỉ? Cớ sao người ta lại bận lễ phục để đi đánh  nhau? Hay là ở đây cũng là cửa Khổng, sân Trình, cho nên dù là  đánh nhau, cũng phải giữ lễ? Giông tố đã yên, tôi bèn lại chỗ văn  chỉ để về trong làng, và luôn thể coi qua cho biết tình hình cuộc  đại chiến.
Té ra những ông áo thụng còn lại đó rặt là "tư văn" và  đều bị thương tất cả. Đau nhất là ông Cựu Thỉnh. Ông ấy bị một  vết ở má bên phải. Hình như nó là vết thương của mấu đòn gánh  đập vào -gò má bị khuyết mất một miếng thịt khá to, cái xương lòi  ra, máu chảy rành rạch xuống vai áo thụng. Rồi đến ông Cựu Bình. Không biết ông này bị những cái gì đánh vào má trông thảm  quá, giữa trán bươu lên như quả ổi lớn, gò má bên trái sưng húp  như cái đồng chai úp vào.
Con mắt bên ấy híp lại như mắt lợn ỷ. Rồi đến ông Phó Đê,  cái ông bị một cái vồ lúc nãy. Ông ấy mất mảng tóc đỉnh đầu, thịt  non phơi ra đỏ hỏn. Cả ba ông đó cùng phải nằm liệt dưới đất, thi  nhau kêu rên hừ hừ. Còn các ông khác, hoặc bị thương ở mặt, hoặc  bị thương ở tay, hoặc bị thương ở vai hay cổ, tuy cũng đau lắm,  nhưng còn có thể ngồi gượng. Sau khi sai người lấy chiếu đắp cho những người đau nặng, lý trưởng cắt bọn tuần phiên, một nửa ở đó  canh gác, một nửa thì đi lùng bắt những kẻ có dự vào cuộc chiến  tranh. Rồi hắn về nhà đóng ngựa lên huyện, khất quan về khám.  Lúc ấy trời đã gần tối, những người làm đồng lũ lượt trở về. Một  người cùng đi một đường với tôi, đã được chứng kiến trận ẩu đả ấy  và có biết rõ nguyên úy. Cứ như anh ta đã nói, thì căn do của tấm  thảm kịch chỉ tại một chiếc lăm lợn. Làng Đ.C. cũng như làng khác, vẫn có riêng một số người chuyên coi về việc tế tự, người ta  gọi là "tư văn" hay là "văn giáp", hoặc "văn hội", có làng gọi là  "quan viên". Mỗi khi làng có cúng tế thì từ chủ tế đến việc rước  nến, bưng đài, đều do tư văn phải làm.
Theo nguyên tắc, hội "tư văn" tức là môn đồ của Khổng phu  tử. Bởi vì trong số hội viên, trừ những người dưới do làng bầu ra,  các người đứng đầu phải là những bậc khoa hoạn. Làng nào không  có khoa hoạn, thì lấy những người chức sắc thay vào. Hàng năm,  cứ đến ngày "đinh" của tháng giữa mùa xuân và ngày "đinh" của  tháng giữa mùa thu, tư văn làm lễ tế tại văn chỉ, gọi là xuân đinh  và thu đinh. Đó là lễ riêng của hội tư văn, người ngoài không ai  được dự. Nhưng không phải là tế Khổng tử. Quyền tế Khổng tử  thuộc về nhà vua và các văn miếu hàng tỉnh, hàng phủ, còn dân  gian thì chỉ được tế những vị "tiên đạt" của làng mình. Làng Đ.C.  không có khoa mục. Chức Chưởng lễ của hội tư văn vẫn thuộc về  cụ Bá Trung. Đáng lẽ mỗi khi trong làng có tế, bất kỳ là tế ở đâu,  cụ ấy vẫn được giữ ngôi tế chủ. Nhưng vì tuổi già, lễ bái khó nhọc,  cho nên cụ ấy vẫn giao công việc chủ tế cho ông Cửu Nghĩa. Theo  lệ nhất định, những khi làng làm lễ bằng lợn, cái sỏ lợn phải để  biếu cụ Chưởng lễ, còn cái cổ lợn thì cắt làm hai khoanh tròn - người ta gọi là cái lăm -một khoanh biếu ông tả văn, một khoanh  nữa thì để biếu một ông nào đã gánh công việc chủ tế. Chủ tế là  ông tả văn, ông ấy sẽ được hưởng cả đôi lăm, nếu chủ tế là cụ  Chưởng lễ, thì phần cụ ấy phải có một lăm một sỏ. Mọi khi hai cái  lăm của con lợn tế thần đều là phần ông Cửu Nghĩa.
Bởi vì ông ấy vừa quyền tế chủ lại vừa viết văn. Nhưng độ  này ông Cửu Nghĩa ốm nặng, ngày mai tư văn làm lễ xuân đỉnh  chắc là ông ta không thể ra làm chủ tế. Chức ấy phải cắt đến người  thứ ba. Từ chiều hôm nay, tư văn có sửa tuần rượu đệ lên văn chỉ  làm lễ "túc yết". Ai vào chủ tế ngày mai, hôm nay phải lên văn chỉ  mà khấn, để các tư văn lễ theo. Chiếu theo ngôi thứ, chức chủ tế ngày mai đến ông Cựu Thỉnh, và rồi ông ấy sẽ được hưởng cái lăm  lợn dư huệ của ông Cửu Nghĩa.
Ông Cựu Bình lấy thế làm tức. Bởi vì, nếu ông Cựu Thỉnh từ  chối, thì chức tế chủ và cái lăm lợn ngày mai sẽ về ông ta. Đợi lúc  ông Cựu Thỉnh xúng xính mũ áo, sắp sửa vào khấn, ông Cựu Bình  ngăn lại và nói:
- Ông định khấn như thế nào, phải đọc trước cho cả tư văn  cùng nghe cái đã!
Cái đó mới hiểm độc chứ!
Một người suốt đời chưa học chữ nào như ông Cựu Thỉnh thì  đọc văn khấn làm sao cho trôi.
Bí quá, ông Cựu Thỉnh phát cáu:
- Khấn thế nào, tôi không phải trình với anh.
Ông Cựu Bình càng làm già:
- Không phải trình tôi, thế thì nếu anh khấn cha, khấn mẹ về  đó, tư văn cũng phải chịu à?
Ông Cựu Thỉnh đương cơn tức tối, liền tát cho ông Cựu Bình  một cái và thét:
- À! Thằng này mày chửi ông à?
Ông Cựu Bình cũng không chịu nhịn, túm luôn lấy cổ áo thụng ông này và đấm vào gáy một chặp. Trong đám tư văn, có  người là họ ông Thỉnh, có người là họ ông Bình, thấy hai bên đánh  nhau, kẻ thì kêu làng cầu cứu, người thì xông vào đánh giùm. Lúc  này, người làm dưới đồng còn đông, những kẻ thù ghét cả hai ông  kia, thi nhau kéo lên đánh hôi, cốt để gieo vạ cho kẻ thủ xướng, vì  thế mới ra cuộc đại chiến, và mới đến bấy nhiêu người bị thương.  Nửa đêm hôm ấy quan huyện mới về biên án. Ngay lúc đó, những  người bị thương đều được khiêng lên nhà thương. Khi họ đi đường,  người ta còn nghe tiếng rên ầm ầm...