Chương 11
Vạn dặm gian nan

Trịnh Thư chỉ vào một con ngựa cột ở gốc cây, nói với Mỹ-Linh:
- Ngựa đã thắng yên cương. Công chúa ra cửa Quảng-phúc, sẽ gặp Thân thế-tử, đễ cùng đi cứu vương phi.
Mỹ-Linh biết vụ này do chú mình xếp đặt. Nàng lên ngựa, theo cửa Quảng-phúc ra khỏi thành. Đi được một quãng, thấy Thiệu-Thái dắt ngựa đứng chờ ở ven đường. Mỹ-Linh mừng rớt nước mắt ra được. Nàng hỏi Thiệu-Thái:
- Anh chờ em lâu chưa?
- Anh vừa tới xong.
- Ai bảo anh tới đây?
- Cậu hai cho người tới gọi anh, bảo đi với em cứu mợ cả. Anh không hiểu gì hết.
Mỹ-Linh thuật mọi chi tiết về mẹ mình cho Thiệu-Thái nghe. Nàng kết luận:
- Chúng ta đi Mê-linh ngay. Có lẽ giờ này mẹ em đã đến đó rồi.
Thiệu-Thái thắc mắc:
- Cứ như trong thư để lại, ắt hẳn mợ đi tìm Hoàng Văn trả thù, chứ có đâu đến tổng đàn phái Mê-linh?
Mỹ-Linh chợt tỉnh ngộ, nhưng nàng vẫn tin lời Trần Thông-Mai:
- Hồi đầu mới nghe anh Thông-Mai nói, em cũng nghĩ như anh. Nhưng anh Thông-Mai khẳng định mẹ đi Mê-linh. Có thể bên trong còn có uẩn khúc gì cũng nên. Vả lại việc này chú hai đã biết tỏ tường, nên người mới bố trí cho chúng mình cùng đi.
Mỹ-Linh chỉ ra phía sông:
- Đi Mê-linh, ta phải vượt sông Hồng sang bờ Bắc. Vậy chúng ta nhờ thủy quân đưa qua.
Hai người ra roi cho ngựa chạy về phía bến Tiềm-long. Tới nơi, viên thủy thủ gác bến nhận ra Mỹ-Linh. Y hành lễ quân cách. Mỹ-Linh truyền lệnh:
- Anh mời viên thuyền trưởng trực gặp tôi.
Viên thuyền trưởng tới. Mỹ-Linh nói:
- Anh cho thuyền chở ngựa với chúng tôi qua sông khẩn cấp.
Viên thuyền trưởng ra lệnh. Một thuyền chở ngựa. Một thuyền chở người. Thuyền rời bến.
Viên thuyền trưởng lấy ra hai túi hành lý, quần áo trao cho Thiệu-Thái.
Mỹ-Linh kinh ngạc hỏi thuyền trưởng:
- Ta bảo người chở ta sang sông. Người đưa quần áo cho ta làm gì đây?
Viên thuyền trưởng cười:
- Công chúa muốn qua sông, cứu vương mẫu, phải thay y phục dân dã, đi đường mới không bị lộ. Chứ công chúa mặc thế này, dọc đường hành sự khó khăn lắm.
Mỹ-Linh kinh ngạc, tự hỏi:
- Ta đi cứu vương mẫu, sao viên thuyền trưởng này cũng biết? Dường như ta đã thấy y ở đâu rồi, dáng dấp y quen quá.
Chợt thấy phía sau cổ y có mụn nốt ruồi son lớn, Mỹ-Linh bật kêu lên:
- Đỗ phu nhân. Phu nhân hoá trang hay quá. Đến tôi với anh Thiệu-Thái cũng nhìn không ra.
Đỗ Lệ-Thanh lấy mực, hồ ra hoá trang Mỹ-Linh thành một thiếu phụ lớn tuổi. Thiệu-Thái thành một trung niên nam tử.
Đỗ Lệ-Thanh bật cười:
- Tiểu tỳ hóa trang, đến vú Hậu cũng không nhìn ra, thế mà công chúa nhận được. Nhãn lực công chúa thực không ai bì kịp.
Mỹ-Linh chỉ vào mụn nốt ruồi đỏ sau cổ Lệ-Thanh:
- Tôi nào có nhận được. May nhờ mụn nốt ruối này đấy chứ.
Mỹ-Linh lấy gương soi, nàng nhăn mặt:
- Sao phu nhân không hoá trang chúng tôi thành đôi trai gái quê?
Đỗ Lệ-Thanh cười lớn:
- Tiểu tỳ không thể hoá trang thế-tử với công-chúa thành nông dân được. Vì chúng ta đi kỳ này phải vượt cả trăm dặm đường, cần cỡi ngựa. Có lẽ phải xử dụng võ công. Xử dụng võ công, ắt công chúa cần kiếm. Có đời nào thôn nữ lại đeo kiếm cỡi ngựa? Nên tốt hơn hết chúng ta hoá trang thành người võ lâm, dễ dàng hơn.
Mụ vỗ tay một cái. Từ trong khoang phía sau, có đôi trai gái chui ra. Mỹ-Linh giật bắn người lên, vì một người chính thị Thân Thiệu-Cực, em Thiệu-Thái. Còn cô gái từ khuôn mặt đến y phục giống nàng như hệt.
Thiệu-Thái ngơ ngác hỏi:
- Thế này là thế nào?
Cô gái dơ tay vẫy mọi người, hay tay xoa vào nhau, cử chỉ đường bệ, giống hệt cô công chúa ở thâm cung:
- Ta là công chúa Bình-Dương, tại sao các người thấy ta không hành lễ? Các người có biết rằng như vậy là phạm tội đại bất kính, phải chặt đầu ư?
Cô gái có dáng điệu, tiếng nói giống hệt Mỹ-Linh. Còn Thiệu-Cực mọi khi mặt bình thường, bây giờ mặt tròn ủng, bụng hơi lớn, dáng diệu phục phịch, người lạ trông sẽ tưởng lầm là Thiệu-Thái.
Thiệu-Cực cười:
- Em có hiểu gì đâu. Sáng nay mạ mạ nhận được thư cậu hai. Mạ mạ bảo em phải lấy ngựa trình diện cậu để nhận lệnh. Trên đường đi sẽ gặp một viên chức thủy quân, nhất nhất nghe lời viên chức này. Em đang trên đường về Thăng-long thì gặp Đỗ phu nhân. Phu nhân đưa em vào ngôi nhà trong một thôn ven đường cùng với cô nương đây. Rồi hoá trang cho bọn em.
Đỗ Lệ-Thanh cười:
- Vương gia ban lệnh bảo tiểu tỳ rằng phải hoá trang cho cô nương đây thành công chúa. Nhị thế-tử thành thế-tử. Hai vị sẽ lên đường về Mê-linh, hầu đánh lạc hướng bọn Tống. Bây giờ nhị thế-tử với cô nương sẽ được đưa sang bên kia bờ, cỡi ngựa đi Mê-linh. Trong khi đó công chúa, thế-tử cùng tiểu tỳ đi cứu vương mẫu.
- Vương mẫu tôi gặp nạn sao?
- Đúng thế. Người không hề trốn đi, cũng không viết thư để lại. Vương phi bị bắt cóc, rồi người ta giả tuồng chữ vương phi viết thư cho vương gia, hầu đánh lạc hướng. Không tin công chúa thử coi lại thư của vương mẫu mà xem.
Mỹ-Linh móc thư ra xem lại. Nàng giật bắn người lên, vì nét chữ trong thư quả có nhiều khác biệt với nét chữ của vương mẫu. Nàng chửi thầm:
- Phụ vương cũng như mình quả thực thiếu tinh tế. Thấy tuồng chữ hơi giống đã vội tin ngay. Chết thực. Nếu không có chú hai, phụ vương với mình như lạc vào trong giấc mơ.
Nàng hỏi:
- Không biết ai bắt cóc vương mẫu tôi, bắt để làm gì?
- Công chúa thử đoán xem?
Nàng vỗ hai tay vào nhau, mắt sáng lên:
- Tôi hiểu rồi! Chúng bắt cóc vương mẫu, sao đó viết thư để lại. Cứ như trong thư, ai cũng đoán vương mẫu tìm Hoàng Văn trả thù. Do vậy phụ vương tin thực, sai tôi đi tìm về. Đi tìm, tôi phải tới nhà Hoàng Văn tra khảo y. Như vậy họ muốn chia rẽ tôi với Hoàng Văn chăng?
Đỗ Lệ-Thanh lắc đầu:
- Nếu muốn chia rẽ công chúa với Hoàng Văn, họ thiếu gì cách, mà phải bầy ra kế này, đôi khi vô hiệu.
Thiệu-Thái nhăn mặt:
- Không lẽ chúng muốn cài bẫy hại Mỹ-Linh?
Ai cũng tưởng Đỗ Lệ-Thanh lắc đầu. Không ngờ mụ gật đầu liền hai cái:
- Họ muốn bắt sống công chúa với thế-tử.
Mỹ-Linh hiểu liền:
- Họ muốn bắt sống hai chúng tôi, rồi ép khai yếu quyết luyện Mê-linh kiếm pháp cùng Mục-ngưu thiền chưởng hẳn?
- Công chúa chỉ mới đoán trúng một nửa. Họ còn muốn bắt sống công chúa với thế-tử để biết nơi chôn cất kho tàng. Vì nơi chôn cất hai kho tàng Tần-Hán, Âu-Việt trên thế gian này chỉ công chúa với thế-tử biết nơi tàng trữ mà thôi. Kho tàng Âu-Việt xưa nay, chưởng môn phái Mê-linh biết chỗ dấu. Kho tàng Tần-Hán chỉ Hồng-thiết giáo, nay thành Lạc-long giáo có bản đồ nơi chôn.
Mỹ-Linh nhảy phắt lên:
- Họ là ai?
- Tống triều. Vì vậy Khai-Quốc vương cho hai vị đây giả trang công chúa cùng thế-tử, lên đường đi Mê-linh, hầu đánh lạc hướng bọn chúng. Vương gia cũng cho làm tài liệu giả, để lỡ hai vị đây bị bắt, trao cho chúng. Chúng theo đó đi tìm, để rồi chẳng được gì cả. Bây giờ chúng ta cho hai vị này lên bờ, lấy ngựa đi Mê-linh.
Thiệu-Thái lo cho em:
- Nếu em tôi bị chúng vây bắt, với võ công của y sao có thể chống nối?
Thiệu-Cực không giống anh. Chàng thuộc loại người tinh minh, mẫn cán. Vì vậy ngay từ năm mười ba tuổi, đã được bố mẹ cho trông coi hệ thống tế tác vùng Bắc-biên. Giống như ngày nay bao gồm cả tình báo quốc nội, quốc ngoại. Ở Bắc-biên, người ta gọi Thiệu-Thái là ông ỉn, vì chàng vốn to béo kềnh càng, tính tình lại chân thật. Còn Thiệu-Cực được gọi là sơn-kiêu tức con cú ở rừng.
Thời cổ, khi ví người xảo quyệt vô lương tâm, người ta gọi là gian-hoạt tức con chồn tinh ma. Khi ví người khôn ngoan, mưu trí, anh hùng, nhưng trông bề ngoài khù khờ, hiền lành, thường gọi là kiêu-hùng hay sơn kiêu. Kiêu là con cú. Con cú thường cúi đầu ủ rũ như người ngủ. Nhưng trong đầu óc, lại thực sáng suốt, mưu trí tuyệt vời.
Nghe anh lo nghĩ cho mình, Thiệu-Cực cảm động:
- Ỉn khỏi lo cho em. Ỉn quên mất rằng mọi đường đi, nước bước của chúng đều bị cậu hai với chúng mình biết rồi hay sao? Ỉn cũng quên mất rằng, trong tâm tư chúng, chúng biết võ công ỉn cao nhất thiên hạ. Kiếm thuật Mỹ-Linh thần sầu quỷ khốc hay sao? Chúng thấy bọn em, tưởng rằng em là ỉn, sư muội đây là Mỹ-Linh. Đến Triệu Khuông-Dẫn sống lại ra lệnh, chúng cũng không dám lại gần bọn em. Chúng chỉ có thể đánh thuốc mê, hay bỏ thuốc độc vào thức ăn. Khi bọn em đề phòng rồi, thì còn sợ gì nữa?
Anh em Thiệu-Thái vốn cùng bố mẹ chung lo quốc sự, nên thường đùa vui với nhau suốt ngày, mà thương yêu nhau vô cùng. Chàng vẫn không yên tâm:
- Cú rừng nói thế, anh tin thế. Song khi chúng chủ tâm bắt anh với Mỹ-Linh, ắt chúng có mưu kế khác thần diệu hơn. Lỡ ra cú rừng với cô nương đây vào tay chúng, e nguy lắm chứ không chơi đâu.
Thiếu nữ giả Mỹ-Linh chỉ vào cái túi bên cạnh, lên tiếng:
- Lợn lo cho em với Thiệu-Cực như vậy cũng phải. Nhưng lợn ơi! Nếu chúng không giám bắt sống em với cú rừng, ắt chúng tìm cách ăn trộm cái túi này. Trong túi có cuốn phổ chép Mê-linh kiếm pháp cùng Mục-ngưu thiền chưởng giả. Cũng có hai cuốn nữa, chép nơi dấu kho tàng Tần-Hán, Âu-Việt cũng giả. Khi ăn cắp xong, chúng cao chạy xa bay ngay. Còn trường hợp cú rừng với em bị bắt, có hai sự kiện xẩy ra.
Mỹ-Linh nghe tiếng thiếu nữ rất quen, nàng suy nghĩ xem đã gặp nàng ở đâu. Thiếu nữ thấy Mỹ-Linh nghĩ không ra, nàng cất tiếng rao dài thườn thượt:
- Ai bún riêu không!
Mỹ-Linh bật kêu lên:
- Thanh-Trúc! Thảo nào tiếng nói trong quá.
Thiếu nữ giả Mỹ-Linh chính là người mang tên Thanh-Trúc, đã được bố trí làm cô hàng bún riêu, đưa Ngô Tích vào lưới của Khu-mật viện tại Vạn-thảo thôn trang. Hôm về Thăng-long, Mỹ-Linh được biết Thanh-Trúc không phải thôn nữ, mà là con quan lễ bộ thượng thư. Quan lễ bộ thượng thư gọi Lập-nguyên hoàng-hậu bằng cô. So vai vế, Thanh-Trúc với Mỹ-Linh ngang vai nhau. Nàng vốn văn hay chữ tốt, lại võ công thâm hậu, cho nên Khai-Quốc vương mới tuyển nàng làm việc cho Khu-mật viện. Để tiện hành động, vương nhận nàng làm con nuôi.
Mỹ-Linh mừng quá, ôm lấy Thanh-Trúc:
- Em giả trang hay quá, đến chị mà cũng không nhận được. Thế hai trường hợp xẩy ra như thế nào?
- Trường hợp thứ nhất, chúng không khám phá ra sự giả mạo của anh Cực với em. Em làm bộ chống đối, rồi trao bản đồ giả cho chúng. Còn chúng khám phá ra sự giả mạo. Em khai rằng hai đứa hoá trang ăn cắp kiếm phổ, chưởng phổ cùng bản đồ. Không may bị chúng bắt được. Tóm lại cả hai trường hợp, chúng đều bị lừa cả.
Mỹ-Linh vẫn lo cho vương mẫu:
- Thế thực sự vương mẫu bị chúng bắt đem đi đâu?
Thiệu-Thái đưa mắt nhìn Thanh-Mai, Bảo-Hòa hỏi ý kiến. Bảo-Hòa suy nghĩ một lúc, rồi đứng dậy nói:
- Lạc-Long giáo của chúng ta không phải tổ chức chính sự, triều đình. Đạo Phật từ Tây-trúc vào Lĩnh-Nam, Trung-nguyên được. Lạc-Long giáo cũng có thể truyền đi khắp nơi. Lạc-Long giáo thờ các vua Phục-Hy, Thần-Nông, Kinh-Dương, Lạc-Long cùng các anh hùng của tộc Việt. Tôn chỉ chính lấy hiếu, nghĩa, làm căn bản. Lạc-long giáo cần phải truyền bá rộng rãi. Có điều mỗi nơi, tùy hoàn cảnh địa phương, có thay đổi chút ít.
Nàng ngừng lại một lúc, tiếp:
- Huống hồ khi xưa Quốc-tổ, Quốc-mẫu sinh trăm con, trao cho mỗi con khai hoang, qui dân lập quốc một vùng. Trải qua mấy nghìn năm, nay phân ra làm sáu nước cùng vùng Lưỡng-quảng. Tuy tiếng nói khác nhau, nhưng phong tục tương đồng. Tất cả đều thờ Quốc-tổ, Quốc-mẫu. Các nước thuộc tộc Việt hiện chưa xâu xé nhau, nhưng người Tống lúc nào cũng tìm đủ cách xúi dục chúng ta tương tàn, hầu lực yếu đi, họ mang quân sang chiếm. Giữa sáu nước, chỉ Lạc-long giáo có thể làm điểm qui tụ tinh thần đoàn kết cùng hoà giải xung đột. Vậy không những ta phải giữ nguyên, mà cần phát triển thêm ra.
Thiệu-Thái hỏi:
- Bản nhân muốn biết danh tính của Tã, Hữu hộ pháp, cùng ngũ Sứ. Hành trạng của các vị ấy ra sao?
Lê Đức đáp:
- Tả hộ pháp là Đào Tường-Phúc. Hữu hộ giáo là Chu Bội-Sơn. Đào tả hộ pháp xuất thân phái Cửu-chân. Chu hữu hộ pháp xuất thân phái Khúc-giang. Cả hai vị võ công không thua gì Nhật-Hồ lão nhân. Còn ngũ sứ gồm Nguyễn San, Bun Thành, Nguyễn Thúy-Minh, Sử-vạn Na-vượng, Khiếu Tam Bản. Cả bẩy vị đều là sư đệ của Nhật-Hồ lão nhân, nên luyện thành Hồng-thiết tâm kinh. Đào làm giáo chủ vùng Quảng-Tây, Đàm-châu, Quế-châu. Chu làm giáo chủ vùng Ngô-Việt, Quảng-Đông. Còn lại Sử trấn Lão-qua, Bun trấn Xiêm, Khiếu trấn Chân. Nguyễn San trấn Chiêm đã qua đời. Nguyễn Thúy-Minh trấn Đại-lý, hiện mất tin tức.
Đặng Trường hỏi:
- Thưa giáo chủ. Hiện bản giáo có mấy vấn đề cần giải quyết. Vấn đề thứ nhất, tối quan trọng. Mai này có cuộc thí võ của triều đình, chọn người làm tướng. Vấn đề thứ nhì, cứ như lời Triệu Thành, năm tới đây Tống mở võ đài ở Biện-kinh. Không biết bản giáo đối với việc này ra sao? Vấn đề thứ ba cũng không kém quan trọng. Hiện nay anh hùng thiên hạ đang hăm hở tìm kho tàng Tần-Hán cùng Âu-Việt. Bản giáo có tham dự không?
Thiệu-Thái tuy được vua Bà Bắc-biên huấn luyện thuật lãnh đạo từ nhỏ. Nhưng chàng bị đặt vào ngôi giáo chủ trong tình trạng ngoài sự dự liệu. Bây giờ phải giải quyết ba vấn đề trọng đại, chưa dám đưa ra đường lối hành động. Chàng hỏi ngược lại:
- Xin các vị cho biết ý kiến.
Chàng nhấn mạnh:
- Đầu tiên bàn việc tuyển võ của Đại-Việt đã. Trước đây trưởng lão Hoàng Văn cho bốn đệ tử dự tuyển. Trưởng lão Hoàng Liên bốn. Trưởng lão Đỗ Xích-Thập hai. Như vậy chúng ta có tới mười người ứng thí. Không biết bản lĩnh anh em đó thế nào? Hơn năm trước, trong âm mưu trường kỳ mai phục, Triệu Thành lệnh khiến chân tay của y như Nguyên-Hạnh, Hoàng Văn, Hoàng Liên, Đỗ Xích-Thập cho đệ tử dự thi võ của triều đình. Nếu trúng tuyển, các đệ tử ấy đương nhiên trở thành tướng cầm quân. Khi Tống đem binh qua, những tướng ấy sẽ làm nội ứng. Việc họ bàn với nhau ở Cổ-loa, Thiệu-Thái, Mỹ-Linh nghe được. Bây giờ Thiệu-Thái hỏi đến. Bọn Hoàng Văn, Xích-Thập vừa kinh ngạc, vừa thẹn thùng.
Mỹ-Linh biết thế, nàng đỡ cho chúng:
- Trước kia, các đệ tử thuộc Hồng-thiết giáo, một loại tà ma ngoại đạo. Còn bây giờ, họ đương nhiên thành đệ tử Lạc-long giáo, một tôn giáo chính đạo nhất Đại-Việt. Tôi mong đệ tử của các vị sẽ đạt được kết quả. Dù không trúng cách, tôi cũng đề bạt họ vào những chức vụ xứng đáng.
Thiệu-Thái tiếp lời Mỹ-Linh:
- Mai đã là ngày thi tuyển rồi. Vậy đêm nay Mỹ-Linh chỉ điểm cho bốn đệ tử của cố trưởng lão Hoàng Liên. Bảo-Hòa phụ trách hai đệ tử của Đỗ trưởng lão. Còn bốn đệ tử của Hoàng Văn trưởng lão, xin...mợ hai giúp dùm. À quên, tối nay mợ hai bận. Thôi được bản nhân sẽ làm việc đó.
Thiệu-Thái vốn chậm chạp, khi truyền lệnh cho Mỹ-Linh, Bảo-Hoà chàng dám. Nay phải truyền lệnh cho Thanh-Mai, chàng không biết nói gọi nàng như thế nào cho đúng. Trong đầu óc chàng loé lên tia sáng: Thanh-Mai sắp thành vương phi Khai-Quốc vương, chàng phải gọi nàng bằng mợ. Vì vậy chàng tuôn ra tiếng mợ hai.
Thanh-Mai biết rằng, tối hôm nay Thuận-Thiên hoàng-đế cùng ba vị Hoàng-hậu đãi yến Thiên-trường ngũ kiệt ở điện Long-thụy. Trong thiếp nói rõ ngoài Thiên-trường ngũ kiệt, Thuận-Thiên cửu hùng ra, không có ai khác. Thanh-Mai hiểu rằng Hoàng-đế muốn đưa lời chính thức cầu hôn cho Khai-Quốc vương. Tuy biết vậy, nghe Thiệu-Thái gọi bằng mợ, nàng vẫn ngượng.
Thanh-Mai đánh trống lảng:
- Bây giờ tới vấn đề võ đài Biện-kinh.
Đào Nhất-Bách truyền giáo ở biên giới lâu ngày. Y hiểu biết tình hình bên Tống. Y phát biểu:
- Thưa giáo chủ cùng quý trưởng lão. Trước khi bàn về võ đài Biện-kinh. Chúng ta cần phân tích tình hình bên Tống trước đã. Sau đó nghiên cứu tình hình các nước khác. Cuối cùng, chúng ta tùy theo triều đình Đại-Việt, rồi mới có thể quyết định. Thuộc hạ thấy việc này thỉnh ý Khai-Quốc vương, hầu thống nhất hành động. Vậy chỉ còn vấn đề kho tàng mà thôi. Vấn đề kho tàng, từ trước đến giờ trưởng lão Lê Đức vẫn phụ trách. Xin tưởng lão trình bầy cùng giáo chủ.
Lê Đức đứng dậy. Y lấy ra cuốn trục bằng lụa, vẽ bản đỗ Trung-quốc, Đại-Việt, Đại-lý treo lên. Y chỉ lên trục lụa nói:
- Thưa giáo chủ, trước kia nhà Chu diệt vua Trụ, lên ngôi vua. Vua Võ vương thu được kho tàng rất lớn. Nhà Chu làm vua trải tám trăm năm, hơn nghìn chư hầu tiến cống. Kho tàng thêm giầu có, súc tích. Tần diệt Chu, cùng các chư hầu, kho tàng càng chồng chất lên. Vua Cao tổ nhà Hán đánh vào Hàm-dương, cướp lấy kho tàng đó của con trai Thủy-Hoàng, đem về Trường-an. Từ đấy kho tàng mang tên kho tàng Thủy-Hoàng. Cao tổ sai Tiêu Hà xây điện Vị-ương, dưới nền cất chôn kho tàng Thủy-Hoàng.
Thiệu-Thái hỏi:
- Tôi nghe nhà Tây-Hán làm vua trên hai trăm năm, thôn tính hàng chục nước nhỏ, cướp tài vật của người ta đem về. Lại nữa, các chư hầu tiến cống. Tích sản ấy đâu có nhỏ? Vậy ngoài kho tàng Tần Thủy-Hoàng, ắt còn kho tàng Tây-Hán. Kho tàng ấy sau đi đâu?
Từ lúc được Thiệu-Thái cứu trị Chu-sa độc chưởng, tuy bề ngoài Lê Đức tôn phục vị tân giáo chủ trẻ tuổi. Nhưng trong lòng, y vẫn coi chàng như trẻ con. Bây giờ thấy chàng đặt câu hỏi, tỏ ra mẫn tiệp vô cùng. Trên gương mặt y hiện ra nét kính phục. Y có biết đâu, truyện kho tàng Trung-quốc thời Tần-Hán, chàng đã được Khai-Quốc vương thuật cho nghe nhiều lần. Tuy chàng ít chú ý. Nhưng cũng biết lờ mờ, không đến nỗi mù tịt.
Lê Đức cung kính tiếp:
- Giáo chủ thực minh mẫn. Tây-Hán trải hai trăm năm, được các chư hầu tiến cống, cũng như ăn cướp của các nước nhỏ. Họ cất giữ thành một kho tàng nữa. Kho tàng này mang tên Tây-Hán. Sau hơn hai trăm năm cai trị, kho tàng ấy nhiều vô kể. Khi Vương Mãng cướp ngôi nhà Hán. Y biết mình không đức, khó tranh giữ giang sơn lâu dài. Y đem châu báu của nhà Tây-Hán cùng đào kho tàng ở nền điện Vị-ương lên, rồi đem chôn cất một nơi bí mật. Thành ra kho tàng này mang tên kho tàng Tần-Hán.
Mỹ-Linh đã biết rất tường tận vụ này. Tuy vậy nàng muốn thử xem Lê Đức có thực tình với Lạc-long giáo không, nàng hỏi:
- Giai đoạn ấy tôi cũng nghe qua. Lúc Phan Sùng tức Xích-Mi giúp Cảnh-Thủy hoàng đế đánh Vương Mãng. Y tiến vào Trường-an. Thấy kho tàng Tần-Hán lớn quá. Y nảy ra tham tâm, sai thủ hạ đem chôn ở vùng hồ Động-đình. Sau khi chôn, y cho giết hết bọn quân lính để bảo mật. Cuối cùng dường như kho tàng Tần-Hán lọt vào tay vua Trưng?
Lê Đức gật đầu:
- Lời công chúa tuyên phán rất đúng. Vua Quang-Vũ nhà Hán được anh hùng giúp sức trung hưng đại nghiệp. Nghiêm-Sơn, Đặng Vũ đem quân tiến đánh Trường-sa. Xích Mi bại. Trước khi xuất trận lần cuối, y gọi một tỳ nữ, mà bình sinh y rất sủng ái đến trao cho bản đồ nơi cất kho tàng cùng Ngọc-tỷ truyền quốc. Y đâu ngờ tỳ nữ đó chính là liệt nữ Lĩnh-Nam Trần Thiếu-Lan. Lúc Trưng Nhị, Phật Nguyệt, Hồ Đề, Trần Năng đem quân đánh Trường-sa. Trần Thiếu-Lan trao bản đồ nơi cất kho tàng Tần-Hán cho Trưng Nhị. Các anh hùng thời ấy mở bản đồ ra. Thì ôi thôi bên trong chỉ đầy chữ số với một ít địa danh, chứ không có bản đồ. Công chúa có biết về sau ra sao không?
Mỹ-Linh mỉm cười:
- Tên Xích-My rất khôn ngoan. Y khắc bản đồ nơi cất kho tàng vào tấm đồng, rồi cắt ra thành mười sáu thẻ. Y lại đúc hai con gấu bằng đồng đen rỗng bụng. Trong bụng mỗi con, y bỏ vào tám thẻ đồng, rồi trao cho hai con trai, mỗi người một con gấu, để sau này hai anh em phải hợp nhau lại mới có thể tìm ra nơi cất báu vật. Như vậy vẫn chưa cho rằng đủ. Y sợ sau này lỡ hai con gấu đó lạc vào tay người khác thì sao? Cho nên trên bản đồ y ghi chú địa danh bằng chữ số. Như một y ghi vào chỗ Tương-giang, hai y ghi vào chỗ Trường-sa. Song tuy trao gấu cho hai con, mà y chưa trao cho mật số đó.
Nàng ngừng lại nhìn Lê-Đức, rồi tiếp:
- Lúc biết mình sắp gặp nguy. Y chép tất cả những chữ số, tương quan với địa danh trao cho liệt nữ Thiếu-Lan. Bà Thiếu-Lan trao cho Trưng-Nhị. Nhưng trong khi đó hai con gấu cất tám thẻ đồng bản đồ lọt vào tay Thiên-ưng lục tướng. Trưng Nhị, Thiên-ưng lục tướng họp với nhau, tìm ra nơi cất kho tàng chính là một căn nhà hầm dưới đáy hồ Động-đình. Đường hầm vào đáy hồ nằm trên một cù lao. Tôi chỉ biết đến đây. Lê trưởng lão chắc biết nhiều hơn.
Hồi còn thơ, Mỹ-Linh đã nghe phụ vương nói nhiều về kho tàng Tần-Hán, song nàng không mấy chú ý. Lúc về phủ Khai-Quốc vương, hàng ngày nàng được dọc những phúc trình của các nơi gửi về Khu-mật viện, nên nàng biết rất rõ chi tiết.
Đại để thiên hạ có hai kho tàng lớn. Một mang tên Âu-Việt, một mang tên Tần-Hán. Khi nghe Lê Đức trình bày về kho tàng Tần-Hán, nàng thuận miệng nói ra hết những gì mình biết về nguồn gốc kho tàng Tần-Hán đã thuật ở trên.
Còn kho tàng Âu-Việt, có liên hệ rất nhiều đến lịch sử Đại-Việt. Truyền sử nói rằng Quốc-tổ, Quốc-mẫu cho trăm hoàng tử đi qui dân lập ấp. Mỗi năm các hoàng tử về chầu một lần. Tục lệ định rằng, các hoàng tử phải mang những gì trân quý nhất dâng phụ hoàng. Quốc-tổ truyền cất bảo vật vào kho tàng. Trải suốt hơn hai nghìn năm triều đại Hồng-Bàng, các lạc hầu, lạc tướng dâng lên vua không biết bao nhiêu vàng ngọc châu báu mà kể. Kho tàng mang tên Văn-lang.
Đến đời vua Hùng thứ tám mươi tám, vì vua hôn ám, rượu chè quá độ. Anh hùng các nơi tôn một lạc hầu tên Thục-Phán lên làm thủ lĩnh, diệt vua Hùng, thành lập triều đại Âu-lạc. Trong trận chiến cuồi cùng. Phò mã Sơn-Tinh tuy võ công vô địch, nhưng chỉ giữ kinh đô được hai tháng. Biết rằng kinh đô trước sau cũng thất thủ. Phò mã Sơn-Tinh cho chở kho tàng Văn-lang đem lên vùng Tản-Viên cất dấu. Tương truyền kho tàng ấy phải chở đến mười xe ngựa mới hết.
Khi đoàn xe chở kho tàng sắp tới núi Tản-Viên, Sơn-Tinh gặp đạo quân phục kích của Vạn-tín hầu Lý Thân. Lý Thân với Sơn-Tinh đấu với nhau trong suốt ba ngày bất phân thắng bại. Sau Lý Thân thấy không thể thắng nổi Phục-ngưu thần chưởng. Ông nhân Phục-ngưu thần chưởng, chế ra chưởng pháp âm nhu khắc chế với dương cương. Vì vậy Sơn-Tinh bị bại, bỏ chạy lên núi Tản-Viên. Lý Thân cướp được kho tàng Văn-lang.
Lý Thân đem kho tàng chôn ở một nơi rất bí mật. Sau đó con cháu Lý Thân lập ra phái Long-biên. Người chưởng môn phái Long-biên luôn giữ bí mật về nơi chôn cất kho tàng Văn-lang.
Vua An-Dương cai trị Âu-lạc tuy không lâu, nhưng các lạc hầu, lạc tướng dâng hiến không thiếu gì vàng bạc, châu báu. Ngài cất ở thành Cổ-loa. Trong thời Âu-lạc, bên Trung-quốc trải qua thời kỳ thất quốc tranh hùng. Nhà Tần diệt sáu nước, thống nhất Trung-nguyên. Mỗi khi một nước bị diệt, con cháu vua chúa, đại thần sợ bị giết. Họ mang theo bảo vật, trốn xuống Âu-lạc xin kiều ngụ. Những bảo vật đó, họ dâng cho vua An-Dương. Hoặc bán đi làm kế sinh nhai. Các lạc hầu, lạc tướng mua, dâng cho vua. Vua An-Dương có kho tàng Âu-lạc vĩ đại, chôn dấu vào cùng nơi với kho tàng Văn-lang, gọi chung bằng danh tự kho tàng Âu-lạc.
Triệu Đà chiếm Âu-lạc, kho tàng ấy thuộc về y. Họ Triệu đem kho tàng Âu-lạc cất về Phiên-ngung. Họ Triệu cai trị nước Nam-Việt một thời gian dài, lại thu được không biết bao nhiêu của quý, thành kho tàng Nam-Việt. Họ Triệu cất kho tàng Nam-Việt vào cùng nơi kho tàng Âu-lạc, gọi bằng tên kho tàng Âu-Việt. Khi Lữ Gia giết Cù-Thị, Thiếu-Quý. Vua Hán sai bọn Lỗ Bác-Đức đem quân chiếm Nam-Việt. Kho Âu-Việt ấy lọt vào tay Trường-sa vương nhà Hán. Hồi Vương Mãng cướp ngôi nhà Hán, Thiên-sơn thất hùng nổi lên tranh thiên hạ. Công-tôn Thiệu đem quân đánh Trường-sa. Thiệu đem chở về cất ở thành Bạch-đế.
Thời Lĩnh-Nam, Trưng Nhi, Phật Nguyệt, Trần Năng, Hồ Đề đem quân trợ Hán đánh Thục, chiếm Xuyên-khẩu. Đại tư mã Hán Đặng Vũ hứa rằng ai vào Bạch-đế đầu tiên, sẽ thưởng cho kho tàng Âu-Việt trong tay Công-tôn Thiệu. Trận đánh sau đó, Thiên-ưng lục tướng lọt vào Bạch-đế đầu tiên, bắt sống Công-tôn Thiệu. Đặng Vũ giữ lời hứa tặng kho tàng ấy cho Lục-tướng. Hồ Đề sai em là Hồ Hác chở về Tản-viên chôn cất. Nơi chôn cất chỉ có Hồ Đề, Hồ Hác, Trưng Nhị, Nguyễn Phương-Dung biết.
Sau khi vua Trưng tuẫn quốc, Bắc-bình vương Đào Kỳ cùng Vương-phi Phương-Dung trấn thủ Long-biên. Lúc biết thế nước suy vi, không giữ nổi thành nữa, vương cùng Vương-phi bàn nhau giao con cùng bộ Lĩnh-Nam vũ kinh cho vợ chồng sư đệ Sún-Rỗ. Vương phi ghé tai Sún Rỗ nói cho biết nơi chôn cất kho tàng Âu-Việt.
Sún-Rỗ, Sa-Giang khắc bộ Lĩnh-Nam vũ kinh, Dụng-binh yếu chỉ vào hầm đá dưới đền thờ Nhâm Diệm, Tích Quang. Cả hai đã di chúc cho con cháu mình, cùng con của Bắc-bình vương là Đào Tử-Khâm, Đào Tường-Qui. Trong giòng dõi họ Đào đều giữ bí mật về hầm đá. Nhưng đến đời thứ mười tám, người trưởng tộc chết bất đắc kỳ tử, thành ra bí mật hầm đá trở thành tuyệt tích.
Suốt nghìn năm qua, võ lâm Lĩnh-Nam cho rằng bộ Lĩnh-Nam vũ kinh, Dụng-binh yếu chỉ cùng kho tàng Âu-Việt chỉ là huyền thoại. Cho đến hôm Mỹ-Linh, Bảo-Hoà, Thanh-Mai lọt vào hầm đá. Mỹ-Linh học thuộc hết các bia. Nhưng nàng tuyệt không thấy ghi chép nơi chôn cất kho tàng Âu-Việt kia.
Tại đại hội võ lâm ở Lộc-hà. Sư thái Tịnh-Tuệ truyền chức chưởng môn cho Mỹ-Linh, trao tay nàng một cuốn sách dày. Bà thuật cho nàng biết rằng sách chép ba phần khác nhau. Phần thứ nhất tiểu sử các vị chưởng môn tiền nhiệm. Phần thứ nhì ghi chú tất cả bí quyết võ công. Phần thứ ba chép về bí mật kho tàng thời Tần-Hán, Âu-Việt. Cả ba phần đều chép bằng thuật ngữ đặc biệt, gồm tới ba trăm tiếng. Bà đọc vào tai nàng bài quyết, giải thích những thuật ngữ đó.
Đúng ra Mỹ-Linh nói rõ thêm những điều nàng biết về hai kho tàng trên. Nhưng nàng tự nghĩ:
- Mấy ông trưởng lão Hồng-thiết này xảo quyệt vô cùng. Mình không nên nói hết, để xem họ trình bầy có đúng như bí mật mình có không?
Nàng hỏi:
- Đấy, những điều tôi nghe Vương mẫu thuật về kho tàng Tần-Hán, Âu-Việt giống như truyện cổ tích. Không ngờ lại là sự thực. Hồng-thiết giáo đã nhiều năm sưu tầm, hẳn trưởng lão tìm ra được nơi cất hai kho tàng đó.
Lê Đức thấy Mỹ-Linh ngây thơ, y tưởng thực. Y tiếp:
- Vua Trưng thành đại nghiệp, ngài sai công chúa Yên-Lãng Trần Năng lên đào kho tàng Tần-Hán mang về Giao-chỉ. Khi đoàn chuyên chở đến Khúc-giang thì gặp đoàn cao thủ của Mã thái hậu đánh cướp. Công chúa Yên-Lãng vội sai chôn vào một hang núi, rồi lấp cửa hang lại. Nay kho tàng ấy ở trong vùng Quảng-Đông. Vì vậy thuộc hạ tổ chức giáo chúng ở đây rất chặt. Anh em đã bới từng hốc đá, từng gốc cây, cuối cùng đã tìm ra manh mối, chỉ còn chờ lệnh giáo chủ, sẽ cho khai quật.
Mỹ-Linh thấy Lê Đức có đôi chút thực thà. Nàng hỏi:
- Dường như truyện kho tàng Tần-Hán chôn tại Khúc-giang ai cũng biết. Tại sao mấy nghìn năm nay, người ta phải chờ đúng ngày rằm, giờ Tý, tháng mười một, năm Đinh-Mão mới đổ xô nhau tìm kiếm? Có gì lạ không?
Lê Đức trả lời bằng cái lắc đầu:
- Thuộc hạ phụ trách vụ này trên năm mươi năm qua, nghĩ đến nát óc mà không ra. Chỉ biết truyền thuyết nói: Cứ sáu mươi năm, tức một hoa giáp, nhằm ngày rằm, giờ Tý, tháng mười một, năm Đinh-Mão, cửa hang chôn cất mới mở ra một lần mà thôi. Nếu năm nay, không ai tìm ra, phải sáu mươi năm nữa mới trở lại tìm được.
Y ngừng lại một lúc, rồi đưa mắt nhìn Bảo-Hòa, Mỹ-Linh:
- Kho tàng Âu-Việt hiện chôn trên núi Tản-viên. Nhưng núi Tản lớn như thế, biết đâu mà tìm. Từ xưa đến giờ, phái Tản-viên, Mê-linh cùng giữ bí mật nơi chôn cất. Nếu hai phái hợp lại với nhau thì tìm ra. Song hai chưởng môn chưa bao giờ đồng ý về việc: Đào lên, ai sẽ được hưởng. Vì vậy kho tàng vẫn nằm trong lòng núi. Nay công chúa Bình-Dương lĩnh chưởng môn phái Mê-linh. Quận chúa Bảo-Hòa lĩnh chưởng môn phái Tản-viên vốn cùng huyết tộc. Xin hai vị mau hợp nhau, đào lên.
Mỹ-Linh lắc đầu:
- Kho tàng Âu-Việt không phải của phái Mê-linh hay Tản-viên, mà thuộc về con dân tộc Việt. Tôi nghĩ chỉ đại hội võ lâm mới có quyền quyết định mà thôi.
Thiệu-Thái đưa mắt hỏi Tồm đô nguyên soái, tiết độ sứ, đại tướng quân, phó nguyên soái, phó tiết độ sứ, phó tướng quân, nội điện chỉ huy sứ, chiêu thảo sứ, thiên tướng, thần tướng. Mỹ-Linh được Khai-Quốc vương cấp binh phù cho, chứng nhận đẳng trật tới thứ chín tức tiết độ sứ. Còn lão già xưng hai nhánh tức thiên tướng. Như vậy cấp của hắn khá cao.
Mỹ-Linh hỏi:
- Lão tiên sinh báo danh tính đi.
- Tiểu nhân họ Vũ tên Hoàn, thuyền trưởng.
- Vũ thuyền-trưởng ngồi xuống đây đi. Vũ thuyền-trưởng tải những gì sang Trung-quốc bán?
Trong mật lệnh, Khai-Quốc vương dặn Mỹ-Linh rằng thuyền trưởng cũng như thủy thủ đều được thông báo rằng nàng với Thiệu-Thái là anh em cô cậu. Cả hai xuất thân văn quan làm võ quan, chỉ biết mấy thế võ phòng thân. Hai anh em giả sang Trung-quốc học thêm về y khoa. Tuyệt nhiên họ không biết thân thế anh em nàng, cũng không biết gì về Đỗ Lệ-Thanh.
Vũ Hoàn kính cẩn:
- Tại hạ vốn thuộc bang Hồng-hà, làm nghề vận tải đường sông từ Thăng-long đi Tuyền-châu. Còn hàng, tùy theo khách đem theo. Tại hạ không buôn bán gì cả.
Đỗ Lệ-Thanh hỏi:
- Đường từ Thăng-long đi Tuyền-châu mất mấy ngà
- Nếu không bị gió Bắc thổi, mất mười ngày. Còn khi có gió Bắc, e đến hơn nửa tháng. Đường đi chia làm nhiều chặng. Chặng đầu tiên Thăng-long, Ngọc-sơn mất một ngày. Thuyền nghỉ nửa ngày cho khách lên, nhận thêm khách xuống. Chặng thứ nhì Ngọc-sơn đi Bạch-đằng. Nghỉ tại Bạch-đằng một ngày, sau đó đi Miếu-sơn mất một ngày rưỡi. Nghỉ ở Miếu-sơn nửa ngày, rồi đi Khâm-châu. Tại Khâm-châu, chờ giấy phép của quan trấn thủ Tống, rồi lên đường đi Hải-nam. Từ Hải-nam đi thẳng Tuyền-châu.
Thiệu-Thái đã từng ở Bắc-biên, chàng thuộc lòng địa thế các châu Trung-quốc giáp giới với khê động Đại-Việt, nên lão Trịnh nói gì chàng không chú ý cho lắm. Chàng hỏi:
- Tôi nghe vùng biển giáp giới Tống, Việt có bọn cướp ở trại Như-hồng thường đón thuyền buôn hãm hại. Trên thuyền ta có đủ lực lượng chống với chúng không?
Lão Vũ tỏ vẻ tự đắc:
- Đối với thuyền khác, bọn chúng dám đánh cướp, chứ đối với thuyền của bản bang, cho ăn vàng bọn chúng cũng không dám. Công tử, tiểu thư đừng lo.
Thiệu-Thái hỏi:
- Trên thuyền có bọn nào cần đề phòng không?
- Tất cả đều phải đề phòng. Tài công chính là con trưởng của lão tên Vũ Ngọc. Hiện có tới hơn hai trăm khách đi Trung-nguyên. Tăng có, tục có, nam có, nữ có. Võ công cao có, võ công thấp có. Tồt hơn hết ba vị cứ ở trong khoang thì hơn hết.
Nói rồi lão từ tạ lui bước.
Thiệu-Thái, Mỹ-Linh mở cửa sổ nhìn ra sông. Nước sông Hồng chảy siết, thuyền trôi mau như tên bắn. Đỗ Lệ-Thanh bàn:
- Chúng ta đang ở trên tầng cao nhất của con đò. Tầng này chỉ có ba phòng. Phòng cho tài công ngồi lái ở chính giữa. Phòng bên phải của thuyền trưởng. Chúng ta ở phòng bên trái. Tất cả khách đi thuyền đều ở tầng giữa. Tầng dưới cùng chất hàng. Tiểu tỳ nghĩ chủ nhân nên đục một lỗ, nhìn xuống xem bên dưới có những ai, hầu đề phòng.
Mỹ-Linh tuy đã đi ra ngoài, kinh lịch nhiều. Song nàng được giáo huấn rất kỹ trong tinh thần Nho, Phật. Thấy Lệ-Thanh đề nghị hợp lý, nhưng thân phận nàng, một công chúa, cha mẹ trăm họ, có đâu đi rình rập người dân?
Nàng chưa kịp cản, thì Đỗ Lệ-Thanh đã chỉ vào một chỗ ván gần cửa sổ, bảo Thiệu-Thái:
- Chủ nhân vận Thiền-công vào ngón tay chỏ rồi khoan chỗ này, chúng ta dễ dàng nằm dài mà quan sát.
Thiệu-Thái hít hơi, chiã ngón tay chỏ quay mấy vòng. Ván thuyền bị khoan tan thành mùn. Đúng ra với công lực của chàng, chỉ cần chọc một cái, đừng nói ván thuyền, đến gạch, đá cũng thủng. Nhưng vì chàng sợ chọc mạnh, mùn rơi xuống dưới, ắt bị lộ hình tích.
Chàng vừa khoan, vừa móc mùn lên. Lát sau, ván thuyền thủng một lỗ nhỏ. Đỗ Lệ-Thanh nằm dài ra, ghé mắt nhìn xuống dưới. Quan sát một lát, mụ ngừng lại, lấy tay bịt lỗ rồi nói:
- Chủ nhân! Bên dưới có tới bốn mươi hàng ghế. Mỗi hàng chia làm hai dẫy, tổng cộng tám mươi ghế. Có tất cả ba trăm năm mươi người ngồi. Đông thực!
Mỹ-Linh tỏ vẻ không hài lòng:
- Phu nhân! Hãy lấy giấy bịt lỗ đó lại. Mình có nhiều truyện phải bàn.
Trước câu nói dịu dàng, uy nghiêm của Mỹ-Linh, Đỗ Lệ-Thanh líu ríu tuân theo. Mỹ-Linh hỏi:
- Đỗ phu nhân! Phu nhân mang theo bao nhiêu loại thuốc? Có thuốc tê, thuốc mê không?
Lệ-Thanh mỉm cười:
- Thưa công chúa, không thiếu thứ nào cả.
Thủy thủ mang cơm lên. Cơm canh khá thịnh soạn. Ba người ăn xong, leo lên dường nằm ngủ. Ba ngày trôi qua, ngửi hơi gió tanh tanh, Mỹ-Linh biết mình đang đi trên biển.
Chợt Thiệu-Thái chỉ ra ngoài cửa sổ. Mỹ-Linh nhìn theo: trên trời, hai con chim ưng bay lượn trên đầu một con thuyền buôn khác đang đi trước thuyền bang Hồng-hà khoảng vài dặm. Thiệu-Thái đặt nghi vấn:
- Không biết chim ưng hoang hay của Khu-mật viện. Con thuyền kia của ai? Chúng ta cho thuyền vượt lên ngang, quan sát mới biết được.
Ba người ra ngoài sàn thuyền đứng nhìn trời. Mỹ-Linh thấy tài công chính thiếu niên đón mình ban nãy, mà thuyền trưởng Vũ Hoàn giới thiệu y là con lão tên Vũ Ngọc. Nàng bảo y:
- Anh cho thuyền lướt mau lên một chút. Khi đi ngang thuyền kia, thì cho chạy chậm lại, song song với chúng.
Thiếu niên gật đầu. Y kéo mạnh hai sơi dây buồm. Con thuyền lập tức tăng tốc độ. Phút chốc đuổi kịp con thuyền trước mặt. Y nhìn con thuyền kia, nói sẽ:
- Thuyền kia của bang Đông-hải. Họ cũng làm nghề vận tải, song chạy đường Thăng-long, Thanh-hóa, Nghệ-an, Chiêm-thành, Chân-lạp, Xiêm-la.
Mỹ-Linh nhìn con thuyền bang Đông-hải, hỏi:
- Vũ huynh đệ. Sao người biết thuyền kia của bang Đông-hải?
Ngọc tỏ vẻ hiểu biết:
- Thưa tiểu thư, các thuyền chuyên chở đều vẽ hình, để thủy quân từ xa nhận được. Thuyền của Đại-Việt, trên hai bên mũi, vẽ con mắt cực lớn. Thuyền của Trung-quốc, vẽ vòng Bát-quái. Trên cột buồm cao nhất treo ba lá cờ. Một lá của quốc gia trên đỉnh cao nhất. Lá thứ nhì của bang, hội hay hãng buôn. Như con thuyền kia, chỏm có lá cờ Đại-Việt. Thấp hơn một chút có lá cờ mầu vàng, với hình mặt trời mọc. Ở giữa có hình con chim hải âu tung cánh.
Y chỉ lên cột buồm thuyền mình:
-- Còn như thuyền ta, trên đỉnh cũng treo cờ Đại-Việt. Cột thấp hơn treo cờ mầu xanh, có hình chim ưng tung cánh.
Mỹ-Linh được biết bang Đông-hải vốn thuộc chính phái. Bang trưởng tên Hùng Cơ. Gốc bang Đông-hải do các tướng thủy quân thời Lĩnh-Nam lập ra.
Nguyên sau khi vua Trưng tuẫn quốc, rồi đô đốc Trần Quốc, Tử-Vân, Giao Chi trước sau cũng bị hại. Chư tướng không chịu phục người Hán, chiếm cứ các đảo Đông-hải, tự lập thành bang. Nay vẫn sống ngoài vòng cương toả.
Người trên thuyền bang Đông-hải dơ tay vẫy. Vũ-Ngọc cũng vẫy tay lại. Thiệu-Thái thấy quả hai con chim ưng bay lượn trên trời hơi giống chim của Khu-mật viện do Bắc-biên cung cấp. Chàng chợt nhớ ra:
- Phải rồi, chim ưng kia của dì An-Quốc với phò mã Đào-cam-Mộc. Không biết hai vị đó cho chim theo dõi thuyền bang Đông-hải để làm gì? Trong thuyền có nhân vật nào kỳ lạ không?
Chàng bảo Vũ Ngọc:
- Người cho thuyền chạy sau thuyền bang Đông-hải khoảng một dặm.
Hai con thuyền, một trước, một sau, hướng về phía Đông. Bỗng từ phía hạ lưu, hai con thuyền cực lớn, dàn ra ngang sông. Mỹ-Linh chú ý, thấy trên cột buồm có lá đại kỳ, trên vẽ hình con rồng uốn khúc. Ở giữa có con chim âu tung cánh. Nàng biết đó là kỳ hiệu của thủy quân Đại-Việt
Một thủy thủ đứng trên đài, cầm cờ mầu đỏ phất qua phất lại, ngụ ý ra lệnh cho con thuyền của bang Đông-hải với con thuyền bang Hồng-hà ngừng lại. Hai con thuyền bang đang lướt sóng, cánh buồm lớn từ từ hạ xuống. Con thuyền chạy chậm hẳn lại. Khi còn cách chiến hạm hơn hai dặm, cánh buồm nhỏ quay ngược chiều, cản gió, làm con thuyền chậm dần, chậm dần rồi đứng lại.
Một viên thủy thủ cầm loa nói vọng sang:
- Phiền thuyền quý bang ngừng lại. Chúng tôi được lệnh tuần tiễu, kiểm soát hành khách trước khi thuyền lên Bắc. Xin quý khách đâu ngồi nguyên đó, không chạy lộn xộn, để quan binh làm việc.
Dường như quen thuộc với nhiệm vụ. Hai chiến hạm kè song song với hai thuyền buôn. Năm thủy thủ cùng đẩy một tấm ván làm cầu, bắc ngang giữa chiến thuyền với thuyền mình.
Từ trên chiến thuyền, một đội quan binh hai mươi người, do viên đội trưởng chỉ huy, leo cầu tiến sang. Phía sau có năm người mặc quần áo theo lối văn quan. Mỹ-Linh nói nhỏ:
- Năm văn quan kia làm việc tại ty Thương-bạc, có nhiệm vụ thu thuế.
Thuyền trưởng dẫn đội thủy quân vào trong khoang kiểm soát thẻ bài hành khách. Trong khi đó năm viên Thương-bạc kiểm soát các bao hành lý. Khi kiểm đến Mỹ-Linh, Thiệu-Thái, viên đội trưởng thấy nàng với Đỗ-lệ-Thanh đeo kiếm, y phóng một cái nhìn khắp người, rồi vẫy cho đám thủy thủ tiếp tục lui xuống dưới kiểm soát.
Đám thủy thủ đi rồi, nhanh như chớp, viên đội trưởng móc trong túi ra một ống tre nhỏ sẽ đặt vào tay Thiệu-Thái. Y dơ ngón tay như hành lễ, sau đó theo đồng đội xuống dưới khoang.
Thiệu-Thái đưa mắt cho Mỹ-Linh, rồi vào khoang thuyền, mở ống tre. Bên trong có mẩu giấy viết mấy chữ. Mỹ-Linh nhận ra bút tích của chú:
Bất cứ trường hợp nào cũng không được lộ hình tích. Tuyệt đối cấm xử dụng võ công. Chỉ trường hợp nguy đến tính mệnh mới được phản ứng. Có tin tức gì, sai chim ưng đưa thư. Ta phải dùng chim ưng của Vạn-hoa sơn trang, hầu đánh lạc hướng chúng .
Dưới vẽ bông sen, Mỹ-Linh biết đó là biểu hiệu của Khai-Quốc vương. Khi mới vào thuyền, Mỹ-Linh nhận cuốn trục do Đỗ Lệ-Thanh trao cho. Trong trục Khai-Quốc vương cho biết vương phi Khai-Thiên hiện bị bọn Tống áp tải bằng đường thủy về Trung-quốc. Vương biết rất rõ đường đi nước bước của chúng. Nếu muốn giải thoát, vương chỉ việc sai một chiến thuyền chặn bắt. Nhưng vương muốn dùng bà chị dâu lập một chút công lao với Đại-Việt, hầu Thuận-Thiên hoàng đế ban chỉ ân xá đặc biệt cho bà cái tội ô danh thất tiết. Như vậy mới cứu được Khai-Thiên vương.
Khi bà trên đường bị giải về Trung-nguyên, Khai-Quốc vương sẽ dùng người Khu-mật viện chuyển thư cho bà, dặn bà cách thức lừa bọn Tống đến một chỗ thực lạ đào kho tàng. Trong khi đó, nhóm Đại-Việt thản nhiên chở kho tàng về. Lệnh dặn Mỹ-Linh, Thiệu-Thái cứ đến Quảng-Nam lộ, rồi tới Khúc-giang. Tới đó, cơ sở Lạc-long giáo sẽ tiếp đón. Những trưởng lão Lạc-long giáo, cùng cao thủ phái Đông-a, Sài-sơn, Tiêu-sơn, cũng âm thầm tới sau.
Bây giờ Mỹ-Linh mới biết tại sao trên mấy con thuyền của bang Đông-hải lại có chim ưng của phò mã Đào Cam-Mộc. Nàng nhận thêm lệnh không được xử dụng võ công, ắt trên thuyền có gian nhân Tống. Cũng có thể vương mẫu cùng đi một thuyền.
Từ bên chiến hạm thứ nhì, ba người đeo kiếm tiến sang thuyền bang Hồng-hà. Mỹ-Linh nhận ra người già, gầy là Đông-Sơn lão nhân, người mập mập là Triệu Huy, và một người nữa trang phục theo lối thủy quân Việt. Nàng đưa mắt cho Đễ-lệ-Thanh với Thiệu-Thái, ngụ ý "phải cẩn thận". Bọn Triệu-Huy đi từng hàng ghế quan sát hết mọi hành khách, rồi lên sàn thuyền. Thấy bọn Mỹ-Linh, đã hoá trang thành một phụ nữ già, một thiếu phụ, một trung niên nam tử. Triệu-Huy đưa mắt cho viên võ quan. Viên võ quan hỏi Vũ Ngọc:
- Ba người này là ai?
Vũ Ngọc thản nhiên đáp:
- Họ gốc người Thăng-long, đáp thuyền sang Trung-quốc.
Viên võ quan tiến lại hỏi Đỗ Lệ-Thanh:
- Bà cho xem thẻ bài.
Đỗ Lệ-Thanh trình thẻ bài ra. Viên võ quan cầm lấy xem xét, rồi trao cho Triệu Huy. Y hỏi Mỹ-Linh, Thiệu-Thái:
- Ông bà tên gì? Bao nhiêu tuổi?
Mỹ-Linh đáp:
- Tôi họ Đỗ tên Linh, ba mươi tuổi. Còn người này là anh em cô cậu với tôi tên Thái Thân, ba mươi lăm tuổi.
Triệu Huy cầm thanh kiếm của Mỹ-Linh, Thiệu-Thái quan sát, rồi đưa mắt ra hiệu cho viên võ quan. Viên võ quan nói:
- Bản chức họ Đoàn tên Thông, chỉ huy hạm đội tuần tra các cửa biển cho đến Ngọc-sơn. Vì các vị có một vài vết nghi ngờ. Xin mời các vị sang chiến hạm để lấy khẩu cung.
Mỹ-Linh biết cạnh nàng, Đông-Sơn lão nhân cùng Triệu Huy đang theo dõi, nàng tránh nói nhiều. Chỉ cần sơ xuất một chút, có thể bị lộ hình tích, hỏng kế hoạch của Khu-mật viện. Nàng ra hiệu cho Lệ-Thanh, Thiệu-Thái tỏ ý không phản đối. Nàng hỏi lại:
- Chúng tôi có hành lý. Vậy mang theo hay để ở đây?
Triệu Huy đáp thay viên võ quan:
- Mang theo hết.
Ba người theo bọn Triệu Huy sang chiến hạm. Hai chiến hạm tách rời thuyền của bang Đông-hải, Hồng-hà, rồi kéo buồm hướng về phía Đông. Viên võ quan đưa ba người vào một khoang thuyền lớn. Y chỉ Triệu Huy:
- Vị này làm việc tại Khu-mật viện, được phái theo thủy quân, hầu tra xét, bắt một số gian nhân Tống sang Đại-Việt làm gian tế. Yêu cầu các người thành thực trả lời, nếu sai trái, chiếu luật chặt đầu.
Mỹ-Linh nghĩ thầm:
- Không biết bọn này giả thủy quân Đại-Việt hay chúng đánh chiếm chiến hạm Đại-Việt, rồi bầy ra trò này. Ta cứ im lặng, như người dân xem sao?
Triệu Huy hất hàm, một thủy thủ mở hành lý Mỹ-Linh ra khám. Trong túi hành lý của nàng chỉ có quần áo, ít tiền, vàng, bạc. Ngoài ra còn quyển kinh Lăng-già, do chính nàng chép tay.
Tên thủy thủ khám hành lý Thiệu-Thái, chúng cũng không tìm thấy gì hơn. Khám đến hành lý Đỗ Lệ-Thanh, y thấy có hơn năm mươi bình nhỏ đựng thuốc. Triệu Huy hỏi:
- Các người đáp thuyền bang Hồng-hà, định đi đâu?
Mỹ-Linh đáp:
- Chúng tôi vốn hành nghề thầy thuốc. Nay sang Tống học thêm.
- Người nói lạ. Hiện y học Đại-Việt thịnh hơn Tống, mà người lại sang Tống học ư?
Lệ-Thanh đáp thay Mỹ-Linh:
- Đành rằng y học Việt hơn y học Tống. Song mỗi nơi có một sở trường riêng. Chúng tôi cần học thêm hầu mở mang kiến thức.
Triệu Huy hỏi bằng tiếng Quan-thọai:
- Các người có biết tiếng Trung-quốc không, mà định sang học nghề thuốc?
Đỗ Lệ-Thanh cười thầm:
- Mi hỏi ta điều gì, chứ hỏi điều đó, thì thực ngu.
Bà đáp bằng tiếng Quảng:
- Dĩ nhiên chúng tôi biết nói, biết viết, mới dám di xa tìm thầy học chứ!
Triệu Huy nhìn viên võ quan lắc đầu, tỏ ý thất vọng:
- Đem bọn này theo, hay gọi thuyền Hồng-hà trả về?
- Giữ chúng lại, tránh lộ tung tích.
Triệu Huy nói:
- Các người đó nhiều điều khả nghi. Vì vậy bản chức giữ lại để điều tra thêm. Trong thời gian ở đây, ta giam các người dưới lòng chiến hạm. Các người sẽ phải phụ trách nấu bếp, lau chùi. Đợi sau chuyến tuần hành, ta sẽ thả các người ra.
Y gọi:
- Đội trưởng Đam đâu?
Một viên đội trưởng thủy quân bước vào, đứng chờ lệnh:
- Ta giao cho mi quản thúc ba người này. Cung cấp thực phẩm nuôi dưỡng đầy đủ, dùng họ vào việc bếp núc.
Đam vâng dạ, dẫn ba người đến trước cái cửa. Sau cửa hiện ra cầu thang xuống dưới lòng chiến hạm. Lòng chiến hạm không tối lắm, vì có nhiều cửa sổ. Y đẩy cửa, chỉ xuống dưới:
- Đây là lòng chiến hạm. Trong có mười phòng giam tù và một phòng công cộng. Các người ở phòng công cộng. Đừng tò mò vào mười phòng giam tù. Trái lệnh sẽ bị ném xuống biển. Các người ngủ ở dưới này. Khi có việc, ta sẽ gọi lên.
Nói rồi y đóng cửa lại. Thiệu-Thái theo cầu thang đi trước. Mỹ-Linh, Đỗ Lệ-Thanh theo sau. Thiệu-Thái dùng Lăng-không truyền ngữ nói vào tai Mỹ-Linh, Lệ-Thanh:
- Phải cẩn thận, chúng đang rình ta đó.
Mỹ-Linh nói lớn:
- Thủy quân thực lạ lùng. Chúng mình không có tội, mà sao lại bị giam thế này?
Lệ-Thanh vờ đáp:
- Họ nghi ngờ chúng ta làm gian tế cho Tống?
Thiệu-Thái hùa theo:
- Nếu nghi ngờ, sao không bắt tất cả mấy trăm người trên thuyền bang Hồng-hà?
Mỹ-Linh thở dài:
- Chắc chỉ chiều hay mai chúng mình sẽ được tha ra.
Lệ-Thanh kiếm chỗ sạch, cùng Mỹ-Linh, Thiệu-Thái vờ nằm ngủ. Nội công Thiệu-Thái rất cao. Chàng áp tai vào van thuyền, nghe rõ tất cả những âm thanh người ta nói ở phía trên. Nào âm thanh của thủy thủ nói truyện với nhau, nào âm thanh của đám tù nhân. Lại có âm thanh của Triệu Huy với viên hạm trưởng. Triệu Huy băn khoăn:
- Chúng ta canh phòng trên sông này, đến hôm nay đã mười ngày, như vậy chắc chúng nó không đi theo đường thủy. Phải báo cho vương gia biết, mà theo dõi đường khác.
Tiếng viên võ quan nói:
- Tin tức cho biết, chúng xuống chiến thuyền ở bến Tiềm-long, rồi lên bộ đi ngựa. Không lẽ chúng về Mê-linh thực?
Triệu Huy tiếp:
- Nhất định Khu-mật viện dính vào vụ này. Khi thấy Bình-Dương, Thiệu-Thái từ chiến hạm lên bờ Bắc sông Hồng đi Mê-linh. Đoàn do thám của Vương đại nhân theo bén gót. Đêm xông thuốc mê bắt được chúng. Sau khi khám xét, thì ra chúng không phải Thiệu-Thái, Bình-Dương. Thằng con trai thú nhận tên Thiệu-Cực, em Thiệu-Thái. Đứa con gái là tình nhân của nó. Hai đứa khai rằng chúng hoá trang thành Bình-Dương, Thiệu-Thái mục đích ăn cắp phổ, chưởng phổ cùng bản đồ kho tàng rồi trốn đi. Vương đại nhân cùng Đông-Sơn lão nhân luyện kiếm, chưởng thử, thấy không kết quả. Vì vậy vương gia mới truyền cho chúng ta bắt bằng được hai đứa nó, mới mong luyện thành.
Tiếng Đông-Sơn lão nhân nói:
- Trong chiến hạm này, chúng ta bắt oan đến hơn hai mươi người rồi. Thôi, liệu đến Ngọc-sơn thả họ ra cho rồi.
Tiếng Dư Tĩnh nói:
- Phải giết hết chúng để phi tang. Thả chúng ra, ắt chúng nói ầm lên. Khu-mật viện biết Dực-Thánh vương hành sự cho Thiên-triều thì nguy tai.
Bây giờ, Thiệu-Thái, Mỹ-Linh mới tỉnh ngộ:
- Thì ra thế. Hôm ở Thiên-trường về Thăng-long, mình đã thấy Dực-Thánh vương dùng chiến thuyền hỗ trợ bọn Tống. Mình cáo với cậu hai, nào ngờ ra cậu biết rồi. Cậu tâu lên ông ngoại. Đáng lẽ ông ngoại làm tội. Nhưng vì trong buổi giỗ Bắc-bình vương, ông ngoại ban chỉ đại xá thiên hạ. Tưởng như vậy Dực-Thánh vương ắt thôi, không dám đi với bọn Tống nữa. Đâu biết ngựa quen đường cũ, vương còn lộng hành, sai thủy đội hỗ trợ bọn Tống chống Khu-mật viện. Thế là công khai làm phản rồi.
Ba người nháy nhau, rồi ngủ đi lúc nào không hay. Bỗng có tiếng gõ cửa ầm ầm, rồi đội Đam vào trong khoang nói:
- Ba người đi học thuốc đâu, mau ra làm việc.
Bọn Mỹ-Linh tỉnh dậy, theo chân đội Đam ra ngoài, leo lên tầng thứ nhất. Một khoang khá lớn dùng làm bếp. Đội Đam nói:
- Các người phải giúp hoả đầu quân nấu bếp.
Có ít nhất hơn hai mươi thủy thủ phụ trách hoả đầu quân, tất cả đặt dưới quyền một trưởng bếp tên Triệu Tu. Mỹ-Linh liếc mắt nhìn Triệu Tu, gương mặt y vàng ủng, trông như người bị bệnh. Chợt nàng để ý thấy lưng y quen vô cùng, mà trong nhất thời không biết nàng đã gặp y ở đâu.
Chúng giao cho ba người làm cá. Đỗ Lệ-Thanh, Thiệu-Thái từng ra ngoài, việc làm cá tuy chưa trải qua bao giờ, nhưng ít ra cũng thấy đôi lần. Còn Mỹ-Linh đây là lần đầu tiên nàng làm cá. Tuy vậy, bản chất thông minh, lại khéo tay, chỉ liếc qua, nàng làm được ngay.
Mỹ-Linh đưa mắt nhìn ra, bốn bề mênh mông, nước biển xanh ngắt. Chiến thuyền của nàng đi thứ tư, ở giữa. Hai bên còn hai chiến thuyền đi kè song song. Phía sau còn năm cặp, phía trước cũng năm cặp chiến thuyền nữa đi hàng đôi. Nàng nhủ thầm:
- Phải rồi, đây là một thủy đội. Mỗi thủy đội có mười hai chiến hạm, và một soái hạm. Dường như thủy đội này đang đi về phía Bắc.
Trên cột buồm, hai con chim ưng đậu cạnh nhau. Mỹ-Linh cười thầm:
- Chú hai thực tinh tế. Nếu người dùng chim ưng của Khu-mật viện, e Dực-Thánh vương biết. Người dùng chim ưng của Vạn-hoa sơn trang, ai cũng tưởng chim hoang. Được, ta phải dấu mấy cục than, hầu viết thư cho chú hai.
Đỗ Lệ-Thanh dùng Lăng-không truyền ngữ nói với Mỹ-Linh:
- Công chúa, nếu công chúa muốn, tiểu tỳ bỏ chút thuốc độc vào chum nước, ắt chúng mê man hết.
Mỹ-Linh dùng Lăng-không truyền ngữ trả lời:
- Không nên. Trong chiến thuyền này, ít ra hơn ba trăm thủy thủ. Nếu họ đều bị đánh thuốc mê hết, ai là người lái thuyền? Ai là người căng buồm?
Sau khi làm bếp xong, đám thủy thủ cho ba người ăn rất tử tế, rồi đội Đam đem giam xuống khoang thuyền. Đỗ Lệ-Thanh dùng Lăng-không truyền ngữ nói nhỏ:
- Thế nào chúng cũng theo dõi mình. Vậy mình không nên có hành vi gì cho chúng nghi ngờ. Tạm thời ngủ đã.
Mỹ-Linh bàn nhỏ:
- Tôi thấy dường như thủy thủ không biết gì về việc làm ám muội của Dực-Thánh vương với bọn Tống. Họ cứ tưởng chúng ta phạm pháp. Vì vậy, nếu phải ra tay, chẳng nên đả thương họ.
Ba người nằm xuống ngủ ngay. Hôm sau, tiếng chim hải âu kêu trên biển, khiến ba người tỉnh giấc. Nhìn qua cửa sổ ra ngoài, Mỹ-Linh thấy thuyền đậu trên một bãi biển. Nàng nhận ra bãi biển Ngọc-sơn. Vì năm trước, nàng đã có dịp theo Khai-Quốc vương duyệt thủy quân ở đây một lần.
Ba người ở dưới hầm thuyền hơn ngày, thuyền lại ra khơi. Lệ-Thanh bàn:
- Tối nay chắc chúng không theo dõi mình nữa đâu. Mình thử tìm cách xem mười phòng này chúng giam những ai?
Ba người tiến tới phòng giam đầu tiên. Mỹ-Linh gõ cửa mấy cái. Thiệu-Thái hỏi vọng vào:
- Ai bị giam trong này?
- Ai hỏi đó?
Tiếng nói rất quen. Thiệu-Thái đáp:
- Tôi cũng bị giam, nhưng được ở phòng phía ngoài.
Người bên trong nói:
- Tôi bị đánh thuốc mê, rồi khi tỉnh dậy, thấy bị giam ở đây. Chân tay bị khoá bằng xích. Đây là đâu?
Thiệu-Thái tường thuật tỷ mỷ những gì ở trên thuyền cho người đó. Trong khi ấy Mỹ-Linh gõ cửa phòng thứ nhì. Nàng hỏi vọng vào, mà trong phòng không có tiếng trả lời. Nàng hỏi nữa, thì giọng phụ nữ, nói tiếng Quảng:
- Tôi không có tội gì cả. Tôi người Khúc-giang, sang Đại-Việt buôn bán. Trên đường từ Khâm-châu đi Thăng-long thì bị bắt giam. Họ không nói cho biết tôi bị tội gì.

Truyện Lời nói đầu Chương 1 Chương 2 Chương 3 Chương 4 Chương 5 Chương 6 Chương 7 Chương 8 Chương 9 Chương 10 Chương 11 Chương 12 Chương 13 Chương 14 Chương 15 Chương 16 Chương 17 Chương 18 Chương 19 Chương 20 Chương 21 Chương 22 Chương 23 < Hoàng Văn, Đặng Trường cũng như Dực-Thánh vương. Tôi được lệnh theo dõi trong phủ Khai-Thiên. Không may bị Công-chúa khám phá ra tung tích.
Mỹ-Linh cảm động:
- Côi-sơn đại hiệp thực đáng bậc trí tuệ nhất thiên hạ. Người biết hết, vung tay trợ giúp. Này Trần đại công tử. Công tử có coi chúng tôi như Thanh-Mai không?
- Dĩ nhiên tôi coi Công-chúa cùng hai Quận-chúa như Thanh-Mai.
- Vậy công-tử cho chúng tôi gọi bằng đại ca, bằng anh như Thanh-Mai mới có thâm tình.
Thông-Mai cười rất tươi:
- Chà, tôi lại được ba cô em gái vừa thông minh, vừa đẹp như tiên nga, còn gì bằng nữa? Bây giờ chúng ta đi tìm Vương-mẫu.
Kim-Thành hỏi:
- Anh Thông-Mai này. Anh biết mẹ em đi đâu không?
- Bà không đi đâu cả, mà về tổng đàn phái Mê-linh. Mỹ-Linh hiện làm chưởng môn, có thể dùng uy quyền, bắt phái này đưa bà ra.
Có tiếng cung nữ nói vọng vào:
- Hoàng thượng chỉ dụ mời công chúa vào điện Long-thụy hầu yến.
Mỹ-Linh nhìn Thông-Mai mỉm cười:
- Ông nội em thiết yến mời Thiên-trường ngũ kiệt với sự hiện diện của Thuận-Thiên cửu hùng. Anh có biết mục đích không?
Thông-Mai gật đầu mỉm cười:
- Mỹ-Linh được Khai-Quốc vương nhận làm con nuôi phải không? Sau yến này, Mỹ-Linh phải gọi Thanh-Mai bằng mẹ đấy nhá. Như vậy tôi đang là anh Mỹ-Linh bỗng chốc thành bác. Oai gớm!
Mỹ-Linh nhận thấy các đệ tử Đông-a đều có tư thái giống nhau: Đa tài, đa năng, kiến thức quảng bác, tinh thần vị nghĩa cực cao. Nàng nghĩ đến Thanh-Mai thành mẹ mình, mà trong lòng khoan khoái. Nàng lắc đầu cười:
- Chú em đã định trước. Ai giữ vai người ấy. Như chú em với em cùng theo học với thầy Huệ-Sinh, mà phận chú cháu không đổi. Chúng em cùng kết hợp thành Thuận-Thiên cửu hùng, chị Thanh-Mai gọi chú em bằng anh. Em gọi chị ấy bằng sư tỷ. Sau này, không biết chú em định cho em gọi chị Thanh-Mai bằng gì?
Trường-Ninh hỏi Thông-Mai:
- Anh Thông-Mai à! Ông nội em đãi yến phái Đông-a, vậy anh có đi dự không?
- Đi chứ. Bố tôi truyền cho chúng tôi phải tề tựu ở trên con thuyền tại bến Ngự-long, rồi cùng lên đường vào cung. Thôi, tôi phải đi đây. Sau tiệc, chúng ta cùng đi Mê-linh tìm Vương-phi.
Thấp thoáng một cái, Thông-Mai đã vọt qua cửa sổ biến mất.
Mỹ-Linh bảo các em:
- Chị đến Long-thụy bồi yến với ông. Các em ở nhà nhớ hầu hạ phụ vương cho chu đáo.
Nàng sai cung nga thắng xe, rồi lên đường. Vì phủ Khai-Thiên ở ngoài Hoàng-thành, nên Mỹ-Linh phải vượt qua quãng đường khá xa để đến điện Long-thụy. Dọc đường, nàng để ý thấy tên phu xe hoàn toàn lạ mặt. Nàng hỏi:
- Này anh! Anh tên gì? Đến Vương phủ được bao lâu rồi?
Tên phu xe kính cẩn đáp:
- Khải tấu công chúa, hạ thần họ Trịnh tên Thư, mới nhập phủ hơn hai tháng nay. Vì Công-chúa vắng nhà, nên thần chưa được diện kiến.
Mỹ-Linh để ý thấy tên Thư có đôi mắt sáng lấp loáng, chứng tỏ nội công của y không tầm thường. Y đánh xe khác người thường. Người thường mỗi khi vung roi đánh ngựa, tay đưa về trước. Đây tay Thư bất động, y làm thế nào không biết, mà sợi dây da trên đầu roi vọt về trước, rồi tự động co lại. Rõ ràng y xử dụng nội công thượng thừa. Nàng nhủ thầm:
- Giữa Đại-Việt với Tống đang có cuộc chiến tranh tế tác. Tên này không chừng làm gian tế của Tống cũng nên. Ta cứ im lặng, đề phòng mới được.
Xe sắp vào đến cửa Phi-long, đáng lẽ chạy thẳng đến điện Long-thụy, lại rẽ sang cửa Tường-phù. Mỹ-Linh kinh ngạc. Nếu trước đây một năm nàng đã kinh hoàng la lớn lên. Nhưng bây giờ với võ công thâm hậu, nàng lại có chủ ý về tên Thư nên im lặng, không nói gì. Xe vượt qua điện Long-an, đến điện Giảng-võ ngừng lại.
Mỹ-Linh chợt để ý đến sợi dây đỏ trên nút áo cổ của tên Thư. Nàng thở phào yên tâm, vì y là người của Khu-mật viện.
--!!tach_noi_dung!!--

Đánh máy : CDDLT
Nguồn: CDDLT
Được bạn: NHDT đưa lên
vào ngày: 2 tháng 2 năm 2005

--!!tach_noi_dung!!--
--!!tach_noi_dung!!-- --!!tach_noi_dung!!--
Truyện Cùng Tác Giả Q1 - Anh Hùng Lĩnh Nam Q2 - Động Đình Hồ Ngoại Sử Q3 - Cẩm Khê Di Hận Q4- Anh Hùng Tiêu Sơn Q5- Thuận Thiên Di Sử Q6- Anh Hùng Bắc Cương Q7- Anh Linh Thần Võ Tộc Việt Q8- Nam Quốc Sơn Hà Q9- Anh Hùng Đông-A Dựng Cờ Bình Mông