CHƯƠNG 9

Khi Banks lái xe đến Eastvale vào sáng hôm sau thì trời vẫn còn tối, một lớp sương mù mỏng phủ kín các nơi trũng thấp trên mặt đường, và phủ các toà cao ốc, phủ kín lớp đá sỏi rải đường và cây thánh giá xưa cũ ở khu chợ. Vào lúc này của buổi sáng, các văn phòng nhỏ trên các tiệm buôn đã bật đèn sáng, có vài tiệm buôn đã mở cửa, và sương mù toả ra khiến cho ánh sáng trong các tiệm trông như lớp sa mỏng. Không khí lạnh và nhớp nháp.
Phía bên kia khu thương xá, hộp đêm Bar None vẫn còn giăng giây ngang trước cửa, và một cảnh sát sắc phục đứng gác. Hôm qua sau khi rời khỏi nhà Riddle, Banks trở về lại hộp đêm, ông thấy Đội khám nghiệm hiện trường vẫn còn làm việc và Annie đang hỏi cung. Tổng thanh tra Gristhorpe cũng đã lái xe từ Lyndgarth đến rồi.
Banks đi quanh một lát, nói chuyện với ông Gristhorpe về hiện trường, nhưng ở đây ông không còn việc gì để làm. Khi giới truyền thông đại chúng đến, sẽ hỏi han ông lôi thôi, ông bèn lái xe về nhà, nằm thao thức hai giờ trên ghế nệm dài, suy nghĩ về cái chết khủng khiếp của Emily Riddle, rồi lái xe đến trạm cảnh sát. Ông cố xua đuổi ý nghĩ có tội ra khỏi đầu óc, ý nghĩ này cứ lởn vởn quanh tâm trí ông như cá mập lởn vởn tìm mồi. Ông chỉ xua đuổi được một phần nào, là có việc để làm, có việc để chú tâm và xua đuổi bớt ý nghĩ ấy đi. Vấn đề khó khăn là những cảm nghĩ không hay này cứ tiếp tục chất chồng lên đầu ông ngay khi cả khi ông không nghĩ đến, khiến ông không thể nào làm ngơ được. Thế rồi, ngày qua ngày công việc làm, đã đến lúc ông cảm thấy mình tốt. Cứ nhìn lại công việc trong thời gian qua, ông không thể nói rằng mình có lỗi.
Những người thợ tu sửa khu nhà nới rộng chưa đến, nên quanh cảnh yên lặng. Banks đi vào văn phòng, đọc những bảng tường trình đêm qua và ghi chú những cảm nghĩ của mình. Như hầu hết các cảnh sát giỏi khác thường làm, ông ghi chú để cho mình, chứ không cho vào hồ sơ. Đây là những cảm nghĩ riêng tư, và thỉnh thoảng những cảm nghĩ này dẫn ông đến một nơi nào đấy đúng đắn, thường thì không. Cho dù cảm nghĩ như thế nào đi nữa, thì chúng cũng không thay thế cho sự kiện và bằng chứng được. Ví dụ ông ghi chú rằng ông nghĩ Darren Hirst đã nói sự thực và quả thực Emily đã có ma tuý ở đâu đó nữa ngoài số ma tuý mua ở Cross Keys hay là ở Bar None. Ông cũng ghi vào bản báo cáo tên hai kẻ buôn bán ma tuý ở địa phương sống rất thanh nhàn, đã từng vào ngủ trong phòng giam dưới tầng hầm của trạm. Chắc chúng sắp vào đây lần nữa.
Khi vầng dương bắt đầu ló dạng ở chân trời u ám mây, thì trạm cũng bắt đầu hoạt động ồn ào. Phòng hình sự được hình thành mau chóng và đi vào hoạt động, sĩ quan thám tử Rickerd đã thức suốt đêm để lo tổ chức phòng này. Máy vi tính được bày ra, nối mạng, điện thoại hoạt động, và nhân viên nhân sự vào làm việc, họ đưa dữ kiện vào máy vi tính, ghi vào nhật ký công việc phải làm. Ngay khi Banks cảm thấy cần uống cà phê điểm tâm, thì Phó cảnh sát trưởng McLaughlin tới, ông ta từ ban chỉ huy hạt ở Newby Wiske, ngoài Northallerton đến. Ông đóng trụ ở trong phòng ván, và 15 hay 20 phút sau, Banks được vời đến.
McLaughlin, Annie Cabbot và Tổng thanh tra cảnh sát Gristhorpe đang đợi ông. Banks chào họ rồi ngồi xuống. Annie có vẻ mệt mỏi, ông nghĩ chắc cô ta cũng mất ngủ như ông. Cô ta còn có vẻ nóng nảy, việc này quá bất thường đối với cô.
"Ron Đỏ" McLaughlin khoảng 50 tuổi, cao, mảnh khảnh, mái tóc màu xám cắt ngắn, thưa thớt chải ra phía trước, bộ râu mép nhỏ cũng màu xám. Ông ta đeo cặp kính gọng bạc, xệ xuống trên sống mũi, và có thói quen nhìn người đang nói chuyện với mình qua trên kính. Cặp mắt của ông ta cũng có màu xám như màu tóc.
-- À, Chánh thanh tra Banks, - ông ta nói, rồi lật tờ giấy và nhìn Banks trên gọng kính. - Tốt. Tôi sẽ bàn thẳng những chi tiết cụ thể với anh. Sáng nay tôi đã gặp Cảnh sát trưởng Riddle - thực ra thì ông ta đến gặp tôi - ông ta cho tôi biết ổng muốn anh cầm đầu ban điều tra về cái chết của con gái ổng. Anh nghĩ sao về việc này?
-- Tôi rất mong được làm việc này, - Banks đáp - Nhưng thú thực tôi không ngờ được giao cho công việc này.
-- Tại sao lại không ngờ?
-- Vì tôi đã biết nạn nhân, thưa ngài. Chỉ biết sơ sơ thôi, nhưng tôi cũng đã biết cô ấy. Và biết gia đình của cô. Tôi thiết nghĩ là chúng ta phải đưa người nào ở ngoài vào ban điều tra.
-- Thủ tục thông thường là thế đấy. - McLaughlin gãi dái tai của mình. - Ông cảnh sát trưởng đã nói rõ công việc của anh bấy lâu nay rồi, - ông ta tiếp - Ông ta đã yêu cầu anh đi Luân Đôn tìm con gái ổng, anh đã làm thế, phải không?
-- Phải, thưa ngài.
-- Và anh đã đưa cô ta về nhà phải không?
-- Phải, thưa ngài, - Banks cảm thấy Annie nhìn ông nhưng ông không quay mặt nhìn lại cô ta.
-- Tôi thấy việc này rất xứng đáng để anh đảm nhận công việc chỉ huy ban điều tra. Phải không?
Banks suy nghĩ một lát. Ông muốn kể cho Ron Đỏ nghe chuyện vào giờ ăn trưa. Chắc có người biết chuyện này, và thế nào báo buổi sáng cũng đăng tin về Emily bị giết chết. Thế nào cũng có người ở quán Bò Đen thấy họ, và có lẽ ít ra cũng có vài người biết Banks là ai.
Vả lại, nếu ông đã kể cho McLaughlin nghe hết mọi chuyện, thì chắc chắn ông phải kể chuyện này, bất kể ông Riddle muốn sao thì muốn. Đây là hành động cân bằng quyền lực một cách tế nhị thôi. Chỉ còn việc nguy hiểm là sợ có người ở khách sạn 55 tại Luân Đôn trông thấy ảnh Emily trên báo, họ sẽ nhận ra, nhưng Banks nghĩ rằng chuyện ở khách sạn đã lâu rồi, và đêm ấy trông Emily khác bây giờ nhiều, đêm đó cô mặc áo dạ hội, tóc chải cao trên đầu, cho nên có lẽ trông rất khác bây giờ.
Tuy nhiên, nếu Banks nhận nhiệm vụ chỉ huy cuộc điều tra, thì chắc ông sẽ được ở vào vị trí tuyệt nhất để vượt qua mọi khó khăn lúc hành sự. Ông lại biết về cuộc sống của Emily ở Luân Đôn rõ hơn bất cứ ai, việc này mang lại cho ông lợi thế khi săn lùng bọn đầu nậu trong giới tội phạm. Đây là một bọn cực kỳ phi luân, ông nghĩ chúng là bọn vô đạo đức hơn bất kỳ bọn nào trước đây.
Sau cùng, một trong những điều ông Riddle lo lắng là hành động của Banks, ông thường có hành động rất tự do, ngoài truyền thống của ngành thám tử. Nhưng Banks đoán cũng chắc vì thế mà Riddle đã yêu cầu ông đi Luân Đôn, và cũng vì thế mà bây giờ ông ta muốn ông chỉ huy ban điều tra. Đêm qua Riddle đã nói thế rồi.
-- Phải, thưa ngài, - cuối cùng Banks trả lời. - Tôi bằng lòng nhận công việc này. Khi ông nói câu này, ông nghĩ mình có thể đang đào nấm mồ cho mình. Việc cuối cùng ông muốn làm là tạo cho ông Phó cảnh sát trưởng có lý do để nể nang mình. Nhưng chuyện này không nên mong đợi làm gì. Mà trước hết ông phải nghĩ đến chuyện vì Emily; ít ra thì ông có nợ với cô ấy. Ông đã nói chỉ biết cô sơ sài thôi. Đây không phải là chuyện láo, nhưng như bao nhiêu chuyện có thực khác không được mình hài lòng, chuyện này để lại cho ông quá nhiều điều lo âu. Làm sao Banks tả được mối liên hệ ông cảm thấy mình đã có với Emily? Mối liên hệ này không hoàn toàn là tình phụ tử, mà cũng không đơn thuần là tình bè bạn.
-- Như tất cả quí vị đã biết, tôi là người mới nhận công tác và người mới đến xứ này, - McLaughlin nói. - Tôi làm công việc ở nhà, nghiên cứu hồ sơ, nhưmg tôi nghĩ còn lâu tôi mới có thể làm công việc ở ngoài được. Theo ông Riddle cho biết, thì anh là người giỏi nhất để đảm nhận công việc này. Ông Tổng thanh tra đây cũng bằng lòng như thế, và trong hồ sơ của anh, tôi thấy không có điều gì khác với nhận xét của mọi người.
Thật là chuyện làm cho Banks ngạc nhiên. Ông cứ nghĩ là do ông Riddle đã ghi vào hồ sơ của ông những nhận xét tiêu cực chứ. Nhưng McLaughlin đã cau mày và nói tiếp: - Nhưng không phải tôi nói hoàn toàn không có những điểm xấu nào của anh trong hồ sơ cá nhân đâu, Banks à. Anh cũng đã mắc phải lỗi lầm mà tôi mong anh tránh khỏi khi làm việc dưới quyền chỉ huy của tôi, nhưng nhờ các việc anh làm đều có kết quả tốt, nên những lỗi lầm của anh được bỏ qua. Ở đây có nhiều thay đổi, với sự tổ chức mới, tôi hy vọng anh sẽ thành công lớn trong công việc. Như thế rõ ràng chưa?
-- Rõ, thưa ngài.
-- Thế là công việc tổ chức đã xong. - McLaughlin nói. - Anh sẽ đảm nhận chức Trưởng ban điều tra vụ án của Emily Riddle. Còn Trung sĩ thám tử Cabbot, tôi nghĩ chắc cô không phản đối khi được đề cử làm phụ tá Sĩ quan Trưởng ban điều tra chứ?
-- Không, thưa ngài, - Annie đáp. - Xin cám ơn.
McLaughlin quay qua Gristhorpe:
-- Còn ông sẽ liên lạc với tôi ở Bộ chỉ huy vùng, thưa ông Tổng thanh tra. Được chứ?
Gristhorpe gật đầu.
-- Thế còn hệ thống HOLMES thì sao? - McLaughlin hỏi. HOLMES là từ viết tắt ghép từ các chữ đầu của hàng chữ HOME OFFICE LARGE MAJOR ENQUIRY SYSTEM, là hệ thống lưu trữ dữ kiện vào máy vi tính đã được triển khai từ vụ điều tra tên giết người ở Yorkshire. Tất cả việc gì đều được đưa vào máy, từ lời khai của nhân chứng cho đến các báo cáo của Đội khám nghiệm hiện trường. Tất cả đều được sắp xếp theo mục từ, cho vào mục lục, để khỏi có việc gì thất lạc trong khối lượng công việc văn phòng khác nhau bề bộn như trường hợp điều tra nhận diện tên giết người trước đây. Banks trả lời:
-- Tôi nghĩ là bây giờ chúng ta nên cho nó hoạt động trở lại. Đây là vụ án rất quan trọng. Tôi sẽ bố trí Sĩ quan thám tử Jackman vào công việc này. Cô ta đã được huấn luyện làm tốt việc này.
-- Rất tốt. - McLaughlin nhìn Banks rồi nhìn qua Annie - Nhân thể xin báo quí vị biết, bác sĩ Glendenning đã đề nghị cho mổ tử thi vào đầu buổi chiều, cho nên quí vị đừng ăn cơm trưa no quá. Tôi nghĩ cả hai người đều phải đến đấy. Tôi cũng bố trí thêm vài sĩ quan thám tử vào công việc này, - McLaughlin nói tiếp. - Vì có lẽ ta sẽ có rất nhiều công việc cùng một lúc. Tôi biết quí vị đang tiến hành điều tra một vụ giết người. Quí vị có thể tiếp tục được không?
-- Tôi thấy được, thưa ngài. - Banks nhớ hồi còn làm ở Trung ương, ông thường cáng đáng một lúc nhiều vụ án. - Chính thức thì vụ giết Charlie Courage vẫn là của Thanh tra Collaton, thuộc Đồn cảnh sát Leicestershire. Trung sĩ thám tử Cabbot đã điều tra phỏng vấn bước đầu rồi, nhưng tôi có thể giao cho Trung sĩ thám tử Hatchley tiếp tục làm việc này.
McLaughlin im lặng, đâu mười ngón tay lại với nhau và nhìn qua trên gọng kính.
-- Này quí ông quí bà, chúng ta đừng tỏ ra là mình chỉ làm những vụ nào mình thích, - ông ta nói, - nhưng chúng ta phải thừa nhận rằng vụ này phải được ưu tiên hàng đầu. Anh có ý kiến gì thêm nữa không, Chánh Thanh tra Banks?
-- Còn quá sớm chưa thể nói ra được, thưa ngài. Tôi muốn nói chuyện thêm với gia đình nạn nhân, có lẽ chiều tối hôm nay.
-- Ông Cảnh sát trưởng Riddle có nói về chuyện cô gái giao du với những thành phần bất hảo ở Luân Đôn. Có phải anh muốn nói về chuyện ấy không?
-- Có thể về chuyện ấy, - Banks đáp. - Có một tên đáng chú ý, đó là Barry Clough. Tôi sẽ gặp mặt hắn mới được.
-- Có phát hiện thêm điều gì không, Thám tử Cabbot?
-- Chúng tôi đã lục soát những người trong hộp đêm vào tối qua, thưa ngài, Annie đáp, - nhưng chúng tôi không tìm thấy gì ngoài một vài cái nhãn chất kích thích ecstasy, một số cần sa và mấy viên thuốc kích thích lạ.
-- Hy vọng không có ai kháng cự chứ?
-- Có chứ, thưa ngài. Có hai tên không chịu cho lục soát, tôi phải mời qua đồn. Chúng được sĩ quan phòng giam canh chừng trước khi bị bắt buộc tuột áo quần để lục soát. Cả hai đều mang theo ma túy với số lượng đủ để bán lẻ. Một tên mang cần sa theo dạng tinh thể, còn tên kia loại có vẻ như côcain.
-- Có tìm ra dấu hiệu gì có liên quan đến cái chết của cô Riddle không?
-- Thưa ngài, chúng tôi không thấy có dấu hiệu gì về chất stritnin, nhưng chúng tôi vẫn giữ hắn lại để đợi xem kết quả thử nghiệm có độc tố không.
McLaughlin ghi chép lên xấp giấy. Ông hỏi tiếp:
-- Còn máy truyền hình mạch kín thì sao? Hộp đêm có thiết lập không?
-- Không có, - Banks đáp. - Hộp đêm Bar None chưa thiết lập máy này, nhưng chúng ta đã quay được một số sự kiện từ hệ thống máy của chúng ta.
Máy Camera truyền hình mạch kín được thiết lập ở khu thương xá sau khi vấn đề trị an khắp nơi ở Eastvale không được đảm bảo, bọn du thủ du thực say sưa thường đến tụ tập quanh cây Thánh giá ở khu thương xá sau giờ đóng cửa các quán rượu. Đánh lộn xảy ra giữa các băng nhóm đối nghịch nhau, thường xảy ra trong thị trấn từ các làng nằm trong thung lũng, hay là giữa dân địa phương với lính tráng trong căn cứ quân sự ở gần đấy. Trong một vụ, một nữ du khách già đã bị mảnh gương bay vào người làm rách mặt phải khâu đến 16 mũi.
Knaresborough, Ripon, Harrogate và Leeds đều đã thiết lập máy truyền hình mạch kín ở khu trung tâm thành phố của họ, cho nên những vụ bắt được kẻ phạm tội gia tăng đáng kể, nhưng ở Eastvale thì thoạt tiên hội đồng thành phố không xét đến ý kiến thiết lập máy này, họ lập luận rằng làm thế sẽ khiến ngân sách thâm thủng quá nhiều, và họ còn cho là không cần thiết phải làm thế, vì đồn cảnh sát nằm ở bên hông khu chợ, cảnh sát phải có nhiệm vụ đứng ở cửa sổ mà canh chừng.
Sau khi đã tranh cãi kịch liệt, và hầu như vì bị tỷ lệ số bắt tội phạm cao ở Ripon gây ấn tượng mạnh, nên hội đồng thành phố đã nhượng bộ, cho thiết lập bốn máy camera ở những nơi quan sát đầy đủ nhất. Bốn máy này truyền trực tiếp đến phòng liên lạc nhỏ ở tầng trệt của Ban chỉ huy Phân đội điều tra của Eastvale, ở đây những cuốn băng thu lại các khuôn mặt của bọn gây rối quen thuộc và ghi lại bất cứ dấu hiệu nào của giới tội phạm. Banks nghĩ việc này có thể làm cho giới anh chị chùn chân nể tránh, nhưng ông vẫn muốn xác nhận rằng trong một vụ như thế này, các cuốn băng thu được cũng có thể có một ít giá trị.
-- Ít ra các cuốn băng này cũng cho chúng ta biết kẻ nào đã rời khỏi hộp đêm sau khi Emily và các bạn đến đây, - ông nói tiếp. - Đêm qua Darren Hirst hết sức chán nản vì quá bối rối đến nỗi không nhớ có thấy ai về hay không.
-- Ý kiến hay, - McLaughlin nói. - Có cần cho tái lập lại hiện trường không?
Banks hít vào một hơi thật dài. Bây giờ đã đến lúc rồi.
-- Tôi nghĩ không cần, thưa ngài. Hôm qua tôi có ăn trưa một lát với Emily. Cô ta cám ơn tôi về việc đã thuyết phục cô về lại với gia đình, và cô còn tỏ ra lo sợ nhân vật Clough này.
-- Nói tiếp đi, - Mc.Laughlin nói, vẻ mặt vẫn bình tĩnh.
Banks cảm thấy mắt Annie lại nhắm vào một bên đầu ông. Ngay cả Gristhorpe cũng cau mày.
-- Cô ấy rời quán Bò Đen để gặp ai đấy, hay là cổ nói thế để ra về không biết, lúc ấy là ba giờ chiều. Chúng tôi không biết cô ta ở đâu trong thời gian từ khi ấy cho đến khi cổ gặp các bạn ở quán Cross Keys. Cô ấy đã ngà ngà say rồi, cho nên tôi đoán chắc cô ấy đã lấy ma túy nơi người nào đấy, có lẽ nơi người đã đưa cocain có trộn thuốc độc. Sau đó, họ cùng nhau đi thành một nhóm suốt cả buổi tối. Thế nào chúng ta cũng có thêm nhiều tin tức nhờ giới truyền thông đại chúng đua nhau săn tin. Ta sẽ nhờ bích chương, truyền hình, báo chí.
-- Tôi rất muốn biết thêm về bữa ăn trưa này, bữa ăn mà anh đã ăn với nạn nhân, - Mc.Laughlin nói.
-- Chẳng có gì đáng nói hết, thưa ngài. Chúng tôi ngồi ăn giữa đám người đông đúc suốt buổi ăn, và sau khi Emily về rồi tôi vẫn còn ngồi lại. Tôi cứ nghĩ là cô ấy rất lo sợ về Clough. Cô ấy không muốn nói cho bố biết, mà chỉ muốn tôi biết thôi.
-- Tại sao lại muốn anh biết?
-- Tại vì tôi đã gặp hắn khi tôi đi tìm cô ấy. Cô ấy biết tôi sẽ thông cảm những gì cổ nói.
-- Chắc nói đến những việc bê bối chứ gì?
-- Đúng thế, thưa ngài.
-- Cô ta nói cho anh biết cổ sẽ đi đâu hay sẽ gặp ai không?
-- Không, thưa ngài. Tôi ước gì cô đã nói. - Banks ước sao khi ấy ông hỏi cô cho biết.
-- Cô ta đã nói gì?
-- Như tôi mới nói đấy, cô ta cám ơn tôi vì đã khuyên cô về nhà. Cổ nói về tương lai. Cổ muốn thi lấy bằng A để vào đại học ở Mỹ.
-- Và cô ấy có vẻ lo sợ về Clough?
-- Phải, thưa ngài.
-- Cô ta nói hắn có tiếp xúc với cổ, hăm dọa cổ hay là nói cái gì đại loại như thế không?
-- Cổ nói hắn không tìm gặp cổ, nhưng cổ cứ lo sợ. Cổ nói hắn không thích để mất tài sản quí báu của hắn, và cổ nghĩ là cổ đã thấy một tên làm việc cho hắn tại trung tâm Swainsdale.
-- Anh có nghĩ là cô ấy biết chuyện gì đấy sắp xảy đến cho cổ, khiến cổ lo sợ cho tính mạng mình?
-- Tôi không nghĩ đến chuyện xa xôi như thế, thưa ngài.
-- Thế nhưng, - Mc.Laughlin nói - cô ta là một công dân trình bày mối lo sợ trước một tình huống nguy hiểm cô đang gặp phải và nhờ cảnh sát giúp đỡ. Không phải thế sao?
-- Phải, thưa ngài, - Banks đáp, lòng vui mừng khi biết Mc.Laughlin muốn ném cho mình sợi dây cứu độ. Banks thấy không cần thiết phải nói cho ông ta nghe chuyện Emily uống rượu khi chưa đến tuổi được uống rượu ngay trước mặt mình, hay kể cho ông ta nghe chuyện hai người đã trải qua nửa đêm với nhau trong một phòng khách sạn ở Luân Đôn.
-- Tốt. Tôi để cho anh có thì giờ vạch kế hoạch thích đáng để công việc được thắng lợi, và nếu gặp trường hợp nào khó khăn, chúng ta cứ đưa vào hồ sơ biên bản. Tôi nghĩ bây giờ anh đang bận rộn và cần hoãn lại công việc vạch kế hoạch?
-- Phải, thưa ngài.
-- Hoàn toàn dễ hiểu. Và anh không cần tôi nói cho anh biết kết quả việc này khả quan, nhanh chóng là một thắng lợi cho anh chứ?
-- Dạ không, thưa ngài.
Đến đây, Phó cảnh sát trưởng Ron Mc.Laughlin bước ra khỏi phòng ván. Ông Gristhorpe nói:
-- Trung sĩ thám tử Cabbot, cô có thể ra ngoài luôn, còn anh Alan, tôi muốn nói với anh đôi lời.
Annie đi ra, quắc mắt nhìn Banks với vẻ gay gắt, khó chịu. Banks và Gristhorpe nhìn nhau.
-- Công việc thật khủng khiếp, - Gristhorpe nói. - Bất kể anh nghĩ về ông Jimmy Riddle ra sao.
-- Phải, thưa ngài.
-- Còn chuyện ăn trưa ra sao, Alan? Chỉ xảy ra một lần như anh vừa nói thôi ư?
-- Phải, thưa ngài.
Gristhorpe càu nhàu. Trông ông ta già cỗi, Banks nghĩ - Chắc ông ta gặp chuyện gì đấy - mái tóc bờm xờm, trông xám ra hơn, lại mắt thâm quầng, gương mặt có vẻ lốm đốm sẹo đậu mùa hồng hào, bây giờ trông bạc ra. Hình như ông ta bị mất cân; cái áo khoác bằng vải tuýt trông rộng thộn thện trên người. Tuy nhiên, Banks sực nhớ, Gristhorpe đã thức suốt đêm, mà ông ta có còn trẻ trung gì.
-- Cô ấy dễ thương, - Banks nói. Rồi ông lắc đầu. - Không. Tôi nói cái gì thế? Tôi không phải thế đâu. Phải gọi cô ta là đứa bé hoang dại mới đúng. Cô ta làm cho mình phải bực tức, chán nản, hèn chi mà ông Jimmy Riddle đau khổ là phải.
-- Nhưng anh thích cô ta, phải thế không?
-- Không thể nào không thích được. Cô ta bị rối loạn, có lẽ điên cuồng, bướng bỉnh.
-- Gần giống anh khi anh còn nhỏ phải không? - Gristhorpe hỏi, ông ta mỉm cười.
-- So sánh không đúng. Không phải thế. Cô ta là loại con gái mà tôi mong sao Tracy đừng giống, và ơn Chúa, nó không giống thế. Có lẽ vì tôi không phải là cha cô ta nên tôi thấy dễ mến phục cái tinh thần của cô ta, và cũng có lẽ cô ta không phải là gánh nặng khó khăn của tôi. Nhưng cô ta bị rối loạn chứ không xấu xa gì, và tôi nghĩ nếu có cơ hội tốt, cô ta sẽ là người tốt thôi. Cô ta chỉ tiến quá nhanh trước tuổi của mình vài năm. Tôi muốn chính cái thằng con hoang ấy đã gây ra việc này cho cô, thưa ngài. Có lẽ tôi muốn chính hắn hơn là bất kỳ thằng con hoang nào trước đây trong nghề của tôi.
-- Hãy cẩn thận, Alan. - Gristhorpe chồm người tới trước, để hai tay lên bàn. - Anh cũng như tôi đều biết rằng nếu vụ này không phải là của ông Jimmy Riddle thì chắc anh không tò mò đến gần được đâu. Nhưng nếu anh làm ẩu lần này vì chuyện cá nhân của anh, thì tôi sẽ ra tay trị cho anh một trận thích đáng. Ông Phó cảnh sát trưởng Mc.Laughlin có làm gì đi nữa thì cũng bằng không thôi. Anh hiểu chưa?
-- Hiểu rồi, - Banks đáp. - Ông đừng lo. Tôi sẽ lấy luật để áp dụng vào vụ này.
Gristhorpe dựa ngửa người ra sau, mỉm cười nhìn ông.
-- Không, Alan. Anh không muốn làm như thế. Vả lại, mục đích người ta giao cho anh vụ này là để làm gì? Điều mà tôi muốn nói là anh đừng để cho lòng căm thù và ý muốn trả thù làm mờ trí phán đoán của anh. Hãy sáng suốt nhìn vào chứng cứ, vào sự kiện trước khi ra tay hành động. Đừng hành động tùy hứng theo kiểu anh đã làm trước đây.
-- Tôi sẽ không làm thế, - Banks đáp.
-- Sợ anh sẽ làm thôi.
Có người gõ cửa, Gristhorpe nói lớn bảo cứ vào. Một cảnh sát sắc phục ở tầng dưới lên báo tin.
-- Một ông thanh tra tên là Wayne Dalton, ở Phân khu điều tra tội phạm Northumbria, muốn gặp Chánh thanh tra Banks, thưa ngài.
-- Được rồi, - Ông nói, nhìn đồng hồ tay, - Đem cà phê mời ông ta ngồi đợi ở văn phòng của tôi. Vài phút nữa tôi sẽ tiếp ông ta.
°

*

Không phải chỉ có Banks là người thao thức không ngủ suốt đêm, mà Annie cũng nằm thao thức trao tráo suốt mấy giờ lúc trời gần sáng, thỉnh thoảng lại giật mình lo sợ khi nghe tiếng động vang lên đâu đó. Cô đã tự nhủ đừng quá yếu đuối rồi kia mà. Dù sao thì cô cũng đã chống cự được Dalton và đồng bọn của gã khỏi hãm hiếp cô cách đây hai năm về trước, thế thì bây giờ cô còn lo sợ gã làm gì? Khả năng võ thuật của cô có thể có phần sa sút, nhưng cô vẫn còn đủ sức để tự vệ nếu có trường hợp như thế xảy ra.
Vấn đề khó khăn là cứ đến lúc bốn hay năm giờ sáng, lý trí không còn sáng suốt nữa; vào giờ này, lý trí biến mất và thay vào đó, trong óc cô hiện ra toàn là những hình ảnh quái vật: những quái vật đáng sợ, hoang tưởng. Cô nằm trăn trở, mơ màng thấy hình ảnh Dalton hiện ra, mặt gã nhễ nhại mồ hôi, mắt hằn học, rồi thấy hình ảnh Emily Riddle nằm chết, cơ thể gầy gò nằm lọt trong góc cầu vệ sinh bé tí teo ở hộp đêm Bar None, hai mắt mở to kinh hoàng, các cơ mặt co thắt nhăn nhúm.
Thế nhưng khi cô trong phòng họp bước ra, để đi về phòng làm việc của mình trong ánh chiều tà, cô nhận ra rằng cô không sợ Dalton cái gì hết. Cô đã thừa biết gã là loại người chỉ có thể hành động hung hăng như một phần tử trong băng nhóm mà thôi. Sự xuất hiện của gã đã làm cho cô dao động, thế thôi, nó gợi lên trong óc cô những kỷ niệm đêm hôm ấy, cái đêm mà không bao giờ cô quên được. Vấn đề khó khăn duy nhất là cô không biết làm gì với gã.
Cô tính đến chuyện nói cho Banks nghe, nhưng cô vội bác bỏ ý kiến này ngay. Nếu nói thực lòng, thì cô cảm thấy rất bực về ông. Tại sao đêm qua ông không nói cho cô biết về mối quan hệ giữa ông với nạn nhân? Hai người có nhiều thì giờ với nhau kia mà. Nếu ông nói cho cô biết, ông mới làm cho cô cảm thấy mình là nhân viên điều tra chứ, và sáng nay chắc cô sẽ cảm thấy mình không phải là đồ ngốc nghếch khi Phó cảnh sát trưởng Mc.Laughlin nêu vấn đề này ra.
Tóm lại, cô ân hận đã nói cho Banks biết chuyện hiếp dâm, nhưng vì trước đây hai người đã quá thân mật với nhau, nên mới có việc thú thực chuyện riêng một cách điên khùng như thế; cô không hề nói chuyện này cho ai nghe hết, ngay cả bố cô. Rồi bây giờ cô cùng làm việc với Banks, mặc dù cô vẫn còn thương mến ông, nhưng cô sẽ cố dừng lại ở vị trí nghề nghiệp chuyên môn mà thôi. Sự nghiệp của cô đã đi theo đúng hướng lại rồi, cô không muốn làm cho con đường sự nghiệp rối tung lên. Phó cảnh sát trưởng Mc.Laughlin đã cho cô một cơ hội ngàn vàng để tiến thân khi giao cho cô nhiệm vụ nhân viên điều tra. Điều cuối cùng cô muốn làm là sẽ đến nói toạc cho thủ trưởng biết. Phải, Dalton là chuyện của cô, cô sẽ xoay xở đối đầu với gã bằng cách này hay cách khác.
°

*

Banks thấy Thanh tra Dalton đang đứng trong văn phòng của ông, quay mặt nhìn vào tường, tách cà phê trên tay, mắt nhìn tấm lịch Dalesma. Lịch in hình chụp cảnh tuyết - và nước đá - phủ vách núi Goredale, gần Malham. Khi Banks bước vào, Dalton quay lại. Gã cao khoảng 1m80, gầy ốm, cặp mắt màu xanh nhạt, khuôn mặt dài, vẻ mặt rầu rĩ, mái tóc vàng gừng lòa xòa trên đầu. Banks đoán tuổi gã chừng 40. Gã mặc bộ com lê mỏng màu nâu, sơ mi trắng thắt cà vạt. Gần chỗ đường nẻ trên cằm có một vết máu nhỏ đã khô do cạo râu làm rách da.
Gã chìa tay ra bắt và tự giới thiệu:
-- Thanh tra cảnh sát Wayne Dalton. Hình như tôi đến đúng vào lúc ở đây đang xảy ra chuyện gì gay cấn thì phải?
-- Anh không nghe gì à?
-- Nghe cái gì?
-- Con gái ông cảnh sát trưởng bị giết vào đêm qua.
Dalton tròn mắt, miệng xuýt xoa.
-- Thằng con hoang nào giết cô ta khốn nạn thế, mong ông tóm được nó.
-- Chúng tôi sẽ tóm được. Mời anh ngồi. Cái gì khiến anh đi xa xuống tận đây thế?
-- Có lẽ xa xôi mất thì giờ thật, - Dalton đáp, gã ngồi xuống trước mặt Banks, - nhưng vụ này của chúng tôi có liên hệ đến khu vực kiểm soát của ông.
-- Đây không phải là lần đầu. Đất nước chúng ta trở thành một hòn đảo nhỏ nhanh quá.
-- Ông cứ mặc sức mà nói thế. Chuyện như thế này, đêm chủ nhật mới đây - đúng ra là vào sáng sớm thứ hai - khoảng 12 giờ rưỡi, phải nói cho chính xác mới được - một chiếc xe màu trắng bị cướp cạn ở khu vực B6348 giữa đường A, và làng Chatton. Đồ đạc trên xe bị cướp hết và tài xế đang còn trong tình trạng hôn mê.
-- Tên anh ta là gì?
-- Jonathan Fearn.
Banks gõ cây bút lên bàn.
-- Chưa hề nghe nói đến.
-- Chẳng có lý do gì khiến ông phải nghe. Nhưng hắn sống ở đây. - Dalton nhìn vào cuốn sổ. - Số 36 đường Darlington.
-- Tôi biết số nhà này, - Banks nghĩ, ghi chú vào giấy. - Chúng tôi sẽ tìm hiểu hắn. Có tiền án không?
-- Không. Nhưng thú vị thay là chiếc xe tải trắng này được một công ty có tên là Công ty máy tính PKF thuê, và...
-- Khoan đã. Có phải anh nói công ty PKF không?
-- Đúng thế. Bắt đầu nhận ra gì rồi à?
-- Mới sơ sài thôi, nhưng cứ nói tiếp đi.
-- Thế nhưng khi chúng tôi kiểm tra công ty PKF, đi điều tra một vòng thì mới biết công ty này không có.
-- Anh nói thế nghĩa là sao?
-- Thì như tôi vừa nói đấy. Công ty Hệ thống máy vi tính PKF không đăng ký hoạt động kinh doanh.
-- Có nghĩa là có kẻ đã lấy tên...
--... in trên đầu giấy dùng làm văn thư, có lắp ráp đường dây điện thoại, mở tài khoản ngân hàng... đúng hệt. Một công ty ma.
-- Anh có tìm ra kẻ nào không?
-- Chính vì thế mà tôi hy vọng ông có thể giúp chúng tôi. Chúng tôi lần ra công ty PKF này đóng ở trung tâm thương mại Daleview, nằm ngoài thành phố Eastvale, và chúng tôi khẳng định chiếc xe đang trên đường đến một cơ sở thương mại mới gần Wooler. Ít ra, công ty PKF đã thuê cơ sở vật chất ở đây để bắt đầu làm ăn vào sáng thứ hai.
-- Để tôi nói cho rõ việc này, - Banks nói. - Công ty PKF, thực chất là không có, đã di chuyển hết hàng hóa, dụng cụ đồ đạc khỏi Trung tâm thương mại Daleview, nơi mà họ không hoạt động hơn hai hay ba tháng nay, vào đêm chủ nhật và đi về phía đường A1 để đến một trung tâm thương mại khác gần Tyneside, nơi họ đã thuê cơ sở vật chất. Cách nơi đến khoảng vài dặm thì chiếc xe bị cướp cạn và đồ đạc bị lấy hết. Phải thế không? (280)
-- Quá rõ.
-- Vào ngày thứ Ba, - Banks nói tiếp, - người gác đêm ở Trung tâm thương mại Daleview được người ta tìm thấy nằm chết trong một cái rừng gần Market Harborough, Leicestershire. Chết vì bị súng ngắn bắn.
-- Thanh toán nhau à?
-- Hình như thế. Chúng tôi nghĩ hắn bị giết vào chiều thứ Hai.
-- Có liên hệ với việc này phải không?
-- Tôi nghĩ thế, anh không thấy sao? Nhất là khi anh chàng gác đêm này cứ gởi đều đều vào ngân hàng mỗi tuần hai trăm bảng, vượt quá số lương của hắn.
-- Và công ty PKF là giả mạo.
-- Đúng thế.
-- Ông có biết chiếc xe chở cái gì không? - Dalton hỏi.
-- Khi người Trung sĩ thám tử của tôi lục tìm khu vực công ty PKF thuê ở Daleview, chỉ tìm thấy độc nhất một cái hộp không đựng đá quí, trong đó có một cái đĩa từ ghi âm.
-- Đĩa từ ghi âm à? Lần đầu tiên tôi nghe có chuyện ăn cướp xe chở đĩa CD.
-- Chúng tôi không biết đấy có phải là lý do không. Chúng tôi chỉ nói rằng chúng tôi đã tìm ra một cái hộp đựng đá quí ở công ty PKF, thứ thích ứng với công việc của họ trong việc kinh doanh máy vi tính. Có lẽ chính vì các thiết bị máy vi tính mà bọn trộm đã theo dõi chúng không?
-- Có thể như thế. Hàng này cũng có giá trị.
-- Có manh mối gì nữa không?
Dalton lắc đầu.
-- Chúng tôi canh chừng khu vực chúng thuê gần Wooler, nhưng chưa thấy ai đến đấy hết. Bây giờ nghe ông nói chuyện xảy ra như thế này, chúng tôi không trông đợi gì chúng nữa. Trời khi ấy thì tối rồi, đường sá vắng vẻ, cho nên không có ai để làm chứng hết. Chúng để xe lại ở chỗ rộng bên đường dành cho xe đậu. Như tôi đã nói, tài xế vẫn còn hôn mê và người ta đang lấy dấu tay để bổ túc cho việc điều tra, cho đến khi tiếp xúc được nơi hắn ở. Nhưng cả ông và tôi đều biết khi làm một công việc chuyên môn như thế này thì phải hết sức cẩn thận. Thế là chúng ta đã có một đầu mối chung - đó là công ty PKF và Trung tâm thương mại Daleview.
-- Được rồi, - Banks nói, ông đứng dậy. - Chúng ta sẽ hợp tác để làm vụ này.
-- Tôi ở lại đây vài hôm, đến quan sát Trung tâm thương mại, đi quanh xem sao, có được không?
-- Cứ làm khách của tôi. - Banks kéo xấp giấy đến gần - Điều hay nhất bây giờ là chúng ta giúp đỡ lẫn nhau. Anh có thể tiếp xúc với Thanh tra Collaton ở Market Harborough. Cứ xem như chúng ta cần phải liên lạc với nhau. Anh ở đâu?
-- Ở khu Fox and Hounds, thuộc phố chợ Bắc. Mới đến hôm qua, chỉ một phòng nho nhỏ thôi.
-- Tôi biết chỗ ấy rồi, - Banks nói. - Nếu anh tìm ra được cái gì, hãy cho chúng tôi biết liền.
-- Tuân lệnh. - Dalton đưa tay chạm đầu ngón tay vào đầu với tư thế chào thân mật, rồi ra khỏi phòng.
Banks đến bên cửa sổ, nhìn xuống khu chợ rải đá sỏi. Hai chiếc kim màu vàng trên mặt đồng hồ xanh của nhà thờ chỉ 10 giờ 15. Sương mù buổi sáng đã tan hết, bây giờ chỉ còn một lớp mỏng và có thể như thế này cả ngày. Ông chỉ thấy Thanh tra Dalton đi băng qua khu chợ, dừng lại một lát trước sợi dây căng ngang cửa vào hộp đêm Bar None có người cảnh sát đứng gác, rồi gã rẽ trái vào đường York, đi về phía bến xe đò và Trung tâm Swaindale.
Từ lúc Emily bị giết chết, Banks cảm thấy khó mà tiếp tục chú ý đến công việc điều tra vụ Charlie Courage, nhưng ông nghĩ cứ tiếp tục chỉ huy công việc này. Ông cũng nghĩ ông nên hợp tác với Dalton để điều tra công ty PKF. Bất kỳ anh ta tìm ra được cái gì mới mẻ, thì chắc Ron đỏ cũng phải khen ngợi ông, đương nhiên là thế. Vụ Emily ưu tiên hàng đầu thật đấy, nhưng không vì thế mà bỏ qua anh chàng Charlie tội nghiệp. Có thể Dalton sẽ khám phá đôi điều hữu ích. Banks sẽ để cho gã tiếp xúc với Hatchley, còn với Annie, thì để cho cô ấy san sẻ cho gã những điều cô đã khám phá ra ở Daleview.
Nhìn ánh sáng yếu ớt xám xịt đang bao trùm lên vạn vật, làm cho thành phố mang vẻ thê lương, Banks ước sao đi khỏi nơi đây để đến nơi nào ấm áp, có ánh nắng mặt trời chừng hai tuần, tìm nơi nào xinh đẹp trên bãi bể để ngồi đọc sách, đọc tiểu sử danh nhân và lắng nghe sóng biển cả ngày. Thường thường ông không thích loại nghỉ lễ như thế này, mà chỉ thích đi bộ trong một thành phố ở nước ngoài để khám phá những điều xa lạ, nhưng vì mùa đông ở Yorkshire dài và tối tăm, nên ông đâm ra ao ước được đến những nơi trong sáng như vùng đảo Canaries hay Azonres. Hay là vịnh Montego. Nhưng nếu điều kiện cho phép, ông muốn được đi đến Mexico một thời gian để xem di tích lịch sử của người Maya. Nhưng chuyện này còn xa vời quá, vì ông còn nợ tiền vay thế chấp ngôi nhà và Tracy đang học đại học.
Ngoài ra, Banks nghĩ, mở cửa sổ ra một tí, hút điếu thuốc, ông không thể quên chuyện Emily được. Ông có trách nhiệm về những gì đã xảy ra cho cô, ít ra là phần lớn. Không trốn tránh trách nhiệm được. Nếu ông không xuống Luân Đôn và gây chuyện với Clough, thì chắc chắn cô ta sẽ không về nhà để rồi cuối cùng chết trong hộp đêm dơ bẩn ở Eastvale. Cô đã nối gót theo Graham Marshall, theo Jem và Phil Simpkins, và ông không thể, không muốn bỏ qua chuyện này, ông phải làm cái gì mới được.
°

*

-- Cho máy quay, Ned, - Banks nói. Ông đang ở trong phòng có máy truyền hình mạch kín ở tầng dưới với các Sĩ quan thám tử Winsome Jackman và Kevin Templeton, Annie Cabbot và người chuyên viên kỹ thuật dân sự, Ned Parker.
Trên màn hình hiện ra khu chợ từ đồn cảnh sát, bao trùm cả mép quán Queéns Arms nằm bên phải, mặt tiền nhà thờ đến bên trái và tất cả các tiệm buôn, quán rượu và cơ sở văn phòng nằm ở phía bên kia, kể cả lối vào hộp đêm Bar None. Hình ảnh trắng đen lốm đốm hạt vì ống kính Camera mở rộng góc và vì ánh đèn Giáng sinh quá sáng làm nhiễu, nhưng vẫn có thể nhận ra những hình ảnh đi lui đi tới. Banks lo sợ không biết họ có nhận ra được người nào từ sợi băng vải giăng ngang trước hộp đêm Bar None đi ra hay không.
Thời gian hiện lên màn hình đang chạy ở dưới góc bên phải là 10 giờ, Parker cho hình chạy nhanh đến độ người đi qua khu vực chợ trông như những vai phụ trong một bộ phim thuộc loại săn đuổi của cảnh sát ở Keystone. Khoảng 25 phút sau, Banks thấy một nhóm người đi vào màn hình từ bên phải, lối ra của quán Queen's Arms, ông biểu Parker cho máy chạy chậm lại với tốc độ bình thường. Bỗng ông thấy Emily đi qua khu chợ. Cô đi có vẻ hơi xiêu vẹo trên mặt sỏi ở quãng trường chợ, điều này không làm ông ngạc nhiên vì cô đi giày đế cao và hôm ấy cô uống rượu nhiều.
Khi cô đến cây thánh giá ở quãng trường, cô quay mặt nhìn vào đồn cảnh sát và nhún nhảy một chút, và khi nhảy xong, cô cúi chào và vung hai tay trước ống kính camera, nhưng trước khi đi, cô đưa ngón tay lên, chỉ một ngón thôi, theo kiểu người Mỹ, rồi quay người, cô ngoáy mông nguầy nguậy vừa đi vào hộp đêm. Những người khác cười. Banks cũng cười khi nhìn cô, hầu như trong giây lát ông quên phứt đây là cử chỉ hơi táo tợn mà sẽ không bao giờ tái diễn nữa.
Banks nhìn họ đi vào hộp đêm, ông yêu cầu Parker giữ cho máy chạy tốc độ bình thường khi ông nhìn những người khác đi theo. Ông cố nhìn kỹ, nhưng không có dấu hiệu gì đáng ngờ vừa xảy ra trên khu chợ hết. Không có cảnh trao tay nhau những gói nhỏ đựng bột trắng. Khi ông nhìn, ông ước chi có thể thấy cảnh diễn ra ở bên trong hộp đêm như thế nào biết bao, nhưng trong đó không có camera.
Lúc 10 giờ 47 có hai người bước ra khỏi hộp đêm, họ đi ra đường York. Banks không nhìn rõ được mặt họ, nhưng ông thấy một thanh niên mặc quần jean, áo blu-dông da ngắn và một cô gái mặc áo khoác dài và đội cái mũ kéo sụp xuống. Ông yêu cầu Parker chỉnh hình ảnh cho rõ hơn, nhưng ông cũng không thấy gì rõ thêm.
Sau đó, có thêm ba cặp nữa đi vào, nhưng không ai đi ra. Khi thám tử Rickerd và thanh tra Jessup đi vào trên màn hình, Banks biểu Parker tắt máy.
Khi nhìn cho thật kỹ, người ta thấy Emily như thể đã dùng Cocain nhiều trước khi đến Bar None, như Banks đã đoán, và điều này càng khiến cho ông khó mà tìm ra được ai là người đã cung cấp thứ ma tuý hỗn hợp chết người ấy cho cô.
-- Thôi được rồi, - Banks nói, - ông đứng dậy, vươn vai. Hôm nay thế là quí vị đã giải trí rồi đấy. Bây giờ, Winsome, cô mang Darren Hirst vào cho tôi, được không? Có lẽ cậu ấy giúp ta tìm ra được hai người ra về ấy.
-- Đối xử thân thiện chứ, thưa ngài?
-- Thân thiện. Anh ta không phải là kẻ bị tình nghi, anh ta chỉ giúp chúng ta trả lời các câu hỏi thôi.
Winsome mỉm cười khi nghe mình trả lời câu rất nhàm tai:
-- Tuân lệnh, thưa ngài.
-- Kevin, tôi muốn anh làm việc với Ned ở đây để xem thử có thể nhận diện được hai kẻ ra về ấy không. Tìm ra vài nét mà chúng ta có thể đoán được họ là ai.
-- Được thôi, Sếp.
-- Và Kevin này?
-- Thưa Sếp?
-- Vui lòng được gọi tôi là Sếp. Gọi thế tôi có cảm tưởng như tôi đang ở trên truyền hình.
Templeton cười toe toét.
-- Ông nói đúng, thưa ngài.
Rồi Banks nhìn vào đồng hồ tay và quay qua Annie.
-- Tốt hơn là chúng ta nên đi, - ông nói. - Chúng ta đã có hẹn với bác sĩ Glendenning trong vài phút nữa.
°

*

Banks lái xe đi đến nhà máy xay cổ sau khi đã có kết quả mổ tử thi của Emily Riddle. Chiếc máy hát trên xe đang chơi bài Lễ cầu hồn của Fauré. Ông vẫn còn cảm thấy tức giận và buồn nôn trước cảnh tượng ông vừa trông thấy. Đây không phải là cô gái đầu tiên mà ông đã xem bác sĩ Glendenning mổ trên bàn mổ, nhưng đây là cô gái đầu tiên mà ông biết sinh lực của cô, người mà ông đã chia sẻ những nỗi lo sợ và những ước mơ, và người mà khi nhìn ông bác sĩ Glendenning bình tĩnh đưa con dao mổ rạch lên cái hình xăm con nhện đen, khi cắt trên người cô ta theo hình chữ Y, đã làm cho Banks cảm thấy xâm xoàng như Annie đã xâm xoàng ở Market Harborough. Nhưng lần này Annie lại bình tĩnh, không sao hết. Lặng lẽ, căng thẳng nhưng không sao hết, ngay cả khi lưỡi cưa cưa vào xương sọ Emily.
Bác sĩ Glendenning xác định quyết đoán ban đầu của bác sĩ Burns là đúng, ông cho rằng chích chất strítnin đã trộn với liều lượng cao trong côcain là dược phẩm gây tử vong cho Emily. Chính Glendenning thực hiện thử nghiệm tìm độc tố này trong cơ thể nạn nhân, ông đã cho hoà tan một ít tinh thể nghi ngờ vào trong nước axít sulfuric rồi nhúng vào dung dịch miếng kim loại kiềm crôm. Miếng kim loại biến thành màu tía rồi sang hồng và cuối cùng màu biến mất. Thí nghiệm dương tính người ta sẽ tiếp tục cho thử nghiệm ở viện Wetherby để xác định độc tố, nhưng bây giờ như thế này cũng đủ rồi. Hiện giờ giới truyền thông đại chúng chỉ biết cô ta chết vì đang nghi ngờ dùng ma tuý quá liều, nhưng chắc có lẽ chẳng bao lâu nữa sẽ có phóng viên đánh hơi được sự thật. Đôi khi báo chí còn tỏ ra thành thạo trong việc săn tin hơn cả cảnh sát nữa.
Thì ra cổ của Emily không gãy; cô ta chết vì ngạt thở. Bác sĩ Glendenning còn nói cho Banks biết rằng chính độc tố mới gây tử vong cho cô, chứ sức khoẻ của cô rất tốt. Ma thuý, rượu và thuốc lá không đủ sức đánh gục cô được.
Nhà máy xay cổ toạ lạc cuối một con đường cụt, giống như ngôi nhà đạm bạc của Banks, cho nên cảnh sát sắc phục đứng gác cách đấy hơn 100 mét, nơi tiếp giáp với con đường lớn, để không cho các phóng viên vào nhà quấy phá gia đình Riddle. Banks đưa thẻ hành nghề cho cảnh sát xem, anh ta vẫy tay cho ông đi. Bà Rosalind ra mở cửa, dẫn ông vào chính cái phòng nơi ông đã đến báo tin cho chủ nhà biết. Bà mặc áo đen, mắt thâm quầng vì mất ngủ. Banks đoán đêm qua chắc ông Riddle đã thức bà dậy khi ông ra về. Cả hai vợ chồng hẳn không ngủ ngáy gì từ khi ấy.
-- Chào Banks. - Ông Riddle từ từ đứng dậy khi Banks vào phòng. Ông ta vẫn còn mặt bộ áo quần từ đêm qua, việc thay áo quần chắc cũng phiền phức, khó thực hiện. Trông ông hốc hác phờ phạc, có vẻ suy sụp, thờ ơ, cử chỉ mà trước đây không khi nào Banks trông thấy ở ông ta. Trước đây lúc nào ông ta cũng mạnh bạo, nhanh nhẹn. Có lẽ ông ta dùng thuốc an thần, hay có lẽ do kết quả những biến cố vừa xảy ra đã tác động đến tâm trí ông. Bất cứ vì nguyên nhân gì thì ông ta cũng cần đến bác sĩ chăm sóc hay cần một giấc ngủ ngon cho lại sức. - Có tin gì lạ không? - ông ta hỏi, giọng thờ ơ thất vọng.
-- Tôi thấy chưa có gì. - Banks không muốn kể chuyện mổ tử thi, nhưng ông nghĩ chắc ông Riddle đã biết chuyện phẫu thuật đã xong xuôi. Ông chỉ mong sao ông cảnh sát trưởng đủ tỉnh táo để không nêu vấn đề này ra trước mặt vợ.
-- Đã xác nhận nguyên nhân gây ra tử vong rồi? - Ông hỏi.
-- Đúng như điều chúng tôi nghĩ đấy.
Rosolind áp tai vào cổ.
-- Vì Strítnin. Tôi đã đọc về chất này rồi.
Banks nhìn ông Riddle:
-- Ông nói cho bà...?
-- Ros hiểu vấn đề không nên nói cho ai biết nguyên nhân gây nên cái chết. Tôi nghĩ chuyện bí mật này không thể giữ lâu được. Phải không?
-- Chắc thế, - Banks đáp. - Bây giờ việc mổ tử thi đã xong, miệng ông Glendenning oang oang như cái chuông, thế nào cũng có người tiết lộ chuyện bí mật này. Thưa bà Riddle, - Ông ngồi thẳng tựa người lên thành ghế. - Tôi muốn hỏi bà vài câu. Tôi cố không làm cho bà đau khổ đâu.
-- Tôi hiểu. Jerry đã có nói cho tôi biết rồi.
-- Tốt. Emily từ Luân Đôn về nhà được khoảng một tháng. Trong thời gian này, cô ấy có gây phiền phức gì cho bà không?
-- Không, - Rosalind đáp. - Thực ra, nó cư xử rất tốt. Là vì nó.
-- Bà nói thế nghĩa là sao?
-- Ông Chánh thanh tra này, nghĩa là nếu nó muốn đi vui chơi trác táng cả đêm, nó cứ đi. Tôi nghĩ chắc ông đã biết, Emily là đứa phóng đãng, khó mà kiểm soát nổi. Nhưng tôi thấy không có dấu hiệu cho thấy nó dùng mà tuý, và nó thường đối xử với tôi rất lễ phép, vui vẻ.
-- Tôi nghĩ chắc không thường như thế?
-- Không thường.
-- Từ khi về nhà cô ấy đi chơi có nhiều không?
-- Không nhiều. Đêm qua là lần thứ hai hay thứ ba gì đấy.
-- Lần sau cùng là khi nào?
-- Đêm trước đó. Vào thứ Tư. Nó đi xem cinê với bạn. Rạp cinê mới mở ở Eastvale, và trước đó khoảng một tuần nó đi dự sinh nhật một người bạn ở Richmond. Cả hai lần, lần nào cũng về sau nửa đêm một lát.
-- Cô ấy làm gì cho hết giờ?
-- Nó ở nhà, đọc sách, không biết ông có tin hay không. Rồi xem video. Nó còn hỏi về cách xin vào học lớp dự bị đại học. Tôi nghĩ, rốt lại chắc nó quyết định sống nghiêm chỉnh hơn.
-- Cô ấy có tâm sự gì với bà về vấn đề khó khăn cô ấy đang gặp phải không? Như vấn đề bạn trai, hay cái gì đại loại như thế?
-- Tính của Emily không thế, - Rosalind đáp. - Nó thường rất kín đáo, ngay cả khi nó còn nhỏ. Nó thích cảm giác giữ kín mọi chuyện.
-- Còn về bồ bịch thì sao?
-- Tôi nghĩ nó không có bồ. Nó đi chơi với đám đông.
-- Chắc cô ta khó tìm được bạn thân ở địa phương sau khi đã đi học trường ở miền Nam lâu ngày rồi.
-- Đúng thế. Và chắc ông biết dân địa phương ở đây cũng không mặn nồng gì với dân miền Nam, ngay cả bây giờ. Nhưng khi nghĩ lễ về nhà, nó thường gặp nhiều người. Tôi không biết tại sao. Nó có vẻ kết bạn không mấy khó khăn. Nó đi chơi thoải mái. Và dĩ nhiên cũng vì nó vẫn còn quen biết nhiều người ở đây từ thời nó học trường Saint Mary. Chỉ mới cách đây hai năm.
-- Còn Darren Hirst thì sao? Có khi nào cô nói đến cậu ấy không?
-- Có. Thực ra thì tuần trước nó có đi dự tiệc sinh nhật của anh ta. Nhưng anh ta không phải là bồ của nó; anh ta chỉ là người trong nhóm mà nó đi chơi. Anh ta có xe hơi. Họ đến đón nó tại nhà vào ngày thứ Tư - Darren và một cô gái, Nina hay Tina gì đấy - và họ có vẻ vui lắm, mặc dù tôi không bằng lòng để nó đi chơi với những người lớn hơn nó đến ba bốn tuổi, hầu hết đều lớn hơn nó. Tôi biết nó đến quán rượu và được phục vụ quá dễ dàng, tôi không thích thế. Tôi thường nói với nó, nhưng nó cho tôi là khó tính, cuối cùng tôi đành chịu thua.
-- Có khi nào cô ấy nói đến một người tên là Andrew Handley không?
-- Không.
-- Thế tên Andy Pandy?
-- Có phải đây là chuyện đùa không? Hắn là ai?
-- Không đùa đâu. Đây là bí danh. Hắn là đồng nghiệp với Emily đã cùng sống ở Luân Đôn.
-- Chưa bao giờ nghe nói đến. - Rosalind đáp. Bà vói tay rút cái khăn giấy trong hộp để trên bàn rồi hỷ mũi vào đấy. - Tôi xin lỗi. - Bà nói lầm bầm. - Xin tha lỗi cho tôi.
Ông Riddle đến gần bà, để tay lên vai bà, nhưng với vẻ ngần ngại chứ không nồng ấm lắm. Đáp lại, người bà Rosalind sượng ra. Rồi bà quay mặt đi, Banks cảm như mình thoáng thấy có cái gì đó trong mắt bà khi bà quay mắt đi - có lẽ sự lo sợ hay bối rối. Phải chăng bà nghi ngờ chồng có dính líu đến cái chết của Emily? Hay là ông che chở cho bà? Dù gì đi nữa thì tình cảm gia đình Riddle cũng đáng thất vọng thật.
-- Thưa bà Riddle, Emily có nói cho bà biết về dự định trong tương lai của cô ấy không? - Banks hỏi, ông đổi đề tài phỏng vấn sang một vấn đề mà ông nghĩ có thể nhẹ nhàng dễ chịu cho bà ta hơn.
-- Nó chỉ nói nó muốn thi bằng A để vào đại học, - Bà Rosalind đáp, mắt vẫn nhìn vào cái khăn giấy. Nó thích học ở Mỹ. Tôi thấy nó muốn đi xa khỏi đây và xa chúng tôi.
Xa mặt cách lòng, Banks nghĩ. Và để khỏi làm ảnh hưởng đến sự nghiệp chính trị còn non trẻ của ông Riddle, mặc dù cô không gây thiệt hại gì trầm trọng cho ông ta. Banks nhớ lần đầu tiên ông đến đây khi vợ chồng Riddle yêu cầu ông đi Luân Đôn tìm cô, ông đã có cảm giác bà Rosalind không muốn cô về nhà. Bây giờ ông cũng có cảm giác ấy.
-- Đương nhiên tôi bằng lòng. Thế còn tốt hơn là để nó chạy đến Luân Đôn sống với thằng... tôi không biết tên hắn... thằng buôn bán ma tuý.
-- Tôi không biết hắn có buôn bán ma tuý không, - Banks nói. - Thực ra thì Emily quả quyết hắn không buôn bán ma tuý, và tôi thấy tôi tin lời cổ.
-- Đấy, Emily luôn luôn có tài làm cho đàn ông nghe theo lời nó.
-- Clough thì không. Cô ấy đã gặp đối thủ ở đấy.
-- Ông tin hắn phải chịu trách nhiệm về việc này à? - Ông Riddle hỏi.
-- Ồ, vâng. Tôi có cảm giác hắn ta là kẻ nguy hiểm và hắn không thích đối mặt với ai hết.
-- Mà sao hắn muốn hại nó? Hắn không biết lý do gì hết.
-- Tôi không biết, - Banks đáp. - Tôi chỉ nói với ông rằng tôi đã gặp hắn, tôi tin hắn đang làm ăn phi pháp. Có lẽ hắn giết cô ấy để che giấu tung tích. Có lẽ hắn nghi cô ấy biết nhiều về công việc làm ăn của hắn. Có khi nào cô ấy nói cho ông nghe về hắn không?
-- Không. Anh định làm gì hắn? - Riddle hỏi.
-- Ngày mai tôi sẽ đi Luân Đôn. Nhưng trước khi đi, tôi muốn tìm ở đây xem thử có thêm vài dấu hiệu gì tôi phải theo dõi không, - Banks ngừng lại một lát. - Tôi cũng xin báo cho ông biết, vào hôm Emily chết, tôi có ăn trưa với cô ấy, và...
-- Anh nói sao?
-- Cô ấy điện thoại đến mời tôi ăn trưa với cổ, cổ nói cổ đang ở tại Eastvale. Cô muốn cám ơn tôi.
-- Nó không nói cho chúng tôi biết. - Riddle nói, nhìn bà Rosalind, bà cau mày.
-- Đúng thôi, bà nhà đã nói cô ấy rất kín đáo và vì thế có lẽ câu hỏi sau đây của tôi chỉ mất thì giờ thôi, nhưng khi cổ đi gặp người nào đấy. Thế cổ có nói với ai trong hai ông bà chiều hôm đó cổ sẽ gặp ai ở Eastvale này không?
Cả hai đều lắc đầu. Bà Rosalind hỏi:
-- Nó có nói với ông không? Nó có nói gì không?
-- Nói về cái gì?
-- Tôi không biết. Về điều có thể giúp cho ông hiểu rõ chuyện xảy ra.
-- Cô ấy chỉ nói cổ tin là cổ đã thấy một tên làm việc với Clough ở Eastvale. Tôi nghĩ chắc cổ không nói cho bà biết?
-- Không, - Bà Rosalind đáp.
-- Hôm qua cô ấy gặp bà lần chót là khi nào?
-- Chúng tôi không gặp, - Riddle trả lời. - Buổi sáng Ros và tôi đi làm việc lâu nó mới dậy, và khi chúng tôi về thì nó đã đi rồi.
-- Vậy thì lần cuối cùng ông bà gặp là vào thứ Tư?
-- Phải.
-- Cổ có gọi điện thoại cho ai hay có ai gọi cổ không?
-- Tôi không biết. - Riddle đáp. - Ros có biết không?
Bà Rosalind lắc đầu.
-- Trong khi cô ấy nói điện thoại, cổ có nói lâu không?
-- Không lâu.
-- Tôi xin phép ông bà để hỏi công ty Viễn thông Anh quốc để biết họ có ghi lại những cuộc điện thoại của máy ông bà từ khi Emily về nhà, được không?
-- Đương nhiên là được, - Ông Riddle đáp. - Tôi cũng muốn biết nữa.
-- Rất tốt, thưa ngài. Tôi sẽ cho sĩ quan thám tử làm việc này. Cô ấy có khách nào từ Luân Đôn đến thăm, hay trở về đấy chơi không?
-- Chúng tôi không thấy có, - Riddle đáp.
-- Cả hai ông bà có chắc là không có người tôi cần phải theo dõi thật kỹ trong vụ này không?
-- Chắc, - Ông Riddle đáp, sau một lát suy nghĩ. - Chắc không có ở đây. Như Ros đã nói, nó đi chơi với một nhóm. Có lẽ chúng đi với nó đến hộp đêm. Anh có thể nói chuyện với chúng, để biết chắc có đứa nào trong bọn chúng cần phải theo dõi hay không?
-- Chúng tôi đã nói chuyện với chúng rồi, nhưng chúng tôi vẫn phải tiếp tục theo dõi chúng. Xin thú thật, tôi không nghĩ có đứa nào trong bọn chúng đáng nghi ngờ. Ông bà có biết cô ấy đào đâu ra ma tuý không?
Bà Rosalind trả lời.
-- Tôi đã nói với ông là tôi không có tin nó dùng ma tuý từ khi nó về nhà.
-- Bà có khoẻ không?
-- Không hoàn toàn. Nhưng... tôi... - Bà nhìn chồng và đỏ mặt trước khi nói tiếp. - Tôi có lục phòng nó một lần. Và một vài lần, tôi lục xem xách tay của nó. Tôi không tìm thấy gì hết.
-- Thế mà cô ấy chắc chắn đã dùng Côcain vào đêm cô ấy chết, - Banks nói.
-- Có lẽ đấy là lần đầu từ khi ở Luân Đôn về?
-- Thưa bà Riddle, khi bà lục xách tay của cổ, bà có thấy một cái bằng lái xe và một cái thẻ xác minh tuổi không?
Bà Rosalind có vẻ hốt hoảng.
-- Bằng lái xe à? Lạy Chúa lòng lành. Emily còn nhỏ không đủ tuổi lái xe. Vả lại, tôi không nhìn vào trong cái ví.
-- Tôi không nói cô ấy đã lái xe, nhưng khi người ta phát hiện cổ, người sĩ quan hiện trường tìm thấy trong xách tay của cổ có bằng lái xe và anh ta nghĩ là của cổ. Anh ta lại còn tìm thấy một cái thẻ xác minh tuổi do các hộp đêm cấp phát, mặc dù họ không có chức năng làm việc này. Vì thế mà đã xảy ra chuyện bối rối khi nhận diện ban đầu.
-- Đối với tôi, chuyện này không có nghĩa lý gì hết. Tôi không hiểu gì hết.
-- Bà có biết gì về cái tên Ruth Walker không?
Banks thấy mắt bà Rosalind hiện lên ánh kỳ lạ. Có lẽ bà kinh ngạc khi nghe tin này, nhưng ánh kỳ lạ biến mất rất nhanh đến nỗi ông không tin vào suy đoán của mình. Bà mím chặt đôi môi rồi đáp:
-- Không.
-- Cô này là một người bạn của Emily ở Luân Đôn. Nghe nói cô Ruth này gặp Emily ngoài phố và đem cổ về nhà khi cổ mới đến Luân Đôn lần đầu. Bà không biết chuyện này à?
-- Không.
-- Thế bà có biết gì về Craig Newton không? Anh ta có khi nào gọi điện thoại đến không?
-- Anh ta là ai?
-- Anh ta là bồ đầu tiên của cô ấy ở Luân Đôn. Giữa anh ta và Clough có chuyện rắc rối. Khi tôi nói chuyện với anh ta, tôi thấy anh ta có vẻ đàng hoàng, nhưng có thể anh ta ghen, và có thể ảnh căm thù Emily vì đã bỏ rơi anh ta. Cô ấy nói với tôi anh ta cứ theo cổ lẽo đẽo, quấy rầy cô. - Banks đứng dậy. - Chắc tôi phải xuống đó để hỏi thăm họ. Nhưng hiện tại, hai ông bà tin chắc không ai nghĩ ra được người nào muốn hãm hại Emily chứ?
Cả hai người đều lắc đầu.
Banks nhìn Riddle. Ông nói:
-- Thưa ngài, ngài là cảnh sát, ngài có nghĩ đến ai có thể căm thù ngài không?
-- Ồ Banks, làm gì có. Anh biết tôi không trực tiếp chiến đấu ngoài mặt trận từ lâu rồi. Công việc này không phải là việc của cảnh sát trưởng mà.
-- Dù vậy...?
-- Không, nói thẳng là tôi không nghĩ có ai hết.
-- Ông xem lại trước đây có bắt ai không, dù đã lâu rồi? Chỉ để theo dõi thôi.
-- Tất nhiên. - Riddle nhìn Banks đi ra cửa - Anh thường xuyên liên lạc chứ? - Ông ta nói, nắm chặt cánh tay của Banks. - Tôi được khuyên nên nghỉ một thời gian không đến văn phòng, cho nên tôi sẽ lấy giấy phép để vắng mặt. Nhưng tôi nghĩ có mặt tôi ở đấy, công việc có kết quả hơn. Dù sao thì anh cũng phải cho tôi biết ngay tin tức khi anh biết. Anh hiểu chứ? Ngay tức khắc.
Banks gật đầu và ông Riddle buông tay ông ra.
Trở lại phòng hình sự, Banks được báo cáo rằng Darren Hirst có đến và đã đi rồi. Thám tử Jackman đã hỏi anh ta, cho ông biết anh ta không thể cho biết gì rõ thêm về hai người đi ra khỏi quán Bar None lúc 10 giờ 47. Thậm chí anh ta không nhớ đã thấy hai người ở đâu hết. Bây giờ chỉ còn việc bảo Ned Parker in cái ảnh lờ mờ, lốm đốm trong màn ảnh truyền hình ra, rồi đưa cho mọi người xem để nhờ họ nhận diện thôi. Có thể có người nhớ đã thấy họ trong các quán rượu quanh khu thương xá. Có lẽ không có kết quả gì, nhưng công việc của cảnh sát là phải làm.
Ông còn được biết có ba người có mặt tại quán Bò Đen vào giờ ăn trưa hôm qua, có điện thoại đến cho họ biết họ đã thấy nạn nhân với một người lớn tuổi. Một người tin chắc đã nhận diện được người đàn ông là "nhà thám tử đã đến truyền hình để nói vấn đề cung cấp tin tức trong mùa hè". Đúng, ông ta muốn nói đến ông phó cảnh sát trưởng và gia đình Riddle.
Banks đi vào phòng thám tử. Đi trên hành lang, ông nghe tiếng chân vang lên như có ai dí cái mũi khoan hơi xuống nền nhà. Ông đóng cửa phòng xong, dựa người vào tường. Hatchley và Annie Cabbot đang ngồi ở bàn làm việc của mình. Annie nhìn ông, ánh mắt hậm hực, còn Hatchley cho biết anh ta đã đi điều tra xong vụ bắt cóc lạ đời rồi.
Banks cười:
-- Xảy ra lại ư? Từ khi anh điều tra vụ "Hồ Xơ X" đến giờ à? Jim?
-- Quả vậy, Hatchley đáp. - Có Chúa chứng giám cho lòng thành thật của tôi. - Anh ta cười, tiếng cười nghe như anh ta đang hô lớn một tiếng. - Tiệm bán đồ chơi ở đường Elmet, - anh ta nói tiếp. - Họ trưng ra một người nhỏ màu xanh, bơm lên được để quảng cáo một loại đồ chơi mới, và có kẻ nào đấy cuỗm mất. Có lẽ chú bé nào đấy. Tuy nhiên, đây vẫn là một vụ bắt cóc lạ đời.
Banks cười.
-- Có chuyện để viết sách. Có bao giờ anh nghe một gã nào có tên là Johnathan Fearn không?
-- Thế là có việc rồi, - Hatchley gãi lỗ tai. - Nếu tôi nghĩ đúng là thằng cha này, thì hắn là một thằng cục cằn thất nghiệp, thỉnh thoảng làm vài việc không được tinh ranh cho lắm. Chúng tôi đã theo dõi hắn cách đây mấy năm, hai lần hắn lái xe chở đồ ăn cắp ở kho hàng.
-- Nhưng hắn không có hồ sơ tiền án à?
Hatchley nhún vai.
-- Gặp may thôi. Có đứa thường gặp may. Nhưng không bền.
-- Vận may của hắn đã hết rồi. Hiện hắn đang nằm viện ở Newcastle. Bị hôn mê.
Hatchley huýt gió.
-- Chết mẹ rồi! Có chuyện gì đã xảy ra thế?
Banks kể những gì ông biết cho anh ta nghe.
-- Anh có biết có mối liên hệ nào giữa tên Fearn này với Charlie Courage không?
-- Có thể có. Nghĩa là hai thằng này cùng la cà trong các quán rượu và không tên nào là không liên quan đến các vụ trộm thỉnh thoảng xảy ra. Theo tôi thì hai thằng như hai hạt đậu trong một quả đậu.
-- Cám ơn, Jim, - Banks nói. - Anh đi một vòng xem sao, được không? Xem thử có tìm ra manh mối gì không?
Hatchley luôn luôn sung sướng được cử đi công tác tại các quán rượu, anh tươi cười đáp:
-- Rất hân hạnh.
-- Có một thanh tra cảnh sát tên là Dalton đang ở đây. Anh ta từ Northumbria đến, ở lại tại khu Fox and Hounds. Anh ta có thể giúp anh được. Liên hệ với anh ta để theo dõi thằng này.
-- Tuân lệnh.
°

*

Annie đi theo Banks ra khỏi văn phòng, rồi chặn ông lại trên hành lang.
-- Nói một lời được không?
-- Đương nhiên, - Banks đáp. - Nhưng không nên ở đây. Ồn ào thế này làm tôi điên mất. Đến quán Queen's Arms nhé?
-- Tốt cho tôi quá.
Banks và Annie đi qua phố chợ đến quán Queen's Arms.
Khi hai người đã ngồi vào một góc yên tĩnh và đã gọi đồ uống mang đến xong, Annie nói:
-- Tôi muốn anh nói cho tôi biết anh đang chơi cái trò quỉ quái gì thế. - Giọng cô dịu dàng, nhưng trong giọng nói cô để lộ sự tức giận, và cô ngồi cứng ngắt trong ghế.
-- Cô nói thế nghĩa là sao?
-- Anh quá biết tôi muốn nói gì rồi. Chuyện gì xảy ra giữa anh và nạn nhân?
-- Emily Riddle phải không?
-- Vậy còn ai nữa?
Banks thở dài.
-- Tôi rất tiếc chuyện này đã xảy ra theo chiều hướng như thế, Annie, tôi xin lỗi tôi đã làm cho cô bối rối. Thú thật tôi đã muốn nói cho cô nghe. Nhưng tôi không có thì giờ thuận tiện để nói.
-- Anh có thể nói cho tôi nghe tại hiện trường vào đêm qua.
-- Không. Tôi không thể nói được. Có nhiều việc phải làm, nhiều chuyện diễn ra, nhiều chuyện để tổ chức. Và tôi quá buồn trước cảnh tôi đã chứng kiến - Ổn chưa?
-- Không, không ổn. Sáng nay anh đã làm cho tôi cảm thấy mình là đồ ngốc. Tôi đang cùng anh làm chung một vụ án, thế mà anh đưa ra một kẻ bị tình nghi mà tôi không hề hay biết gì hết. Rồi cũng không nói cho tôi biết về chuyện anh đã ăn trưa với nạn nhân vào hôm cô ta chết.
-- Kìa, tôi đã nói xin lỗi rồi. Tôi còn biết nói gì nữa?
Annie lắc đầu.
-- Đừng thế nữa, Alan. Nếu tôi được xem là nhân viên điều tra của anh, thì đừng để tôi là người sau cùng nghe những dự án triển khai quan trọng.
-- Đây không phải là những dự án triển khai quan trọng, mà là việc đã xảy ra rồi.
-- Đừng biện luận. Anh đã nêu tên kẻ bị tình nghi. Anh đã có liên hệ trước với nạn nhân. Đáng ra anh phải nói cho tôi biết. Thế mới có cơ sở để giúp việc điều tra được tốt.
-- Đã có cơ sở cho việc điều tra rồi. Và nếu cô để cho tôi nói, tôi sẽ nói cho cô nghe.
-- Trễ còn hơn không.
Banks kể cho cô nghe về Luân Đôn, về công ty Glamour Puss, về Clough, Ruth Walker và Craig Newton - kể hết ngoại trừ về những chuyện mà ông và Emily ở trong khách sạn - và kể về những chuyện mà ông và Emily đã tranh luận vào bữa ăn trưa ngày hôm trước. Khi ông kể xong, Annie có thể thanh thản trong ghế ngồi, thái độ thường thấy ở cô.
-- Tôi không giấu giếm gì cô đâu, Annie à, - ông nói. - Chỉ là vì không có thời giờ thuận tiện mà thôi. Thật đấy.
-- Và tất cả là như thế phải không?
-- Tất cả như thế. Lấy danh dự cam đoan với cô đấy.
Annie cố nở nụ cười.
-- Lần sau có chuyện gì như thế xảy ra, cho tôi biết trước chứ, được không?
-- Được. Tha lỗi rồi chứ?
-- Tha lỗi rồi. Công việc kế đấy là gì?
-- Tôi sẽ đi Luân Đôn vào ngày mai để kiểm tra lại một vài công việc.
-- Còn tôi?
-- Tôi cần cô làm một số công việc ở đây. Tôi chỉ đi vào dịp cuối tuần thôi, có lẽ như thế, nhưng sẽ có rất nhiều việc phải làm. Công việc của cô là lấy kết quả khám nghiệm tử thi, tiếp xúc với phóng viên truyền hình địa phương và xem thử có thể nhờ họ cung cấp một số thông tin không. Xem thử có ai trông thấy cô ta trong thời gian từ khi cô ta rời khỏi quán Bò Đen trước ba giờ cho đến lúc cô ta gặp bạn ở quán Cross Keys lúc 7 giờ. Và nhấn mạnh điểm thực tế là mặc dù cô ta mới 16 tuổi, nhưng trông cô ta già hơn tuổi. Nếu đàn ông thấy cô ta chắc họ sẽ nhớ. Kiểm tra các xe đò và taxi ở địa phương. Nhờ thám tử Templeton đi hỏi từng nhà trong vùng quanh quán Bò Đen. Có lẽ chúng ta sẽ có tăng cường thêm nhân lực đấy. Ai biết được? Chúng ta có thể sẽ gặp may. Có thể có ai đó thấy Clough trao cho cô ta một gam Côcain cũng nên.
-- Có thể lắm.
-- Và còn việc này nữa.
-- Việc gì thế?
-- Sáng nay có một thanh tra cảnh sát tên Dalton đến thăm tôi. Anh ta từ Phân đội điều tra tội phạm ở Northumbria đến điều tra về vụ Charlie Courage. Vụ này hình như có liên hệ với vụ chiếc xe tải bị ăn cướp dọc đường ở phía Bắc. Vì biết cô đã điều tra sơ khởi ở Daleview, cho nên tôi muốn cô đến gặp anh ta để nói chuyện một lát, rồi cô giao hồ sơ cho Hatchley. Hắn có thể giúp được chúng ta đấy. Có lẽ cô sẽ gặp may được hắn mua hết chai bia cũng nên.
°

*

Tối ấy ở nhà, Banks cho vào túi xách nhỏ vài cái áo quần, rồi tộng thêm cuốn The Ordeal of Gilbert Pinfold của Evelyn Waugh và những cuốn băng nhạc của Renee Fleming và Captain Beefheart. Chắc ông phải mua một máy hát dùng đĩa CD cầm tay thôi. Việc sang băng rất mất thì giờ và tốn kém, và còn thời gian chơi đĩa CD lâu hơn so với kiểu máy chạy băng chỉ chơi trong vòng 90 phút - hay 100 là cùng.
Khi chuẩn bị hàng trang xong xuôi, ông điện thoại cho Brian. Đến hồi chuông thứ ba, anh ta trả lời:
-- Chào ba. Ba khoẻ chứ?
-- Khoẻ. Này con, cuối tuần này ba lại xuống dưới con đấy. Con có ở đấy không? Ba sẽ rất bận, nhưng ba nghĩ chúng ta có thể ăn với nhau bữa trưa được chứ?
-- Thật tiếc, ba à. Chúng con bận trình diễn ở Southampson rồi.
-- Vậy à, thế thì đừng trách thiện chí của ba đấy nhé. Ba chúc con thành công rực rỡ.
-- Cám ơn ba. À ba này.
-- Chuyện gì thế?
-- Ba nhớ thằng cha ba đã hỏi trước đây không, thằng cha trước đây làm nghề tổ chức nhạc hội ấy?
-- Thằng Barry Clough phải không?
-- Đúng lão ta đấy.
-- Hắn ra sao?
-- Không sao, nhưng con có nói chuyện với một nhà sản xuất âm nhạc ở phòng ghi âm, ông ta tên là Terry King. Ổng già cỡ ba, lặn lội trong nghề lâu rồi, từ thời nhạc rốc thịnh hành. Chắc ba biết những cuốn băng nổi tiếng như The Sex Pistols, The Clash và những cuốn đại loại như thế chứ? Chắc ba còn nhớ loại nhạc thời ấy chứ?
-- Brian, - Banks đáp, cười một mình - ba còn nhớ cả Elvis nữa đấy. Thôi bây giờ ta dẹp chuyện cách biệt tuổi tác ấy đi và vào vấn đề chính thôi.
-- Thật ra thì chẳng có chi. Chỉ là vì ông ta có biết Clough thôi. Lão vỗ ngực tự xưng mình là giới nhạc rốc, lấy biệt danh thật kêu như "Sid ác ôn" - Ông Terry không nhớ anh chàng này là ai - nhưng đúng là lão ta. Thì ra lão ta bị đuổi không cho làm việc tổ chức đại nhạc hội nữa đấy.
-- Vì sao bị đuổi?
-- Vì đã bán đứng những buổi hoà nhạc sống. Không chỉ bán đứng ban nhạc lão đang làm, mà cả những tên tuổi lớn.
-- Ba hiểu rồi. - Banks nhớ vào thập niên 70 đã có những kẻ làm ăn phất lên nhờ việc bán đứng những ban nhạc rốc và cả ca sĩ. Thoạt tiên là Bob Dylan, Jimi Hendrix, ban The Doors và những ban nhạc nổi tiếng đã bị bán đứng, không một ai trong số này có được một xu do việc buôn bán phi pháp này. Rồi sau đó, nhiều ban nhạc rốc khác cùng lâm vào hoàn cảnh như thế này. Không phải là họ không cần tiền, và hầu hết quá say sưa mà không để ý đến, nhưng họ cho tiền bạc không quan trọng. Bọn nhân viên của Clough nhận ra điểm này, chúng đẩy Clough vào công việc làm ăn bất chính.
-- Như con đã nói, việc này không đáng chú ý, nhưng theo lời ông ta thì bây giờ thằng cha Clough này là tay đầu sỏ cướp bóc đấy. Một tay rất nguy hiểm. Ba hãy cẩn thận đấy.
-- Ba sẽ cẩn thận. Chắc con biết ba không phải là đồ non nớt.
-- Đúng. Ồ, còn một chuyện nữa ba à.
-- Chuyện gì thế?
-- Có chiếc xe bạn con muốn bán. Chỉ mới ba năm thôi, có giấy chứng nhận của Bộ Giao thông vận tải đã kiểm tra đầy đủ. Con đã...
-- Brian, con muốn gì?
-- À, con đã được anh ta hạ giá xuống bớt 200, nhưng con phân vân không biết ba có giúp con được không?
-- Sao? Ba giúp cho cậu con trai là ngôi sao nhạc rốc danh tiếng giàu có à?
Brian cười.
-- Ba cho chúng con dịp may đã.
-- Con cần bao nhiêu?
-- Ba trăm bảng là tuyệt. Khi con giàu và nổi tiếng, con sẽ hoàn lại cho ba.
-- Được rồi.
-- Ba chắc chứ?
-- Ba nói là làm, con không tin sao?
-- Tuyệt quá! Cám ơn ba. Cám ơn rất nhiều.
-- Chúc mừng con. Sẽ nói chuyện với con.
Banks gác máy. Ba trăm bảng là một số tiền khá lớn đối với ông. Nhưng, dù sao ông cũng xoay xở được. Rốt lại, ông đã tiết kiệm được một số tiền khá lớn mà ông định chi tiêu ở Paris và số tiền ông phải trả cho Tracy để chi tiêu vào đợt cuối tuần ấy. Ông nhớ khi còn trẻ ông đã ao ước có chiếc xe biết bao; con trai có xe thường có con gái đi chơi. Cuối cùng ông đã mua được chiếc VW Beetle cũ kỹ khi ông đi học đại học ở Luân Đôn. Chiếc xe dùng cho đến ngày ông ra trường, nó bệ rạc đến nỗi ông đã vứt bỏ ở trên đường North Circular vào một hôm chủ nhật trời mưa lạnh vào tháng Giêng, và ông không mua lại được chiếc nào mãi cho đến khi ông lấy Sandra. Phải, ông phải tạo cơ hội để giúp Brian.
Tiếp theo, Banks gọi thử đến Tracy, và ông ngạc nhiên được cô trả lời ngay.
-- Ba à! Con đang muốn nói chuyện với ba đây! Con đã đọc báo biết chuyện cô con gái của ông Riddle. Ba bình an chứ? Con biết ba không thân thiện với ông ấy, nhưng... Ba có biết cô ta không?
-- Biết, - Banks nói. Rồi ông nói thật cho Tracy nghe chuyện ông đi Luân Đôn để tìm Emily hôm trước, thay vì đi nghỉ cuối tuần với cô ở Paris.
-- Ồ ba, đừng cảm thấy tội lỗi vì đã làm ơn cho người khác. Mới đầu cũng buồn lắm, nhưng Damon và con đã hưởng được một thời gian tuyệt vời.
Banks nghĩ: ba đoán thế, ông cắn lưỡi để khỏi thốt ra lời.
Tracy nói tiếp:
-- Con nghe cô ta chết vì côcain quá liều ở hộp đêm Bar None, và người ta nói cô ta sống rất phóng đãng. Có phải cái chết của cô ta có dính dáng gì đến những việc đã xảy ra ở Luân Đôn không?
-- Ba không biết. Nhưng có thể có.
-- Thật khủng khiếp. Có phải có kẻ chủ động không?
-- Có thể có.
-- Ba có nghĩ ai...? Không, đáng ra con không nên hỏi.
-- Không sao đâu, con. Hiện giờ chưa biết. Chỉ mới có vài manh mối để theo dõi, thế thôi. Ngày mai ba sẽ đến Luân Đôn. Ba muốn nói chuyện với con trước hết, để xem thử con còn ý định đến ăn Giáng sinh với ba không.
-- Đương nhiên rồi. Con không muốn bỏ đi ăn Giáng sinh với thiên hạ.
-- Tốt.
-- Cô ta mới 16 tuổi thôi phải không ba?
-- Đúng thế.
Tracy im lặng một lát. - Ba này... Con muốn ba biết... nghĩa là con biết thỉnh thoảng ba lo cho con. Con biết ba và má lo cho con khi chúng con đi chơi với nhau, nhưng ba khỏi cần lo. Con... nghĩa là, không bao giờ con làm việc gì như thế.
-- Ba biết con không làm.
-- Không đâu, ba. Ba không biết đâu. Ba không thể biết được. Cho dù ba biết có dấu hiệu để ba tìm hiểu, nhưng ba vẫn không có mặt bên con luôn được. Con không muốn nói con là hư đốn. Con biết công việc của ba có những yêu cầu như thế nào, và con biết ba yêu chúng con, nhưng ba không có mặt bên con luôn được. Con xin nói thực cho ba biết. Con biết ba thường cho con là cô bé hảo ngọt, nhưng không đúng như thế. Có lần con đã hút thử cần sa, nhưng con không thích cảm giác chất này gây cho con. Và một lần khác, có một cô gái cho con chất Esctasy trong một buổi khiêu vũ, nhưng con cũng không thích nốt. Nó làm cho tim con đập nhanh, và con chỉ có toát mồ hôi và cảm thấy khiếp sợ. Con nghĩ chắc ba sẽ nói con là người không chịu được các thứ ma tuý.
-- Ba sung sướng khi nghe con nói thế. - Banks muốn hỏi phải chăng năm 14 tuổi cô đã muốn nhục dục không, nhưng ông nghĩ hỏi con gái như thế chẳng đẹp tí nào. Cứ để cho cô ấy nói cái gì cô thích khi cô ta muốn nói.
-- Nhưng, - Tracy nói tiếp - con chắc ba rất bận... Và con nghĩ có ai sắp bắt hắn, thì kẻ ấy là ba.
Banks cười.
-- Ba cám ơn con đã tin tưởng vào ba như thế. Hãy cẩn thận, nghe con. Hẹn gặp lại con.
-- Chào ba.
Banks gác máy, lắng mình trong cảnh tĩnh mịch. Ông thường có cảm giác cô đơn, trống rỗng sau khi đã nói chuyện với người thân thương trên điện thoại, như thể sự im lặng đang giữ hình ảnh của người vắng mặt. Ông cố xua đuổi hình ảnh ấy đi. Đêm bên ngoài mát lạnh, ông vẫn còn thì giờ để ra ngoài ban công nhỏ kề bên thác nước để hút một điếu thuốc và uống một hai cốc rượu Laphroaig.