Phần 17- Chương 10

Đưa bé Thúy con gái của mình cùng với bạn nó đi học rồi, khép cánh cổng lại, nghe tiếng rít của chiếc bản lề khô dầu từ cánh cổng rền rĩ như tiếng thở dài của người đàn bà thất vọng, Hảo đứng thẫn thờ, một tay chị loạng choạng vịn vội vàng vào một nhánh cây hoa giấy non mỡ màng, đang phơ phất trong gió chiều mệt mỏi. Mặt trời đã lặn, nhưng đèn đường chưa lên, hoàng hôn như một cái chảo gang từng trải dầu mỡ, loang loáng màu tím sẫm úp xuống một góc thành phố, ngột ngạt. Tiếng cánh dơi bay phần phật trên đầu, ngẩng lên Hảo bắt gặp những con dơi màu đen quái dị như những tùm giẻ ma trơi, giăng chéo, lượn vòng, nhộn nhịp và bí hiểm. Căn nhà càng lúc càng đen lại, bóng tối ụp xuống rất nhanh. Cài chốt cánh cổng lại, Hảo lững thững trở vào. Trong nhà đèn cũng chưa bật, chỉ nghe có tiếng nước chảy long tong từ đâu dó, trong bể trữ nước, nhịp nhàng, cần mẫn và ru ngủ.
Hảo đi thẳng vào bàn ăn, mùi thức ăn quen thuộc cùng với mùi bếp núc chật hẹp lan tỏa, lẩn quất trong những góc khuất, khiến Hảo cảm hấy yên tâm. Chị ngồi xuống chiếc ghế cạnh bàn ăn, tiện tay mở cái lồng bàn, một vài món đậu xào, cá chiên, canh hẹ... hiện ra. Hảo úp lại, rồi im lặng, hai tay để lên đùi, ngó qua ô cửa sổ, thấy ánh đèn chập chờn của cánh đồng như một bầu trời hiếm sao, nhấp nháy...
Có tiếng chuông điện thoại. Thoạt đầu, Hảo vội vã xô ghế đứng dậy, như một người chờ đợi tiếng chuông reo. Nhưng được hai bước chân, chị đứng sững lại, mặc cho tiếng chuông điện tử hối hả. Đến hồi chuông thứ tư hay thứ năm gì đó, Hảo nhấc máy. Quả không sai, tiếng a lô đầu dây bên kia đúng là của Kiệm, chồng chị. Và cũng chẳng cần dài lời, Hảo dạ liên hồi trước những lời giải thích của chồng. Cuối cùng chị hỏi lại như một thủ tục: "Chừng nào anh về?". Thế thôi, cuộc đàm thoại chấm dứt.
Con mèo thấy bà chủ nhà không bật đèn, mà cứ đi lại như một người lạ, nó chạy đến cà cà cái đầu của nó vào bắp chân để trần của Hảo, tiếng gừ gừ trong cái cổ họng nhạy cảm của nó, khiến Hảo chạnh lòng. Chị cúi xuống ôm nó lên tay rồi ra phòng khách, bật đèn, tiện thể mở luôn ti-vi. Hảo ôm con mèo ngồi vào ghế salông, một tay cầm rờ-mốt bấm tìm các kênh truyền hình. Chị bấm lần lượt tám kênh truyền hình và thất vọng khi tất cả đều chiếu phim Hồng Kông, Trung Quốc, Hàn Quốc... Ngước nhìn chiếc đồng hồ treo tường chỉ sáu giờ rưỡi, Hảo để cái điều khiển từ xa xuống mặt bàn, mặc kệ cho màn hình ti-vi đang nhảy nhót, đưa đẩy những hình ảnh sặc sỡ và những câu nói bằng tiếng Việt rõ ràng, nhưng lạ tai, đợt giọng lưỡi, rất khó chịu. Nội dung bộ phim không cần xem kỹ cũng đoán ra, đó là câu chuyện về cuộc tình giữa các nhà doanh nghiệp, họ vờn nhau, khi thì nâng đỡ, tâng bốc, khi thì mạt sát, chửi mắng nhau, nẫng tay trên của nhau, những miếng mồi ngon, một tình nhân xinh như mộng, hay một khoản lợi nhuận kếch sù...
Hảo cứ ngồi một mình như thế, bởi vì con mèo cũng khó chịu, nó phóng khỏi tay chị, lao vào một góc tối nào đó, tìm mồi, tìm bạn, hay đơn giản, nó cũng tìm sự yên tĩnh, cô đơn như bà chủ đài các mượt mà của nó.
Hảo bỗng bàng hoàng tự hỏi: không biết mình ngồi một mình một bóng như thế này đã bao lâu rồi, đã bao nhiêu lần rồi? Cái không khí đầm ấm gia đình đối với chị đã xa vắng từ lâu. Từ khi nào chị cũng không nhớ rõ, chỉ biết rằng, giờ đây chị cảm thấy thích thú, yên tâm khi được đối diện với chính mình, mà không còn cảm thấy bị bỏ rơi, hắt hủi. Cái cảm gác không bị cật vấn, không bị sự quan tâm tưởng như mặn mà, nhưng rồi chỉ là một sự phải phép, hời hợt. Từ lâu rồi, các thành viên trong nhà, chồng và cô con gái, chạy như chong chóng, lao vào công việc, học hành, vui chơi, bầu bạn... Họ cảm thấy mỗi người trong ngôi nhà này đối với nhau chỉ còn ràng buộc bởi nghĩa vụ, bởi tính pháp lý, mà không phải là sự cần có nhau, sự nương tựa vào nhau, tự nhiên như cây rừng, cá bể... Họ lao tới phía trước, tới tương lai như con thuyền gặp gió, lúc nào cũng căng phồng, phần phật, vun vút...
Chồng Hảo là một người tốt, một trí thức được đào tạo dưới chế độ cũ. Khi được trở lại làm công tác giảng dạy ở một trường Đại học, anh đã bộc lộ hết tất cả sự nhiệt tình, chỉ với một mục đích không bị loại bỏ. Đó là thời kỳ hạnh phúc nhất trong cuộc đời Hảo, chị được yêu, được làm việc, được sống bằng nỗi khao khát cống hiến của mình. Khi họ lấy nhau, một đám cưới đạm bạc được tổ chức trong một căn phòng nhỏ dùng làm lớp học của sinh viên, nơi anh làm cán bộ giảng dạy. Thời ấy, nhu cầu làm việc, và được làm việc trong cơ quan nhà nước của con người là trên hết, là cứu cánh, dù tiền lương không đủ ăn, thu nhập không xứng với năng lực. Làm việc như đi hội! Sáng ra, ăn uống qua loa, vội vội vàng vàng lao đến bằng cơ quan trên chiếc xe đạp cũ kỹ. Đến nơi, chào nhau, gật đầu, mỉm cười rồi ngồi vào bàn nghe đọc báo. Ai nhỉ? Hồi ấy ai đã đọc những bài báo vừa hùng hồn, tha thiết, vừa rao giảng, răn đe? Thế nhưng, bao giờ những buổi đọc báo như thế cũng là những giờ khắc nghiêm túc, thậm chí vô cùng thiêng liêng. À, phải rồi, anh Tụ, chính anh Tụ đã nhận lãnh đọc những bài xã luận, có tính định hướng tư tưởng, vạch ra những mục tiêu chiến lược. Giọng Tụ êm ái, chuẩn mực, đanh thép. Tiếng Tụ không ngân nga, mà ròn rã, người ta bảo, anh giỏi tiếng Nga lắm, học những bốn năm bên ấy cơ mà, nên giọng anh dứt khoát, vang lên như những tràng vỗ tay, kiểu nói của người Nga là thế đấy! Hảo học tiếng Anh, cái thứ tiếng bị coi là vô dụng, thứ tiếng chỉ dùng trong buôn bán. Tiếng Nga là tiếng nói của Lê-nin, của chủ nghĩa xã hội.
-"Zờ-đờ-rát-xtvui-che!" Xin chào! Tụ đã dạy Hảo những câu như thế. Rồi Hảo ghi tên, đóng tiền vào những buổi học tiếng Nga ban đêm. Chị vật lộn với những chữ cái lạ lẫm, mà đế!!!7854_18.htm!!! Đã xem 90932 lần.