P 1 - A

Ngày... tháng...
Con Lợn Bò đúng như một con sâu dóm so với đàn lợn cũ của tôi. Nó đứng ở một xó chuồng, sợ sệt, lủi thủi, ngơ ngác, hèn mọn. Trông mà thương! Lũ lợn ỉn, khi tôi đổ thức ăn vào máng, liền xông ra, tranh nhau sốc lấy sốc để. Còn chú Lợn Bò thì đứng im đần độn bọt mép sùi ra thèm thuồng. Khi quá thèm, nó cố vượt qua nỗi sợ, và mon men đến gần máng ; lập tức cả đàn ba con lợn ỉn ngừng ăn xông ngay lại, con cắn tai, con húc bụng, con đấm mõm. Chú Lợn Bò run lập cập, vội vã rút lui trở về xó chuồng xí của các chú lợn ỉn; và cũng chỉ đến lúc ấy, lũ lợn ỉn mới buông tha Lợn Bò.
Tôi vốn là tay hiệp sĩ, thấy sự bất bằng chẳng tha; tôi tức giận vì lũ lợn ỉn cậy mạnh hiếp yếu; sẵn cái chổi tre trong tay, tôi vụt cho mỗi chú ỉn mấy quất vào mông. Nhưng kết quả chẳng ăn thua gì; lần thứ hai, chú Lợn Bò lại mon men đến gần máng, lần này có lẽ vì tức giận bị tôi trừng trị nên đã tấn công Lợn Bò dữ dội hơn. Rút kinh nghiệm đợt trước, chú Bò vội vã rút ngay vào nơi hang ổ tối tăm của mình để thoát hiểm. Hỡi ơi! Nơi tối tăm bao giờ cũng là nơi cư ngụ của những kẻ hèn mọn. Cái qui luật người ấy cũng đúng cả với loài lợn.
Tôi ngẫm nghĩ, định trừng trị lũ lợn ỉn một lần nữa, nhưng đầu óc tôi bỗng dưng lóe sáng: hãy cứ để cho lũ lợn hục hặc với nhau, cuối cùng đôi bên cũng thích ứng được với nhau. Ha ha! Tuyệt! Chí phải! Hãy để cho triết học tâm lý thấm nhuần đến tận chuồng lợn. Triết học thích ứng, thực dụng nguồn gốc tận bên Mỹ, nay đang được chiêm nghiệm ở cái xó chuồng lợn của một nhà báo thất thế đi vào nghề chăn nuôi ở một hẽm nghèo Hà nội. Thú vị thật!
Nghĩ vậy, nên tôi buông chổi, quay vào bếp tìm một lỗ hổng kế vách, để quan sát đàn lợn.
Kìa! Lũ lợn ỉn đã no nê phè phỡn, con nào bụng cũng căng tròn như trống. Chúng rời khỏi máng, ủn ỉn, đủng đỉnh đi về ổ, tức là nơi cao ráo sạch sẽ nhất trong chuồng lợn, chỗ đó tôi đặt một chiếc tải và một ôm rơm thơm tho ấm áp. Và chúng ngủ, mắt nửa hé nửa nhắm; chúng vừa ngủ vừa ì ạch thở.
Chú Lợn Bò lấm lét nhìn bọn ỉn, rồi từ từ, ngập ngừng tiến lại máng ăn. Con ỉn lang chợt ho, chú Bò lùi phắt lại, nhưng sau đó, thấy im ắng, lại tiếp tục mon men đến máng, chú khẽ khàng liếm láp chỗ cám thừa, vừa ăn vừa liếc nhìn lấm lét.
Vẫn im lặng! Tốt quá! Chú vội tranh thủ sốc lấy sốc để. Tộp! Tộp! Tộp! Chú Lợn Bò lúc này chẳng cần giữ ý tứ nữa, nó ăn xả láng, nó "vét đìa", nó háu ăn đến mức một cộng rau trong máng cũng chẳng còn. Tôi nghĩ: có lẽ nên đặt cho con lợn mới cái tên" Bò-Vét-Đĩa".
Ngày... tháng...
Tôi ra thư viện để đọc sách về lợn. Tôi đi sưu tầm, mua, mượn hàng chồng sách về nhà để đọc. Có thể kể tên các cuốn sách: Giải quyết thức ăn cho lợn; Đạm và sự tăng trưởng của lợn; Những biện pháp trong chăn nuôi gia súc; Hỏi đáp về nuôi lợn lai kinh tế; Những nguyên tố vi lượng trong chăn nuôi; Chuyên đề lợn ỉ; Chuyên đề lợn Móng Cái...v...v..
Có thể nói không gian, thời gian của tôi đang bão hòa chất lợn. Tôi sai con đi mua nứa về làm chuồng bèo; tôi phá hoang mấy đám đất đầu trâu mõm bò ở tận cuối hẽm để gơ dây khoai lang; tôi đi xin cô em tận nhà máy gỗ cầu Đuống một số tấm gỗ bìa bắp, và hai cha con tôi vất vả hì hục thồ cả ngày mới đem được hết gỗ bìa về nhà, để chuẩn bị làm một chuồng lợn thật đúng qui cách. Tôi phân công cả nhà vào chiến dịch nuôi lợn của tôi. Tôi đảm nhiệm việc chăm sóc cho lợn ăn, quét dọn chuồng lợn hàng ngày. Thằng con lớn là sinh viên đại học, thỉnh thoảng phụ giúp tôi. Thằng con thứ hai đảm nhiệm bèo bả rau xanh. Thằng con thứ ba hàng ngày đi nhặt nước gạo. Thằng con thứ tư và bà mẹ hằng ngày thái bèo. Còn vợ tôi, đi làm suốt ngày nên được miễn việc sưu dịch cho lợn. Tôi nói đùa với cả nhà:
- Chúng ta là anh hùng nuôi lợn.
Nghe oai chưa!
Ngày... tháng...
Giá cả hàng hóa của Hà Nội leo thang vùn vụt. Tôi ghi chép lại đây những con số đầy ý nghĩa với cuộc sống gia đình tôi:
Su hào, một đồng một củ - Khoai lang, 22 đồng một yến - Rau muống lợn 1 đồng 5 hào một mớ - Bèo tấm 5 hào 5 nắm tay - Cá diếc 12 đồng một cân - Bơm xe 2 hào một bánh - Trà chén 2 hào một chén...
Ôi chao! Tòan tiền là tiền. Tiền tiêu như rác. Một nắm bèo cũng có giá. Trong khi đó, lương tôi được hơn 60 đồng, lương vợ tôi 70 đồng. Tôi mê sảng đi vì lo tiền. Trong nửa năm, hai vợ chồng tôi đã bán dần bán mòn các vật dụng: cái quạt máy, chiếc xe đạp Phượng Hoàng, cái quần lụa, hai mét si mi li, cái phiếu vải của con, ba chục trứng gà...
Chỉ những con số ấy cũng đủ biện hộ cho công việc nuôi lợn, mê say lợn của tôi. Có thể nói "cơn lợn" của tôi là tất yếu, nó là con đường cứu sống gia đình tôi.
Ngày... tháng...
Tôi còn có thể nói: lợn đã mở rộng thêm quan hệ con người. Nhờ nuôi lợn, đời tôi đã thêm những người bạn mới.
Hôm nay, buổi sáng, khi cho lợn ăn xong, tôi thay quần áo, đủng đỉnh sang nhà Lân uống nước.
Nhà Lân là một túp lều, một thứ nhà ổ chuột bên dòng sông Kim Ngưu (Trâu Vàng), còn tôi, tôi gọi nó là dòng suối đen. Lân là một thương binh, anh sinh viên trường đại học tổng hợp đó đã xung phong vào bộ đội vào những năm đầu của thập kỷ 60. Lân đã nằm trong chiến trường miền Nam suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ, năm 1975 anh mới chuyển ngành về một cơ quan. Cuộc sống cơ quan quá bon chen, bê bối làm anh chán ngán, xin về nghỉ ở nhà nuôi lợn. Có lúc, anh đã chua chát nói:
- Sống với lũ lợn còn thấy vui hơn.
Những ngày gian khổ còn lưu lại cho anh một kỷ niệm quá ư vật chất, một cơ thể gầy gò, và một bộ óc lúc nào cũng như lửa đốt. Con người anh, lúc cởi trần, giống như một bộ xương được bọc một lần da mỏng, bộ xương quá mảnh dẻ để chống đở một cái đầu to quá kích cỡ, ở đó ta bị hút ngay vào một đôi mắt rất sinh động. Đôi mắt hơi to, hơi sếch; có lúc cảm giác như thứ mắt bị ma ám. Khi anh cất giọng nói một điều gì sôi nổi, lúc ấy đôi mắt như mở rộng thêm và bị nhiễm điện, một dòng điện nhấp nháy khi tăng khi giảm làm cho ánh mắt lúc rực rỡ lúc dịu dàng; thứ mắt mang nhiều sắc độ ấy là thứ mắt không giấu giếm, thấy không cần mặt chiếc áo khóac để ngụy trang nào dù sặc sỡ, dù nhiệm mầu đến đâu....
Căn liều của anh ở sặc mùi lợn, mùi lợn thoát ra từ một đàn lợn cả to cả nhỏ gần chục con; mùi lợn còn toát ra từ những bộ lòng lợn mà sáng nào, chiều nào anh cũng kiên nhẫn vớt từ dòng cống đen sì lên. Anh nói:
- Cái dân Việt Nam mình thật kỳ dị. Nghèo khổ nhất mà cũng lãng phí nhất. Từ Lò Lợn, mỗi ngày người ta đổ xuống cống hàng tạ lòng lợn. Lòng lợn nối đuôi nhau lều bều trên sông diễu hành bới trên dòng nước đen sì trông vừa thảm thương vừa man rợ....
Một người đàn bà nghèo khổ ở cuối hẽm đã lén lút vớt những cỗ lòng về, rửa sạch đi bằng xà phòng, rồi đem luộc lên, mang ra quan bia bán cho nhũng con ma men cùng với nhũng bát mắm tôm tím biếc, những quả ớt đỏ chót và những cọng húng nhổi thơm lừng...
Lân đã thở dài khi kể với tôi chuyện đó với một ánh mắt run run hấp hối. Và từ phát hiện ấy anh đã nghĩ ra cách nuôi lợn độc đáo: nuôi lợn bằng những cỗ lòng phế thải lều bều trên sông. Từ hôm ấy, Lân dựng thêm một túp lều nhỏ sát ngay dòng cống; đó là nơi sản xuất thức ăn gia súc của anh; anh ta ta bắt gặp ở đây một bếp lò than và những thùng phuy, những vại, những hố đào xuống lòng đất và lát bằng những mảnh nylông rách.
Qua Lân, tôi mới hiểu dòng cống cũng có qui luật nước chảy của nó, nước cống cũng dâng lên hạ xuống theo giờ trong ngày, cũng nhu nước thủy triều dâng lên hạ xuống theo qui luật sức hút. Hàng ngày, nước cống cao nhất vào lúc 10 giờ sáng và 4 giờ chiều, đó là lúc các bà nội trợ rửa rau, vo gạo, và người Hà Nội giặt giũ làm vệ sinh thân thể; cũng vào giờ đó những cỗ lòng từ Lò Lợn ra bị mắc kẹt vì nước cạn nay được giải phóng; nhũng cỗ lòng phả phê nước tung tăng bơi lội như những con rắn trắng lặn ngụp, ve vẩy trong dòng nước đen sì. Đúng vào giờ ấy, Lân hăm hở như một người chiến sĩ phục kích chờ giặc, anh cởi trần, mặc quần đùi, lội đứng ở chổ nông gần bớ, tay cầm một chiếc vợt đan bằng dây sắt, cán bằng cây nứa dài, và anh cắm cúi kiên nhẫn vớt...
Công việc vớt lòng của anh vất vả nhất là vào dịp những ngày lễ lớn, hội lớn như mồng một tháng năm, mồng hai tháng chín và Tết Nguyên đán; vào những ngày ấy người Hà nội ăn thịt nhiều và Lò Lợn cũng lãng phí nhiều. Những ngày nhiều phế thải ấy, Lân hậm hụi làm việc như một ngươì tù khổ sai bẩn thỉu, hôi thối quần quật cho đến tận đêm. Đầu tiên, anh tháo phân, rửa sạch lòng ngay trong dòng nước đen, sau đó để vào những rổ sồng cho dóc nước. Những thừ dễ huy như gan, phỗi anh đưa lên bếp đun ngay, còn những thứ lâu bị hủy như lòng già lòng non anh đem muối, muối nghĩa là đem trộn với bã rượu rồi đem đổ đầy những thùng phuy, nhũng vại, những hố lót ni lông. Khi một ngọn khói đen bốc lên từ túp lều, tức là xong việc. Lân xin những chiếc lốp xe đạp hỏng về đun; cái thứ cao su hỏng ấy khi cháy tạo ra một ngọn khói đen nhánh, đặc quánh, chỉ cần một thoáng gió thổi tạt làm nghiêng ngọn lửa là một cơn rắn khói đen đã quấn ngay vào mặt vào ngực tạo nên nhũng vết đen khó kỳ cọ trên da. Những lúc chui ở bếp chế biến ra, Lân trôn thật thảm hại, anh như một con quỉ bẩn thỉu, với làn da đen xỉn nhễ nhại mồi hôi; nhưng trái lại, sao lúc ấy đôi mắt anh ngươì đến thế, nồng ấm đến thế, đôi con mắt với tia nhìn long lanh, đôi con mắt thỏa mản, sung sướng. Những khi ấy nếu tôi sang, anh vội vàng cầm búi giẻ khéo léo lau mặt, lau tay, lau ngực và anh rủ tôi ra chuồng lợn, ngắm lũ ỉn; những lúc ấy, chúng tôi thường im lặng, đốt thuốc lên hút; và khi những điếu thuốc phì phéo trên môi đã cháy quá nửa, anh mới ngẩng đầu lên nhìn tôi rồi cười. Trên khuôn mặt vàng sạm của anh, một nụ cười hiếm hoi phô bày hai hàm răng trắng đều và đẹp. Nụ cười khắc kỉ ấy nhiều khi làm tôi bối rối.
Lân suốt ngày ở trong lò chế biến thức ăn, hoặc bên chuồng lợn, ít khi thấy anh ló mặt ra đường, đến nỗi có lúc tôi phải bỡn:
- Anh say mê lợn quá. phải tặng cho anh danh hiệu "Nghệ sĩ lợn" mới đúng.
Lân hóm hỉnh:
- Có lúc vợ tôi phát ghen lên đấy. Một đêm, bà ấy bảo: "Ông nên kê giường ra ngủ với lợn có lẽ hơn". Thật oan cho tôi. Bởi vì tôi mê bà ấy quá nhiều nên mới lăn lưng ra nuôi lợn chứ. Từ khi tôi ở chiến trường về, năm năm ở với bà ấy thì đẻ luôn một mạch năm cô con gái...
Hôm nay trông thấy tôi, Lân đã reo to mừng rỡ:
- Cứ mong mãi. Có trà ngon đãi ông đấy. Trà Thái, loại cực kỳ.
Lân nhóm bếp dầu đun nước, anh hâm ấm chén cho nóng khi chờ nước sôi. Anh xoa tay, vui thú:
- Tôi đã bán được con lợn "Tên lửa" rồi. Con này tăng trọng vượt mức. Mỗi tháng tăng 25 cân.
Tôi mỉm cười. Mỗi con lợn của Lân đều mang một cái tên rất chiến tranh: con "Tên lửa" là con tăng trọng nhanh, con "Lính thủy đánh bộ" là con ưa ăn loãng, con "Thần sấm" là con rú gào suốt ngày đòi ăn, con "Xung kích" là con phàm ăn … tôi trìu mến nhìn người bạn hiền lành cả đời làm lính ấy. Ngoài một mảnh đạn còn nằm trong phổi làm anh hay ho túc tắc, cuộc đời chiến trận còn theo anh kéo dài dấu vết vào đàn lợn. Tôi vẫn nói đùa Lân:
- Đàn lợn của cậu sặc mùi thuốc súng.
Hôm Lân sang xem tướng cho con lợn Bò, con lợn sâu dóm của tôi, anh bảo:
- Con lợn này rồi sẽ có một tương lai rất huy hoàng. Sau vài tháng nữa, anh thử chiêm nghiệm lời nói của tôi xem sao. Bây giờ nó còn nhỏ bé, nhưng nó sẽ có một tiền đồ rất vẻ vang – Lân cười - Đáng lẽ ra, anh phải đặt tên cho nó là "Xe tăng cọp" mới đúng. Cái tên "Bò vét đĩa" của anh nghe sặc mùi dân sự …
Lân chế nước sôi vào ấm trà. Anh rót thứ nước thơm phức, vàng quánh ấy vào chén cho tôi, rồi mời mọc ân cần:
- Uống đi. Uống mừng thắng lợi của tôi. Con "Tên lửa" chỉ trong ba tháng đã tăng từ 25 đến 100 cân. Chưa lứa nào tôi nuôi được con lợn tăng trọng nhanh như thế. Tính ra sau ba tháng, trừ chi phí còn lãi hơn hai nghìn bạc. Có khoái không anh? Tôi đã sắm cho các cháu mỗi đứa một bộ quần áo.
Lợn còn dẫn tôi đến với người bạn thứ hai độc đáo không kém gì Lân. Đó là Tám Bách Khoa. Tám là một giáo viên cấp ba, dạy sinh vật. Anh này nuôi lợn ít thôi, nhưng lại say mê nghiên cứu về lợn. Tám nói với tôi:
- Ở nước ta, hiện nay, ai nuôi lợn là người đáng quí trọng, bởi vì nuôi lợn là một công việc kiếm sống lương thiện nhất. (Ngay cả những ông lớn, dù lợi dụng đặc quyền mua rẻ con giống và thức ăn, thì việc nuôi lợn của họ cũng đáng khuyến khích hơn chuyện ăn cắp trắng trợn hoặc tham nhũng). Anh biết không, ngày xưa, nghề dạy học của tôi vẫn được suy tôn là nghề cao quí nhất, lương thiện nhất, nhưng thực ra ngày nay những điều đó thay đổi rồi. Có lẽ ta phải cần rộng lượng, bởi vì quan niệm của con người về nghề dạy học đã bị thực tế làm biến đổi, bởi vì trí thức đang dần dần biến thành hàng hóa. Người có tri thức cũng giống bà bán thịt, cô bán gạo, chị bán bách hóa. Một bài toán, một ý tưởng cũng giống như một miếng thịt bò, một cân gạo, một chiếc áo. Thịt tăng giá ư? Gạo tăng giá ư? Vải tăng giá ư? Vậy thì một bài toán đại số của tôi, một bài văn mẫu của tôi, một đề luyện thi tủ của tôi cũng phải tăng giá, nếu không, các thầy cô sống bằng gì? Đấy bây giờ người ta lập luận về nghề thầy giáo như vậy đó.
Tôi thầm nghĩ về Tám: "Anh chàng này hơi gàn, nhưng đáng yêu". Lân bảo, hồi còn học sinh Tám rất ít nói, và vẫn bị anh em cho là gàn. Hồi ở chiến trường B, Tám đã bị bom B52 của Mỹ chôn sống, lúc được anh em moi lên, Tám chết luôn cho một ngày một đêm. Vì bận đánh giặc, người ta chưa kịp chôn anh, khi Tám sống lại bò ra giao thông hào tiếp đạn, anh em sợ hãi hét lên tưởng Tám là quỉ nhập tràng. Từ đó Tám ít nói hơn trước và nhiều khi kỳ dị hơn trước. Có người bảo Tám tâm thần, song những hành vi của Tám trong những phút gay cấn nhất ngoài chiến trận lại tỏ ra vô cùng sáng suốt. Và một điều kỳ lạ nữa đã xảy ra khi Tám từ chiến trường trở về trường đại học, luận án "Những cây cỏ có tính kháng sinh ở vùng Trường Sơn" của anh đã được công nhận loại ưu. Và hiện nay, đề tài nghiên cứu khoa học của Tám là cuốn "Bách Khoa Toàn Thư về Lợn". Lân nói với tôi rằng Tám đang định dùng một cách tiếp cận rất mới mẻ đối với đề tài lợn, đó là một cách tiếp cận vừa khoa học vừa văn học. Nói theo ngôn ngữ cửa Tám thì đó là cách tiếp cận nằm trên giao tuyến của hai phương pháp khoa học và văn học. Có ý kiến cho rằng ý nghĩ của Tám là độc đáo, tài năng; nhưng cũng có ý kiến cho rằng Tám là một thằng điên.