Phần kết C

Ngày... tháng...
Thằng Linh ở trường Đại học về. Mỗi tuần lễ thằng bé về nhà một lần. Có mặt nó, căn nhà bỗng sôi nổi hẳn lên. Lại thấy tiếng đàn, tiếng hát. Lại rộ tiếng cười. Lại thấy sự sống nhộn nhịp đánh thức cái mơ màng của căn nhà dưỡng bệnh.
Từ khi tôi khỏi bệnh, hai cha con tôi chưa có nói chuyện với nhau hôm nào. Có thể thằng bé tránh nói chuyện với bố; nó không muốn có một xung đột tư tưởng giữa hai cha con, trong khi tôi còn chưa khỏe hẳn. Tôi phải chủ động gợi chuyện trước. Hai cha con ngồi bên bàn nước trà. Tôi hút điếu thuốc lào rồi hỏi:
- Tháng vừa qua bố ốm gia đình ra sao?
- Chẳng có gì lạ bố ạ.
- Cậu lại né tránh rồi. Xin nói, tớ đã khỏe hẳn rồi. Cậu cứ nói thật. Chẳng ngại gì sức khỏe của bố.
- Bố muốn hỏi con về đàn lợn của bố chứ gì? Bố vẫn chưa hết cơn say mê nuôi lợn ư?
Tôi cũng nói đùa theo:
- Cơn bão trước khi tan, cũng còn dư lại vài cơn gió giật, nữa là cơn lợn... Hãy còn chút dư âm đấy Linh ạ.
Linh cúi đầu nói nhỏ:
- Con giải tán cả đàn. Bố ốm. gia đình túng bấn. Mấy con lợn ỉn chưa hết lớn, phải bán cho người ta nuôi tiếp. Còn con Lợn Bò, hôm nọ con phải giết thịt, bán lấy tiền trả nợ và bồi dưỡng cho bố.
Tôi thở dài:
- Hóa ra công cốc. Tiền lãi chăn lợn chỉ đủ để nuôi tôi ốm. Mẹ con cậu phải khổ sở vì tôi.
- Biết làm sao khác được. Bố nghĩ ngợi mà làm gì. Chỉ cốt bố khỏe hẳn.
- Rồi thì sao nhỉ? Hôm qua tao thấy mẹ con mày thì thầm tính toán tiền nong. Nghe lõm bõm, chỉ riêng cái khoản mua giấy bút cho anh em mày đã lên tới trên trăm đồng.
- Mớ rau muống hôm nay còn giá ba đồng. Cái gì cũng đắt.. Chính vì vậy nên quyết định đi mổ lợn.
- Anh làm đồ tể?
- Vâng, đồ tể.
Tôi đột nhiên im lặng. Con tôi nhìn tôi thăm dò. Nó có vẻ lo lắng nhưng quyết tâm thuyết phục tôi:
- Con sẽ theo chú Hợi làm thêm buổi sáng. Cứ giết mỗi con lợn xong cũng được hai chục bạc. Con đã thử tay nghề lần đầu. Con đã tự tay chọc tiết con Lợn Bò hung dữ, nặng trên một tạ...
Tôi vẫn yên lặng. Trước kia, tôi phản đối đề nghị ấy của Linh; bây giờ tôi cũng không bằng lòng. Song nói thế nào với con tôi nhỉ? Mỗi thế hệ có một cách nghĩ, cách giải quyết riêng của mình. Thằng Linh vẫn kiên quyết trình bày:
- Cả thế giới bao nhiêu là đồ tể...
Tôi lắc đầu:
- Đừng dùng số lượng mà áp đặt với bố...
- Thế giới hiện đại hoang dã, mà cha vẫn khư khư...
- Con tôi cuồng nhiệt quá. Con nên nhớ rằng, một ông thầy tu cuồng nhiệt sẽ biến thành kẻ sát nhân. Bước nhảy đó rất gần.
- Biện luận mà làm gì hở cha. Bởi vì thực tiễn đang cần giải đáp. Mà cha lại không có lời giải đáp...
Tôi lại cúi đầu im lặng. Con tôi đã hiểu cái thâm cùng của vấn đề.
Giải đáp ư? Thực ra, cái bóng mờ gầy guộc của Tám, đầu lắc lư, tay dang rộng, vẫn chỉ là một tra hỏi khôn nguôi.
Nhưng, cái khác là ở chỗ nào nhỉ? Có lẽ ở chỗ: một đằng thì tìm về cội nguồn, còn một đằng thì khát khao cụ thể. Biết nói với con tôi sao bây giơ? Dù sao, những ý nghĩ của tôi vẫn chỉ là những tia sáng mong manh yếu ớt.
Con tôi cầm cây ghi ta. Tiếng đàn không lời. Tiếng đàn nói về những vì sao, những cánh chim, những phẫn nộ và ý chí không biết mệt mỏi. Tiếng đàn cuồng nhiệt rủ ta cùng tham dự. Tham dự một vũ hội cùng với những bước nhảy, những lắc lư làm ta hoa mắt; với hò la làm rung rinh Ngân Hà. Tiếng đàn của Lý Bạch, hay tiếng trống rung của một bộ lạc châu Phi.
Tôi tần ngần:
"Vũ trụ chẳng có đường mòn. Thế kỷ hiện đại hiếm những con đường thẳng. Chỉ thấy những nẻo đường ngoắt ngéo."
Ngày... tháng...
Tôi đi tìm Tám. Tôi dạo bước khắp phố phường Hà Nội. Chân tôi đếm vỉa hè; đầu tôi ngẩng lên nhìn các lùm cây.
Hôm kia, người ta bảo có một người điên, mặc quần áo bộ đội, lưng đeo ba lô, suốt ngày leo cây ở vùng chợ Bưởi. Tôi đến chợ Bưởi, dân chợ bảo rằng đó là anh bộ đội đặc công đã đứng tuổi, chỉ đi tìm những cây cao mà leo trèo. Hình như anh ta đang tìm kiếm một cái gì đó. Khi leo lên ngọn cây, bao giờ anh cũng khum tay, giả làm ống nhòm nhìn ra xa tít. Anh ta hiền lành. Những bà mẹ quê đi chợ rất thương anh, thường mua quà cho anh ăn. Tôi băn khoăn: "Biết tìm anh ở đâu bây giờ?'
Một bà cụ già khôn ngoan bảo:
- Hãy tìm đến những  nơi có cây cao. Anh ta ưa sống trên những cây đại thụ. Tối qua, anh ngủ trên trạc ba cây đa làng Bưởi.
Anh Tám ơi! Hà Nội có  biết bao cây cao.  Lúc này, anh đậu ở cây nào? Trong giấc mơ, anh đi tìm tôi cứu giúp. Lúc tôi tỉnh, sao chẳng thấy anh về? Tôi đã tìm anh trong vườn Bách Thảo, nhưng  chỉ thấy những vòm đại thụ xì xào. Lại đến cả Văn Miếu tìm anh trên những ngọn muỗm già, nhưng chỉ thấy những tán lá xanh câm lặng. Chân tôi bước quanh Hồ Gươm, chợt thấy mình ngớ ngẩn, bởi vì ở đây chỉ nhiều giống thướt tha, những cây Liễu yếu điệu buông tơ, những cây Phượng đỏm đáng thấp tè soài mình soi bóng. Tôi biết anh sẽ không thèm đặt chân leo những cây này. Tại sao anh phải tìm đến những cây cao, bởi vì trên đó anh có thể nhìn rất xa, có thể phát hiện ra những điều anh thấy. Có phải thế không anh?
Tôi đến vườn hoa Pasteur vì nghĩ rằng anh có thể leo trên ngọn những cây cọ châu Phi thẳng tắp. Đến nơi,  bọn trẻ cho tôi biết, anh đang leo trèo trên những ngọn cây sao đen hùng vĩ cao vút trời Lò Đúc.
Tôi mừng vui hối hả đến nơi.
Người lớn, trẻ con xúm đông, đầu ngẩng nhìn anh ở trên ngọn cây cao chót vót. Người ta giải thích, anh bộ đội đặc công điên rồ đang tìm giặc Mỹ.
Tôi như muốn khóc. Chỉ có riêng tôi đã biết rằng họ đã khoét óc anh, đã cướp mất của anh một bộ óc diệu kỳ, và chỉ để lại cho anh một hình hài vượn khỉ. Trên đời này chẳng ai biết điều đó, ngoài tôi.
Tôi gọi to:
- Anh Tám ơi! Anh Tám ơi!
Anh Tám chẳng nghe thấy tiếng tôi, bởi vì tay anh còn khum khum, mắt anh còn tập trung để tìm kiếm. Chiếc kính thần anh còn giữ hay không? Phải chăng anh đang truy lùng? Phải chăng anh đang phát hiện những con Lợn Bò quỉ quyệt? Chúng đông hay ít? Chúng ở đâu? Anh còn thấy chúng ẩn náu trong những túp lều rách nát, hay chúng đã chễm chệ ở những lâu đài tráng lệ?
Tôi lại kêu to:
- Anh Tám ơi! Anh Tám ơi!
Có lẽ anh đã nghe thấy tiếng gọi; nhưng anh khoát tay ra hiệu "im đi". Có lẽ, anh đã tìm ra được một điều gì. Anh hô to:
- Đồng bào chú ý!
Rồi anh rướn đầu lên để nhìn cho rõ. Sau đó, anh lại hô to:
- Bọn chúng đã đến. Đồng bào nằm xuống!
Một người nói vào tai tôi:
- Anh ấy đã phát hiện ra giặc.
Nhưng tai tôi ù đi, bởi vì anh hô xung phong, rồi anh vung tay làm động tác ném lựu đạn. Sau đó, anh nhảy ào lên phía trước...
Mọi người đều thét lên thất thanh, nhìn bóng Tám đang bơi trong không gian.
Anh Tám đã ngã soài trên mặt đường, hai tay dang rộng. Tôi xô lại, quỳ xuống, ôm lấy anh.
- Tám ơi! Tám ơi!
Tám im lìm, máu trào bên mép. Nước mắt ròng ròng, tôi lay gọi:
- Tám ơi! Tỉnh lại đi... Hoàng đây... Hoàng đến với anh đây... có nghe thấy không?
Đôi mắt Tám cố hé ra. Đôi mắt ấy đã nhận ra tôi. Miệng Tám lẩm bẩm một điều gì rất nhỏ. Người xung quanh chẳng ai hiểu cả. Nhưng riêng tôi, chỉ nhìn những chuyển động của môi anh, tôi hiểu Tám muốn trăn trối cái điều đã bao lâu làm trái tim anh thao thức, phập phồng, khắc khoải:
Poóc xi nô ma ni!
Poóc xi nô ma ni!
Poóc xi nô ma ni!
1981 - 1982, Hà Nội
 
Hết

Xem Tiếp: ----