Vì dựa vào người nhiều thế mạnh, và Giả Thụy bắt phải tạ lỗi, nên Kim Vinh đành phải lạy tạ Tần Chung, bấy giờ Bảo Ngọc mới chịu thôi, không sinh chuyện nữa. Tan học, Kim Vinh về nhà, càng nghĩ càng tức, lẩm bẩm: “Tần Chung chỉ là em vợ Giả Dung, không phải là con cháu họ Giả, cũng đi học như ta thôi. Chỉ vì nó thân với Bảo Ngọc, nên coi người bằng nửa con mắt. Nếu nó ăn ở đứng đắn thì chẳng nói làm gì, nhưng thường ngày nó lại thậm thậm thụt thụt với Bảo Ngọc, coi như ai cũng mù cả, không trông thấy gì. Nay nó lại đi chằng với đứa khác, chọc vào mắt ta. Dù có gây chuyện, ta lại sợ gì?”Mẹ Kim Vinh là họ Hồ, nghe con cảu nhảu một mình, bảo:- Mày lại định sinh sự gì đấy? Tao phải nói khó mãi với cô mày, cô mày lại tìm hết cách để nói với mợ Liễn bên phủ Tây, mày mới có chỗ học. Nếu không nhờ người ta, thì nhà mình sức đâu mời được thầy? Vả chăng, ở bên ấy cơm nước có sẵn, hai năm nay mày được học ở đấy, tao đỡ bao nhiêu tiền. Số tiền bớt ra ấy, tao may thêm quần áo đẹp cho mày. Nếu mày không học ở bên ấy, thì biết thế nào được cậu Tiết, mỗi năm được cậu ấy giúp nhà mình tới bảy tám mươi lạng bạc? Nay mày lại muốn sinh sự thì liệu mày có tìm được chỗ nào học tốt như thế không? Tao bảo cho mà biết, việc ấy khó hơn lên trời đấy! Mày muốn tốt thì đi ngủ ngay đi cho xong chuyện!Bấy giờ Kim Vinh mới chịu im, không nói nữa. Một lúc ngủ yên. Hôm sau lại đi học như thường.Cô của Kim Vinh là vợ Giả Hoàng. Giả Hoàng thuộc dòng chữ “ngọc” trong chi trưởng họ Giả. Nhưng có phải cả họ nhà nào cũng được thịnh vượng như phủ Ninh, phủ Vinh đâu? Điều đó chẳng cần phải nói. Vợ chồng Giả Hoàng có một cơ nghiệp nho nhỏ thường hay đến thăm phủ Ninh và phủ Vinh, lại khéo chiều chuộng Phượng Thư và Vưu thị, được họ giúp đỡ, mới có thể sinh sống qua ngày. Hôm ấy trời tạnh ráo, rỗi việc, vợ Giả Hoàng mang theo một bà già, thuê xe về thăm chị dâu và cháu.Trong khi nói chuyện, mẹ Kim Vinh đem việc hôm qua xảy ra ở trường học, từ đầu đến đuôi, kể cho vợ Giả Hoàng nghe. Vợ Giả Hoàng điên tiết nói:- Thằng nhãi Tần Chung kia là bà con với họ Giả, thì thằng Vinh này không phải là họ hàng với họ Giả hay sao? Nó cậy thế vừa chứ? Vả lại việc làm của nó có đẹp đẽ gì cho cam! Ngay đến Bảo Ngọc cũng không có phép như thế. Để tôi sang phủ Đông nói chuyện với chị Trân và chị thằng Tần Chung, xem họ phân giải ra sao?Mẹ Kim Vinh nghe nói hoảng lên, vội vàng ngăn lại:- Tôi buột miệng nói chuyện với cô đấy thôi, cô đừng sang kể với người ta nữa. Phải trái thây kệ chúng nó. Nếu xảy ra chuyện gì thì cháu nó còn ở yên bên ấy sao được? Sức nhà thì không những không mời được thầy, mà cả đến tiền ăn uống chi dùng cho nó cũng tốn kém nhiều.Vợ Giả Hoàng nói:- Việc ấy không ngại. Để tôi sang nói xem sao.Không nghe lời chị dâu, vợ Giả Hoàng cứ sai bà già gọi xe sang phủ Ninh. Đến nơi, xuống xe trước cửa nách phía đông, vào gặp ngay Vưu thị. Bấy giờ, vợ Giả Hoàng chưa dám tuôn nỗi bực dọc, chỉ vồn vã thăm hỏi, nói mấy câu chuyện phiếm rồi hỏi:- Hôm nay sao không thấy mợ Dung?Vưu thị nói:- Không biết cháu nó ra làm sao, mà hai tháng nay không thấy kinh. Mời ông lang đến xem, lại bảo không phải là có tin mừng. Hai hôm nay, nó cứ đến chiều là người mệt, mắt hoa, chuyện cũng không buồn nói, tôi bảo cháu: “Không nên giữ lễ lắm, sớm tối không cần theo lệ đến thăm nom, phải tĩnh dưỡng mới được. Họ hàng đến, đã có tôi; nếu các bậc bề trên có chê trách điều gì tôi sẽ nói hộ”. Tôi dặn cả cháu Dung: “Không được quấy rầy nó. Không được làm nó tức giận, để nó tĩnh dưỡng ít lâu cho khỏe. Nó cần gì thì cứ đến đây mà lấy, nếu chẳng may có mệnh hệ nào mày phải lấy vợ khác, ta chắc rằng có đốt đuốc đi lùng khắp thiên hạ cũng chẳng tìm đâu ra được người nết na như thế. Các bậc trên trong họ không ai là không yêu quý cách cư xử của nó”. Vì nó mà bấy lâu nay tôi cứ lo lắng không yên. Không ngờ sáng nay, em trai nó đến thăm, tính còn trẻ con, chưa biết cân nhắc hay dở, thấy chị ốm, đáng lẽ có việc gì tức bực đến đâu cũng không nên nói mới phải. Thế mà nó kể hết cả những chuyện đánh nhau ở trường, chẳng biết đứa nào đến học nhờ mà dám bắt nạt nó, và nói cho chị nó nghe cả những câu chuyện bậy bạ. Thím ơi, chắc thím cũng biết con dâu tôi bề ngoài thì nói cười vui vẻ lắm, nhưng trong bụng hay suy nghĩ, hễ nghe thấy ai nói cái gì, nó cũng đắn đo đến năm ba ngày mới thôi. Bệnh này là do nó nghĩ nhiều quá mà sinh ra. Nay nghe nói có người khinh rẻ em nó, nó vừa buồn vừa tức; buồn vì bọn vô lại gây bè kéo cánh, ăn không nói có, đâm người nọ chọc người kia; tức vì em mình hư hỏng không chịu học, không chuyên tâm sách vở, lại làm ồn cả trường. Vì thế, nó bỏ cả bữa cơm sáng. Tôi khuyên giải một hồi, lại dặn dò em nó mấy câu, bảo hãy sang chơi với Bảo Ngọc ở phủ bên kia. Tôi lại trông cho nó ăn hết nửa bát yến sào rồi mới về đây. Thím tính thế có sốt ruột không? Lại thêm bây giờ không có thầy thuốc nào hay. Nghĩ đến bệnh nó lúc nào, là ruột tôi đau như kim châm. Thím có biết ai chữa thuốc giỏi không?Kim thị nghe vậy, bao nhiêu cơn tức giận ở nhà muốn đến cãi nhau ngay với Tần thị đều bay đến tận nước Trảo Oa(1) hết cả. Lại nghe thấy Vưu thị hỏi thầy thuốc hay, liền trả lời:- Tôi không quen thầy thuốc nào, cứ bệnh tình mợ Cả như vậy, chắc đâu không phải là có mang? Chị đừng nên cho chữa bậy kẻo oan gia đấy!Vưu thị nói:- Đúng thế.Hai người đương nói chuyg quét dọn nhà cửa. Xạ Nguyệt tỉnh dậy. liền hỏi: - Sao chị dậy sớm thế? Chả nhẽ cả đêm chị không ngủ hay sao? Con Năm nghe câu ấy. hình như Xạ Nguyệt đã biết, nên chỉ ngượng ngùng cười gượng, không nói gì cả. Một lúc Bảo Thoa và Tập Nhân đều dậy. Hai người mở cửa ra, thấy Bảo Ngọc đang ngủ, trong bụng cũng bực. Nghĩ sao anh ta ngủ ngoài hai đêm lại yên giấc như thế? Đến khi Bảo Ngọc tỉnh giấc, thấy mọi người đều dậy, vội vàng bò dậy, dụi mắt, nghĩ lại thì đêm qua cũng không hề thấy chiêm bao gì cả, thật là trời tiên cõi tục cách nhau xa vời! Rồi anh ta thong thả bước xuống giường. Nhớ đến câu nói của con Nam đêm qua: “Bảo Thoa và Tập Nhân đều đẹp như tiên”, câu nói ấy thật không sai. Anh ta cười, nhìn Bảo Thoa chằm chằm. Bảo Thoa thấy anh ta có vẻ ngơ ngác, tuy biết là vì việc Đại Ngọc, nhưng cũng không đoán ra là có chiêm bao hay không? Chỉ thấy anh ta cứ nhìn mình lấy làm khó coi, liền hỏi: - Đêm qua, cậu có gặp tiên không? Bảo Ngọc nghe nói, cho rằng câu chuyện đêm qua bị Bảo Thoa nghe được, bèn cười và miễn cưỡng trả lời: - Làm gì có chuyện ấy? Con Năm nghe câu ấy thì động lòng, càng hối hận, cũng không tiện nói gì, đành chờ xem Bảo Thoa có tỏ vẻ gì không? Bỗng thấy Bảo Thoa cười và hỏi con Năm. - Chị có nghe cậu Hai trong khi ngủ nói chuyện với ai không? Bảo Ngọc nghe nói, không thể ngồi yên, ngượng ngùng ra khỏi phòng. Con Năm má ửng đỏ, đành phải trả lời một cách bâng quơ: - Vào khoảng nửa đêm, cậu Hai có nói mấy câu, tôi cũng không nghe rõ, nào là “mang tiếng hão”. nào là “làm thật sự” gì đó tôi cũng không hiểu, chỉ khuyên cậu Hai nên ngủ đi. Sau đó, tôi ngủ rồi, không biết cậu Hai có nói gì không? Bảo Thoa cúi đầu nghĩ ngợi: “Những câu ấy rõ ràng là vì Đại Ngọc, nếu cứ để cho cậu ta ngủ ở ngoài mãi, vốn sẵn lòng tà, sợ lại vướng lấy chuyện yêu ma. Vả lại, bệnh cũ của cậu ta, vốn là vì nặng tình với chị em. Vậy phải có cách làm cho cậu ta xoay lòng chuyển dạ, thì sau này mới khỏi sinh chuyện”. Nghĩ đến đó. chị ta đỏ mặt, liền thờ thẫn vào phòng, chải đầu rửa mặt. Hai ngày vừa rồi, Giả mẫu vì cao hứng ăn hơi nhiều, chiều hôm ấy trong người thấy khó ở; hôm thứ hai cảm thấy đầy bụng. Bọn Uyên ương định thưa với Giả Chính, nhưng Giả mẫu không cho, và nói: - Hai hôm nay ta tham ăn nhiều quá, nhịn đói một bữa thì khỏi chúng bay đừng làm ồn lên. Bọn Uyên ương cũng không nói với ai. Chiều hôm đó, Bảo Ngọc về phòng, thấy Bảo Thoa đi hỏi thăm sức khỏe của Giả mẫu và Vương phu nhân cũng vừa về. Bảo Ngọc nghĩ đến việc ban đêm, nên lúc sáng dậy, có vẻ hổ thẹn. Bảo Thoa thấy bộ dạng như thế cũng biết là anh ta bẽ bàng vì việc gì. Bảo Thoa lại nghĩ Bảo Ngọc là người si tình, muốn trị bệnh ấy, không gì hơn lại lấy si tình mà trị. Nghĩ ngợi một lúc rồi chị ta hỏi Bảo Ngọc: - Cậu hôm nay vẫn ngủ ở ngoài chứ? Bảo Ngọc cảm thấy khó coi, liền nói: - Trong ngoài gì thì cũng thế. Bảo Thoa ý muốn nói nữa, nhưng nói ra không tiện. Tập Nhân nói: - Thôi đi, thế là nghĩa lý gì? Tôi không tin cậu ngủ yên giấc như thế! Con Năm nghe nói liền đỡ lời: - Cậu Hai ngủ ở ngoài cũng chẳng có việc gì khác, chỉ hay nói mơ làm cho người ta không hiểu đầu đuôi gì, lại không dám cãi lại. Tập Nhân liền nói: - Để đêm nay tôi dời ra nằm giường ấy, xem có nói mơ hay không. Các chị cứ đem chăn nệm của cậu trải vào nhà trong là được Bảo Thoa nghe nói cũng không lên tiếng. Về phần Bảo Ngọc thì đã xấu hổ, còn đâu dám cãi lại, nên liền thuận cho dọn vào trong nhà. Bảo Ngọc tự thấy mình có lỗi, muốn yên ủi Bảo Thoa. Bảo Thoa lại sợ Bảo Ngọc uất ức thành bệnh. chi bằng tỏ ra tình âu yếm cho anh ta được gần gũi để làm cái kế “dời hoa nọ chắp cành kia “. Do đó, đêm ấy Tập Nhân dời ra ngoài nằm. Bảo Ngọc cố nhiên trong lòng ăn năn hổ thẹn, Bảo Thoa cũng muốn lung lạc Bảo Ngọc. Từ khi làm lễ cưới đến nay mới thật là mây mưa tình đượm, ân ái triền miên, khí âm dương bắt đầu kết hợp lại (I) Đó là câu chuyện sau này. Sáng hôm sau, Bảo Ngọc và Bảo Thoa cùng thức dậy. Bảo Ngọc chải đầu rửa mặt rồi qua nhà Giả mẫu trước. Giả mẫu vì thương yêu Bảo Ngọc, lại thấy Bảo Thoa hiếu thuận, chợt nhớ đến một vật, liền bảo Uyên ương mở rương lấy ra một viên ngọc đời ông cụ để lại. Tuy nó không bằng viên ngọc của Bảo Ngọc, nhưng nếu đeo trên mình thì cũng là vật hiếm có. Uyên ương tìm viên ngọc ra đưa cho Giả mẫu và nói: - Vật này hình như cháu chưa bao giờ trông thấy. Đã bao nhiêu năm rồi mà cụ còn nhớ được như thế, bảo để ở hộp nào trong rương nào. Cháu theo lời cụ mà tìm là thấy ngay. Bây giờ cụ bảo lấy ra làm gì? Giả mẫu nói: - Mày biết sao được. Viên ngọc này nguyên là cố của ta cho ông ta. Khi ta xuất giá, ông ta thương ta liền gọi đến trao tận tay cho ta và nói: “Viên ngọc này là người đời Hán đeo, rất quý giá. Cháu cầm lấy cũng như là trông thấy ta “. Lúc đó, ta còn nhỏ, cầm lấy ngọc cũng chẳng cho ra gì, liền vứt vào trong rương. Khi ề đây ta thấy đồ vật của nhà mình cũng nhiều. viên ngọc ấy cũng chẳng đáng gì. nên ta không bao giờ đeo. vứt vào rương, đến nay đã hơn 60 năm. Bây giờ thấy cháu Bảo hiếu thuận với ta như thế mà lại mất viên ngọc, ta sực nhớ lại mới lấy ra để cho nó, cũng giống như ông cố ta cho ta ngày trước. Một lúc sau. Bảo Ngọc tới hỏi thăm sức khỏe. Giả mẫu liền vui mừng nói: - Cháu lại đây, bà cho xem cái này. Bảo Ngọc đi tới trước giường. Giả mẫu liền cầm viên ngọc ấy trao cho anh ta. Bảo Ngọc đi lấy xem thì thấy viên ngọc ấy to chừng ba tấc, hình như quả dưa, màu sắc đỏ sẫm, rất là tươi. Bảo Ngọc tấm tắc ngợi khen. Giả mẫu nói: - Cháu thích à? Đó là ông ta cho ta. nay ta giao lại cho cháu đấy. Bảo Ngọc cười rồi lạy tạ, lại định đem cho mẹ anh ta xem. Giả mẫu nói: - Mẹ cháu xem sẽ nói với cha cháu rồi lại bảo là ta yêu cháu hơn yêu con. Vì xưa nay chưa hề ai trông thấy của này. Bảo Ngọc cười rồi đi ra. Bọn Bảo Thoa cũng nói mấy câu rồi cáo từ ra về. Từ đó. Giả mẫu luôn hai ngày không ăn uống, lại thêm nhức đầu chóng mặt và ho. Hình phu nhân,Vương phu nhân và Phượng Thư đến hỏi thăm sức khỏe, thấy tinh thần Giả mẫu vẫn khá, nên chỉ cho người nói với Giả Chính. Giả Chính lập tức vào hỏi thăm. rồi ra mời thầy thuốc đến xem mạch. Một chốc, thầy thuốc đến xem xong. Nói là người già, ăn uống bị ngừng trệ, và bị cảm hàn, chỉ uống tiêu dao và phát tán một chút là khỏi. Thầy thuốc kê đơn. Giả Chính xem, biết là những vị thuốc thường, liền sai người sắc cho Giả mẫu uống. Sau đó. sớm chiều nào Giả Chính cũng vào thăm. Uống luôn ba ngày. chẳng thấy bệnh bớt chút nào. Giả Chính lại sai Giả Liễn đi tìm thầy thuốc giỏi và nói: - Cháu mau đi tìm thầy thuốc giỏi đến xem bệnh cho bà. Mấy ông thầy nhà mình hay mời. ta thấy chẳng ra sao cả. Bây giờ cháu đi tìm thầy khác. Giả Liễn nghĩ ngợi một lát rồi nói: - Cháu còn nhớ lúc em Bảo ốm, có mời một người không làm nghề thuốc mà chữa khỏi. Chi bằng bây giờ đi tìm thầy ấy. Giả Chính nói: - Nghề thuốc rất khó, càng là ông thầy không đông khách lại càng eo tài. Cháu cứ cho người đi mời ngay. Giả Liễn vâng lời. vội vàng đi. Một lúc trở về nói: - Thầy Lưu gần đây ra ngoài thành dạy học. Chừng hơn mười ngày mới về một lần. Bây giờ chờ không được. đã mời một thầy khác, cũng sắp đến đấy. Giả Chính nghe nó, đành phải chờ. Từ khi Giả mẫu ốm, tất cả đàn bà con gái trong nhà ngày nào cũng đến hỏi thăm. Một hôm, mọi người đều đang ở đấy thì thấy bà già coi cửa nách trong vườn vào nói: - CÔ Diệu Ngọc ở am Lũng Thúy trong vườn nghe cụ bà ốm nên đến hỏi thăm. Mọi người nói: - CÔ ta không hay đến, hôm nay tới đây, các người mau mau ra mời vào. Phượng Thư đến bên giường thưa lại với Giả mẫu. Tụ Yên là người bạn quen cũ của Diệu Ngọc nên ra đón trước. Thấy Diệu Ngọc đầu đội mũ Diệu Thường ( 1 ), mình mặc áo trừu màu nguyệt bạch, bên ngoài khoác áo cà sa dài bằng đoạn xanh viền biên, lưng thắt dây tơ màu thu hương. bên dưới mặc cái quần là trong, có vẽ màu mực nhạt, tay cầm chuỗi tràng hạt. CÔ ta thướt tha đi đến, theo sau là một người hầu gái. Tụ Yên chào hỏi và nói: - Lúc ở bên vườn, tôi đến thăm cô luôn. Gần đây trong vườn ít người, một mình khó đi. Cái cửa nách đấy lại thường đóng, nên mấy lâu nay không được gặp cô. Hôm nay được gặp thật là may mắn. Diệu Ngọc nói: - Trước kia các chị là người sống trong cảnh náo nhiệt. nên tuy ở vườn ngoài tôi cũng không tiện qua lại. Nay nghe nói việc nhà ở đây không được tốt, cụ bà lại ốm. Một phần cũng nhớ chị và luôn tiện đến thăm cô Bảo. Tôi có kể gì cửa các người đóng hay không. Tôi muốn đến thì đến, tôi không muốn đến thì mặc ai muốn cho tôi đến cũng vô ích. Tụ Yên cười nói: - Cô vẫn giữ cái tính khí ấy? Hai người vừa đi vừa nói chuyện, đã đến phòng Giả mẫu. Mọi người thấy cô ta, đều chào hỏi. Diệu ngọc đến trước giường Giả mẫu, hỏi thăm và nói mấy câu chuyện suông. Giả mẫu liền nói: - Cô là một nữ bồ tát. CÔ xem bệnh tôi có khỏe được hay không Diệu Ngọc nói: - Người từ thiện như cụ bà, tuổi thọ còn nhiều. Chẳng qua bị cảm trong chốc lát. Uống mấy liều thuốc chắc sẽ khỏi. Người có tuổi không nên quá lo nghĩ. Giả mẫu nói: - Tôi không phải vì thế mà sinh ốm đâu. Tôi là người rất ưa vui. Giờ đây bệnh cũng chẳng sao. Có điều trong bụng cứ đầy tức khó chịu. Vừa rồi. ông thầy thuốc nói vì tức giận sinh bệnh. Cô cũng biết đấy. ai dám làm cho tôi giận? Có phải là cách xem mạch của ông ta kém không? Tôi đã nói với cháu Liễn. chỉ có ông thầy trước kia nói bị cảm mạo và ăn không tiêu là đúng hơn. Ngày mai cứ mời thầy ấy đến. Giả mẫu nói đến đó. lại bảo Uyên ương: - Mày dặn nhà bếp làm một mâm cơm chay cho tinh khiết mời sư phụ ở đây xơi cơm. Diệu Ngọc nói: - Tôi đã ăn cơm trưa rồi. tôi không ăn gì đâu. Vương phu nhân nói: - CÔ không ăn cũng được, chúng ta ngồi rốn một chốc nói chuyện phiếm cho vui. Diệu Ngọc nói: - Đã lâu tôi không gặp các vị cho nên hôm nay đến thăm một chút. CÔ ta lại nói chuyện một hồi nữa định về, chợt thấy Tích Xuân đứng đấy, liền hỏi: - Cô Tư sao mà gầy gò thế? Đừng có ham vẽ quá mà mệt. Tích Xuân nói: - Đã lâu nay tôi không vẽ nữa. Cái phòng ở bây giờ không còn sáng láng như hồi ở trong vườn, nên không còn hứng thú gì mà vẽ. - Bây giờ cô ở đâu? - Chính là ngôi nhà ở cái cửa phía đông mà cô vừa đi qua đấy. Cô muốn đến chơi cũng rất gần. - Lúc nào thích. tôi sẽ đến thăm. Bọn Tích Xuân tiễn Diệu Ngọc đi ra, vừa quay trở về. Bỗng ngậu quyết định.Giả Dung nói:- Tiên sinh thực là bực cao minh, tiếc không được gặp sớm. Bây giờ nhờ tiên sinh xem mạch cho, chữa được hay không xin cho biết, để cha mẹ tôi được yên lòng.Bấy giờ bọn a hoàn mang gối đến, để Tần thị ngồi dựa vào đó rồi vén áo lên, thò tay ra ngoài cho ông lang bắt mạch. Ông lang tự mình thở đều để nhận rõ số chí(4).Xem tay phải một lúc, rồi bắt sang tay trái. Xem xong rồi nói: “Chúng ta ra ngoài”.Giả Dung cùng ông lang ra nhà ngoài ngồi. Người hầu pha nước bưng lên, Giả Dung nói:- Mời tiên sinh xơi nước. - Sau đó bèn hỏi: - Tiên sinh xem bệnh này có chữa được không?Ông lang nói: - Mạch “Thốn” bên tả thì trầm sác, “Quan” bên tả thì trầm phục; “Thốn” bên hữu thì tế mà vô lực, “Quan” bên hữu thì hư mà vô thần. “Tả Thốn” trầm sác là tâm khí hư mà sinh hỏa; “Tả Quan” trầm phục là can khí trệ mà huyết khuy. “Hữu thốn” tế mà vô lực, là khí phận ở phế kinh rất hư; “Hữu Quan” hư mà vô thần, là tỳ thổ bị can mộc khắc chế. Tâm khí hư mà sinh hỏa, tất sinh ra chứng kinh nguyệt không đều, đêm không ngủ được. Can mà huyết khuy khí tuệ, thì dưới mạng mỡ đau mà phát trướng, nguyệt tín đến chậm trong bụng phát nóng. Khí phận ở phế kinh mà hư, thì đầu nặng mắt hoa, giờ dần, giờ mão thế nào cũng ra mồ hôi, choáng váng như ngồi trong thuyền; Tù thổ mà bị can mộc khắc chế thì không muốn ăn uống, tinh thần mỏi mệt, chân tay buồn bực. Theo tôi, mạch này phải có chứng bệnh như thế mới đúng. Nếu bảo có tin mừng, thì tiểu đệ không dám nghe theo(5).Một bà già hầu ở bên cạnh nói:- Tiên sinh nói như thần vậy. Điều gì cũng đúng. Tôi không cần phải kể thêm nữa. Mấy ông lang nhà này đến xem mạch, không ai nói được đúng như thế; người nói không quan hệ gì; người thì bảo đến tiết đông chí là đáng lo. Nhưng không ai nói được đúng như thế, mong tiên sinh chỉ bảo rõ cho.Ông lang nói:- Chứng bệnh của tôn phu nhân nhà ta mà đến nỗi này là bởi các thầy để chậm quá! Nếu chữa ngay lúc mới hành kinh không đều, có lẽ bây giờ đã khỏi rồi chả còn phải lo nữa. Cứ như tôi xem, thì bệnh còn ba phần có thể chữa được. Dùng đơn thuốc của tôi, uống vào mà ngủ được, sẽ chắc thêm vài phần nữa. Mạch này phải là người tâm tính cao cường, thông minh tột bực; nhưng thông minh quá thường có việc không như ý, đã có nhiều việc không như ý, thì phải tư lự quá độ. Bệnh này là do lo nghĩ, thành ra hại tỳ, can mộc vượng quá, nên kinh nguyệt đến không đúng kỳ. Tôi xin hỏi: Tôn phu nhân nhà ta ít lâu nay, kinh kỳ không ngắn quá, mà lại dài quá, có phải không?Bà già nói:- Kinh kỳ không bao giờ ngắn cả. Có khi kéo đến hai ba ngày, hoặc đến mười ngày.Ông lang nói:- Phải rồi! Chính là gốc bệnh ở đấy. Nếu ngay từ đầu mà cho uống thuốc dưỡng tâm điều kinh, thì đâu đến nỗi này! Bây giờ rõ là bệnh thủy khuy hỏa vượng. Hãy uống thử thang thuốc này xem sao. Rồi ông ta kê đơn đưa cho Giả Dung.Ích khí dưỡng vinh bổ tỳ hòa can thang:Nhân sâm hai đồng; bạch truật hai đồng; (thổ sao); Vân linh ba đồng; Thục địa bốn đồng; Qui thân hai đồng; bạch thược hai đồng; Xuyên khung một đồng năm phân; Hoàng kỳ ba đồng; Hương phụ mễ hai đồng; Thổ sài hồ tám phân; hoài sơn dược hai đồng (sao); Chân a dao hai đồng (cáp phấn sao); Diên hồ sách một đồng rưỡi (sao rượu); Chích thảo tám phân.Thuốc dẫn dùng: Kiện liên tử, tám hột, bỏ ruột; Đại táo hai quả.Giả Dung xem xong nói:- Tiên sinh thực là bậc cao minh. Xin cho biết bệnh này có đáng lo ngại không?Ông lang cười:- Cậu rất sáng suốt, bệnh đến thế này, cũng đã quá lâu rồi. Uống thuốc này vào còn nhờ ở “Mát tay” nữa. Theo tiểu đệ, mùa đông năm nay chưa việc gì đâu. Qua tiết xuân phân, mới có thể mong khỏi hẳn được.Giả Dung là người thông minh, cũng không hỏi thêm nữa.Tiễn ông lang về rồi, Giả Dung đưa đơn thuốc, mạch án và kể lại nhưng lời ông lang vừa nói cho Giả Trân và Vưu thị nghe. Vưu thị nói:- Xưa nay các ông lang đều không ai nói được rành mạch như thế, chắc ông ấy dùng thuốc không lầm.Giả Trân cười nói:- Ông ta không phải là hạng “Lang thang” kiếm ăn về nghề thuốc. Vì nhà ta chơi thân với ông Phùng Tử Anh, mới mời được ông ấy, chứ có dễ dàng đâu. Nhờ có ông ta, may ra con dâu ta khỏi bệnh. Trong đơn thuốc có kê nhân sâm, hôm nọ nhà đã mua sẵn một cân, đem ra mà dùng.Giả Dung nghe nói, mới cho người đi bốc thuốc sắc cho Tần thị uống, chưa biết bệnh tình sau này ra sao.-------------------------(1). Tên một hải đảo ở ngoài Thái Bình Dương, người ta cho là Java ngày nay. Ở đây ý nói cơn giận tan hết.(2). Một thứ văn khuyên người làm phúc.(3). Theo tục lệ cổ, người dưới nhận lời mời của người trên, nếu có danh thiếp mời thì trả lại; tức là tỏ ý khiêm tốn, không dám tự coi là ngang hàng.(4). Chí: Theo phép xem mạch của đông y: mạch trung bình là một hơi thở, mạch mổ bốn cái, không đủ bốn cái gọi là trì, quá bốn cái gọi là sác. Vậy số chí là số mổ nhiều hay ít của mạch trong một hơi thở.(5). Đây là những danh từ về mạch lý và y lý của đông y.