Ái tình là phần quá lớn trong cuộc đời Phương. Dạo còn sinh viên tình cờ Phương được diện kiến Nguyên Hy, nhà văn của quần chúng và dư luận. Nguyên Hy bảo: "Chú em còn trẻ lắm. Cách duy nhất để sống và trưởng thành là yêu, yêu và yêu. Mỗi người đàn bà là một trường học. Khi chú yêu đến người thứ 100, chú sẽ hiểu đời là cái quái gì ngay thôi mà". Nói xong văn sĩ kéo hơi thuốc lào thật sâu rồi khoan khoái phun khói lên trời. Bao nhiêu kính trọng Phương dành cho tác giả những truyện ngắn thời thượng bỗng trút hết vào lời rủa thầm: "Đồ hèn! Đồ trác táng!". Vậy mà câu nói của Nguyên Hy cứ đeo đẳng Phương suốt năm tháng sau đó, như ám ảnh ti tiện và đáng khinh bỉ nhất. Éo le, nhiều ý nghĩa lớn lao Phương thu lượm được đều lấp lánh dáng dấp của một người con gái. Chính từ khúc quanh của nhiều mối tình anh bị đẩy đến cánh cổng mới dẫn vào miền suy tư ngổn ngang day dứt. Vượt lên thất vọng và chán chường, kỳ lạ thay bao sắc màu huyền bí. Nó áp đặt, định giá muôn mặt cuộc sống trong cái nhìn luôn thoang thoảng hương hồng hoa. Có lẽ tình yêu chính là toán học nhân văn. Người ta học cách sống, cách tận hưởng lạc thú và cả cách hủy hoại thời gian trên lối mòn, nơi từng in dấu chân thần tình ái. Phương tiếp xúc khái niệm giới tính rất sớm, khi cậu mới hơn bốn tuổi. Chẳng biết mấy ngày hè oi ả ấy bà ngoại bận đi đâu nên gởi Phương qua nhà hàng xóm. Cậu ngủ chung với cô Ngân, người phụ nữ nông thôn ngoài hai mươi chưa con cái. Chồng cô đang ở Trường Sơn. Không hiểu vì lý do gì sáng nọ Phương tỉnh giấc rất sớm. Ánh ngày hãy còn mờ nhạt và xam xám như hình ảnh của vạn vật hiện lên trong trí tưởng tượng của con người. Phương trở mình. Và cậu phát hoảng. Có lẽ trời quá nóng nên cô Ngân khỏa thân ngủ. Cơ thể Phương tê cứng cảm giác sợ hãi nhưng ít nhiều lạ lẫm. Cô nằm nghiêng, hướng ra nguồn sáng ngoài cửa sổ. Hai cánh tay tròn lẳn khoanh hờ trước ngực. Phương bất động trong lo lắng. Thật lạ! Đứa trẻ bốn tuổi chắc chắn không thể biết cơ thể phụ nữ trước mắt mình đẹp hay xấu. Mặc cảm tội lỗi rất thật dù thằng bé chỉ vô tình. Sau cùng Phương cũng tìm được sự tĩnh tâm trong giấc ngủ nối với ý nghĩ vẩn vơ "Còn lâu mình mới thành người lớn!". Sáu tuổi Phương vào lớp một. Ngồi cạnh cậu là cô bé rất xinh mang tên loài chim biển. Cậu thể hiện tình cảm bằng hành động hết sức ngờ nghệch: chối bỏ cái tên cha mẹ đặt cho. Cậu tìm nhiều lời lẽ ngây thơ thuyết phục thầy giáo viết lại tên cậu trong sổ điểm là Hải Âu! Phương chỉ nhớ bấy nhiêu, nếu không kể thêm lần kia tan học sớm. Cậu rủ vài nhóc bạn tha thẩn trong sân trường cố đợi Hải Âu về trước. Rồi cả bọn kéo nhau đến ngõ nhỏ quạnh hiu cuối phố chợ réo ầm tên Hải Âu lên. Chẳng thấy cô bé đón khách. Một người đàn bà trung niên dữ dằn bước ra xua đuổi những đứa phá bĩnh. Cả bọn hoảng hồn tháo chạy. Năm Phương học lớp sáu, cậu mới dành sự mến mộ thực sự cho người bạn gái chung lớp. Nhi là con lai, tóc vàng, mắt xanh. Cậu rất mãn nguyện khi nghe chúng bạn xướng tên ghép đôi, còn Nhi luôn tỏ vẻ khó chịu. Tuy vậy không hiếm lúc họ bắt gặp sự thánh thiện hồn nhiên trong mắt nhau. Hai năm sau Nhi đi Mỹ theo chương trình đoàn tụ nhân đạo. Lớp học lưu luyến tiễn cô học trò giỏi bằng buổi xem phim trong rạp Đại Nam tăm tối mốc meo. Kẻ khéo trêu ghẹo xếp Phương ngồi cạnh Nhi. Họ không dám nói với nhau nửa lời. Khi bọc kẹo đường rẻ tiền được chuyền tới, Phương vội đưa cho Nhi. Hình như cậu đã hít thở thật sâu trước khi liều lĩnh nắm tay bạn. Vệt sáng vô tình từ màn ảnh tặng Phương ánh mắt câm lặng nồng ấm nhưng hết sức bối rối. Phương cất chiếc kẹo Nhi bỏ vào túi áo cậu như bảo vật hơn năm năm. Viên kẹo không thể tồn tại lâu hơn. Nhưng ánh mắt nọ nghiễm nhiên trở thành hình ảnh đẹp đẽ nhất được đặt trân trọng trong ký ức luôn chuyển dịch và dễ phủ bụi lãng quên của Phương. Mối tình đầu của Phương là Thủy. Thủy hoàn toàn có thật nhưng Phương luôn nghi ngờ tính chân xác của trí nhớ. Các tiểu tiết trải dọc năm năm bản lề của tuổi hai mươi, chồng chéo, lẫn lộn quá nhiều biến động và hoang tưởng. Cuối cùng Phương cũng gặp dịp kiểm chứng tất cả trên nẻo đường Sài Gòn xưa cũ trong một đêm lang thang vô định. Càng khuya, những con phố càng vắng vẻ. Phương thấy đâu đây bước chân mười tám tuổi với hành trình quen thuộc. Đại lộ Nguyễn Thị Minh Khai tên cũ là Xô viết Nghệ Tĩnh. Đoạn trước cổng trường Lê Quí Đôn quanh năm dìu dịu hương cổ thụ đại ngàn. Vòng xuống Võ Văn Tần sẽ đến Trần Quốc Thảo, con đường của gió và hoa dầu xoay tít, nghiêng ngả bao buổi chiều mùa hạ. Đích đến là ngôi biệt thự của hoa Hài tiên, của tiếng Dương cầm trên đường Tú Xương. Qua phóng sự trên báo chí, truyền hình Phương biết gia đình Thủy không còn ở đó. Có điều chắc chắn, thời oanh liệt của họ đã qua. Cuộc sống mới làm họ dễ chịu hơn là điều Phương thấy trong mắt cha nàng, đôi ba lần giữa chuyên mục từ thiện. Ngồi trong góc khuất quán cà phê Ngọc Lan, Phương sững sờ trước giai điệu một thời đam mê. Lối mòn xa xưa đang hiện ra, dần rõ hơn trên từng gót chân hoài niệm. Không gian hẹp lại. Nhịp lấy đà của bản Dạ khúc số hai, tập thứ 9, cung Mi giáng trưởng của Chopin vút lên. Viên ngọc lộng lẫy, không tì vết tỏa sáng. Đến đoạn rung dây thì Phương không nghi ngờ nữa. Người con gái ngồi bên Dương cầm mà anh thoáng thấy khi bước vào chính là Thủy. Riêng nàng mới có sự ngập ngừng là lạ trong nốt pha huyễn hoặc, cộng với chút làm duyên bằng phần đệm khấp khểnh. Phương lặng người. Bản nhạc kết thúc, anh xé mảnh giấy viết yêu cầu “Giấc mơ tình yêu - Frank Liszt - Biển ngày xưa”. Phương nhờ anh phục vụ đưa cho Thủy. Bước chân mười tám tuổi. Con đường mở ra muôn phương, bồng bềnh trên nét nhạc thân thuộc, phương nào cũng dẫi bọt đóng hộp và thức ăn nhanh? - Anh coi đó là biểu tượng thiếu chiều sâu sao? - Ngược lại là đằng khác. Không nên đặt Bill Gate cao hơn gã đầu bếp sáng chế ra món gà rán hay cậu nhân công pha chế tân dược tình cờ nắm được bí quyết làm nước coca cola. Họ đều là người tự do có vận hội. Họ tạo nên giá trị của nước Mỹ bằng sức lao động trên cơ sở đó. - Cuộc biểu tình dữ dội phản đối vòng thương thuyết mậu dịch toàn cầu tại Seattle vừa qua vạch trần thủ đoạn lấn lướt, chèn ép trong xã hội tư bản. Người ta chỉ thực sự có nhiều vận hội và bình đẳng khi quy luật cá lớn nuốt cá bé bị tiêu diệt. - Xã hội càng tân tiến thì càng lắm phức cảm. Tâm hồn sâu sắc của người Á đông chính là rào cản khiến các sắc dân da vàng chưa bao giờ hoàn toàn hòa nhập được vào lối sống Âu Mỹ. Cộng đồng người Việt ở Mỹ luôn mang cảm giác bất an. Mặt trái của tự do kiểu Mỹ là vậy. Bọn côn đồ mũi tẹt thỉnh thoảng vẫn bắn nhau trong quán của anh chị. Mâu thuẫn khá vớ vẩn. Sức ép tinh thần thường trực kết hợp với lối suy nghĩ nông cạn, buông thả làm người ta khó tự kiềm chế. Không có tiền khổ chục nẻo thì có tiền khổ trăm nẻo. Băng đảng trộm cắp rình rập, đố kỵ. Có đủ người Việt, người Mễ, Mỹ trắng, Mỹ đen. Đời sống thu hẹp trong công việc và gia đình. Gia đình truyền thống của chúng ta không thể thiếu con cái. Cái dở là thế hệ tiếp theo không hiểu cha mẹ chúng cần gì. Anh Dũng và chị Linh cũng bắt đầu hậu vận hưng nhàn. Từ đầu thập kỷ 90 họ dành dụm mua vài mảnh đất ruộng bên kia cầu Sài Gòn. Đô thị phình ra, lãi trăm lãi ngàn. Họ gom góp xây ngôi biệt thự cho Tây thuê giữa khu nhà ngói xanh ngói đỏ phường Thảo Điền, quận Hai. Chị Linh mở thêm cửa hàng thời trang trên đường Lý Tự Trọng. Suy thoái kinh tế, họ dọn về căn biệt thự ế khách. Anh Dũng lập quán cà phê vườn nho nhỏ ngay tại nhà, thế là đủ sở hụi hằng ngày. Anh nghỉ việc nhà nước về tỉa tót cây cảnh, mặc chị Linh bán buôn ngoài phố nhộn nhịp. Thịnh, đứa con duy nhất của anh chị đã lớp 12, cao to, lanh lợi và liếm thoắn. - Anh an phận và bắt đầu nghỉ ngơi sớm vậy? - Khủng hoảng chỉ nhất thời thôi em. Sau cơn sốt nhà đất thường là thời kỳ đóng băng. Người ta cứ bảo sốt ảo, đóng băng thật. Nhưng ngược lại mới đúng. Diễn biến này chính là phân hóa xã hội. Thiểu số nào đó sẽ thu vén hết của cải xã hội, đẩy đa phần dân chúng thành người vô gia cư, người làm thuê, ở thuê. Quá trình này sẽ từ từ xoáy vào đời sống bằng những chu kỳ không đều đặn, phụ thuộc ở giá trị tích lũy niềm tin, tích lũy tư bản. - Thì ra anh ứng dụng cách mượn gió bẻ măng. - Phải là gió mới ăn trên ngồi trước được. Nếu không có sự đột biến nào, chừng hai thế hệ nữa, tài sản anh chị ky bo sẽ chia nhỏ cho con, cháu. Đó cũng là phân hóa, sự phân hóa của tự nhiên. - Được, mất thật vô biên anh nhỉ! - Khi không nắm quy luật người ta mê tín và tin vào số phận, cho nên mới có câu: triệu phú do bần, tỉ phú tại thiên. Giàu nghèo là hai mặt tối sáng của văn minh. - Giàu luôn dễ tính bằng các con số. Nghèo khổ thì khôn cùng. Đây phải chăng là hố chôn tương lai? Lắm khi thịnh vượng gắn liền với tai họa. - Đừng truyền thống thế. Đừng định nghĩa mạt rệp là đạo đức. Đó là sai lầm khủng khiếp của bản sắc và lịch sử văn hóa Việt Nam đấy. Hãy tìm đọc Hoá thực liệt truyện trong Sử ký Tư Mã Thiên. Ngoài ra ông ta còn viết: “Phép trị nước cao nhất của Đế vương là thuận theo ý muôn dân. Hạng nhì dẫn trăm họ về đường lợi ích. Hạng ba dùng đức giáo hóa. Hạng tư kế đến lấy hình pháp ràng buộc. Thấp tệ hơn hết là nhà nước đứng ra tranh giành mối lợi của dân. - Vỡ lẽ thật! Xã hội công dân mà các nhà tư tưởng đối lập Đông Âu thai nghén từ nửa sau thế kỷ 20 không mới mẻ lắm. Đây là thất truyền hay sự mê muội? - Ngọc quý ít thấy ánh sáng. Anh Chung của Phương lấy vợ năm 1990. Học muộn, ra trường trễ, chí thú làm ăn anh cũng yên phận trong căn nhà nhỏ giáp ngoại ô Glendale, Arizona. Anh hiện làm công cho hãng kinh doanh máy tính. Bé gái của anh chị mới chín tuổi mang tên thuần Việt, Vương Thị Hoài Hương, mặc dù vẫn phải hoán đổi họ ra sau. Chị Xuyến, vợ anh người Việt gốc Hoa, xuề xòa dễ tính. Chị là bác sĩ Đông Y có phòng mạch tư đang ăn nên làm ra. - Việt Kiều khắp nơi, không riêng ở Mỹ, chưa tìm ra tiếng nói chung. Cảm giác chiến bại thỉnh thoảng che mờ sự rạn nứt và bôi xóa mãnh liệt đang hoành hành - Chung phân tích. - Thời gian không đợi ai. Viễn cảnh thật đáng buồn. Em còn nghe khái niệm Do Thái da vàng. - Do Thái da vàng là người Hoa hoặc người Việt gốc Hoa sống tại Mỹ chứ không phải người Việt Nam. Đằng sau sự sầm uất, rình rang bề nổi của Sài Gòn nhỏ ở Cali hoặc nhiều tiểu bang khác là các ông chủ đất, chủ nhà người Hoa. Họ lặng lẽ thu tiền thuê mướn từ người Việt. Không kèn, không trống, họ ngồi mát ăn bát vàng trên lưng cộng đồng Việt mấy mươi năm nay rồi. - Anh có bao giờ so sánh vài cộng đồng Mỹ gốc Á không? - Rất mủi lòng. Phải nói chúng ta thua thiệt mọi bề. Người Hoa chẳng hạn, ít bốc đồng, ít chơi trội, ít kèn cựa. Người Hoa theo Tưởng và người Hoa theo Mao không khi nào đấu tố nhau. Chắc họ hiểu nguồn mạch văn hóa là vĩnh cửu, son phấn chính trị chỉ nhất thời. - Em hơi bất ngờ. - Sự tồn tại bền vững phải gánh vác những ý nghĩa tích cực. Ý nghĩa cuối cùng của bản năng trong từng cá nhân là mưu sinh độ nhật nhằm duy trì nòi giống. Có hay không bản năng cộng đồng? - Sau thế chiến thứ hai, gần mười triệu người Đức trở về, đồng cam cộng khổ dọn đống gạch vụn. Hình ảnh ấy đẹp biết bao. - Nhiều tổ chức Việt Kiều luôn cực lực phản đối bình thường hóa quan hệ Việt Mỹ và ký hiệp định thương mại. - Anh đoán xem hai bên có tái họp và ký kết sau lần đổ vỡ vừa qua không? - Hãy nhận rõ chân tướng của các hình thái chính trị Tây dương, phân tích xác đáng vị thế của đất nước ta trong khu vực Đông và Đông Nam Á. Câu trả lời nằm ở đó. - Ảnh hưởng mà người Mỹ muốn tạo dựng trên đất nước này là động lực cuối cùng để họ nhượng bộ. Cái gọi là lợi ích kinh tế dành cho thương gia Mỹ, hoặc chiêu bài dân chủ hay nhân quyền đều là vỏ bọc. Tay lái buôn giàu xụ kia chẳng ham hố gì mảnh thị trường đông dân nhưng còn quá nghèo của chúng ta đâu. Ba mươi năm nữa, tổng sản phẩm quốc nội Việt Nam chắc chắn chưa bằng 1% của Mỹ. Không chóng thì chầy Mỹ sẽ ký hiệp định với chúng ta. Đó là bước đi đầu tiên trong nỗ lực đề phòng từ xa một dân tộc Trung Hoa hùng cường nay mai. - Con thuyền Việt Nam thêm lần nữa đứng trước thử thách của cục diện vĩ mô. Thử thách luôn bắt buộc phải mang theo lợi thế cùng nhiều toan tính. - Một tác giả tên tuổi của đại học Havard dựng ra lý thuyết về xung đột giữa các nền văn minh. Ông ta nghĩ thế chiến thứ ba sẽ xảy ra ở nơi có sự chồng lấn và giao thoa văn minh. Việt Nam là điểm hội tụ tất cả điều kiện cần thiết để hình thành ngòi nổ. - Đáng tiếc, lịch sử đứng về hoang tưởng ấy. Không ai có thể phủ nhận Việt Nam hai ngàn năm nay là một mắt xích của chuỗi văn minh đông Á. Tuy vậy, đây lại là mắt xích biên viễn yếu nhất. Nhật Bản tự thân vận động thành đế quốc. Triều Tiên, Trung Hoa thì rõ ràng chưa dễ bị nuốt trửng bởi Tây dương. Duy nước Việt ta, hoàn toàn chìm trong đêm dài nô lệ, nếu không kể triều đình Huế hư danh. Thậm chí ngôn ngữ của chúng ta, trên hình thức truyền thông, đã bị biến đổi và hiện nay đang nằm dưới nguy cơ Âu hóa khôn lường. - Toàn cầu hóa và đa phương hóa sẽ hóa giải yếu địa chăng? - Ảo tưởng toàn cầu hóa rất đáng sợ. Thật ra quá trình toàn cầu hóa hiện nay chỉ là toàn cầu về kinh tế, giữa những tên tư bản kếch xù nhất. Hàng chục cuộc sát nhập của các tập đoàn khổng lồ đang nở rộ. Từ New York đến Frankfurt, từ Luân Đôn đến Tokyo, không phân biệt địa phương, dân tộc, bọn trọc phú đoàn kết hơn bao giờ hết để tạo ra hệ thống vơ vét lớn chưa từng có. Chúng sẽ hút máu nhân loại cần lao và phá hủy hoàn toàn môi trường sinh thái của hành tinh xanh. - Giáo sư Amartya K. Sen nghiệm thấy nghèo đói có nguyên nhân chủ yếu từ mô hình kinh tế sai lệch. Ngược lại, muốn có thật nhiều tiền, tư bản từ lâu đã vận hành những học thuyết hữu dụng để vắt kiệt sức lực và tài sản thiên nhiên của nhân loại. Cỗ máy hiện đại nhất của chúng bây giờ là cỗ máy "Toàn cầu hóa". Cái tên này khá văn hoa, vô tình phù hợp với khái niệm nền kinh tế tri thức. Chúng tung hô lợi ích này nọ, dân chủ, tự do. Thực chất là tự do cưỡng ép, dân chủ tống tiền cho bọn đầu tư. - Toàn cầu hóa thông tin sinh ra nền kinh tế tri thức. Lập tức toàn cầu hóa mậu dịch được thai nghén để mưu lợi. Năm ba ngàn người luôn tụ tập phản đối trước cửa các nghị phòng của IMF, WB, WTO chứng minh toàn cầu hóa lương tri, nhân bản và nhân ái thuộc về của thiểu số. Hàng rào cảnh sát với chó săn, ngựa chiến, dùi cui, súng đạn, ngăn cản đàn áp nhóm người kia chính là bộ mặt thật của những ông chủ lớn trên thế giới. Tại sao chúng sợ đoàn người chỉ mang theo biểu ngữ và lời kêu gào thống thiết? - Ngày trước tư bản chia nhau các châu lục để cướp bóc bằng các cuộc chiến tranh qui mô đồng bộ. Hôm nay, bất cứ mảnh đất nào trên hành tinh chúng ta cũng có thể bị chúng cùng bâu lại làm gỏi bằng vài mảnh văn tự ngọt ngào nhất. Chúng càng ranh ma thì càng đề phòng rơi mặt nạ, càng sợ sự cảnh tỉnh của các cuộc biểu tình. Một ngẫu nhiên lớn đã xảy ra. Năm ngoái anh Chung dẫn vợ con về quê ngoại ở Quảng Đông. Từ bến xe đò đối diện ga tàu lửa Hương cảng họ đến thị trấn Lão Sơn tá túc vài hôm trong gia đình họ hàng chị Xuyến. Lang thang gần đó vãn cảnh anh phát hiện được nguyên quán năm đời của mình. Về Việt Nam Chung đưa Phương tờ giấy, chữ Hán giản thể viết tay rất tháu: - Em dịch đi. Cái này hay lắm. - Trung Hoa quốc, Quảng Đông tỉnh. Bất Giá Sơn trấn, Vương Tộc hương - Phương vừa đọc vừa đoán - Quê ngoại bé Hoài Hương hả anh? - Địa chỉ cố hương chúng ta đó. "Anh muốn có thời gian nói chuyện đủ ngọn ngành. Ở Việt Nam anh nghe kể ông cố là con một người Trung Hoa lưu lạc sang vùng Rạch Giá lập nghiệp dạo chiến tranh Nha phiến. Thuở khẩn hoang người chăm chỉ làm ăn. Đến đời ông cố thì phất lên, ruộng đồng cò bay thẳng cánh. Thời đó pháp luật chưa đến vùng hẻo lánh. Các gia tộc tự luyện võ, vũ trang giữ đất mà tồn tại. Ông nội ba tuổi thì mất cha vì cuộc đụng độ lớn với gã hội đồng Phước chuyên đè nén kẻ thấp cổ bé họng. Giết người xong chúng ép phải bán rẻ đất vừa khẩn hoang cho chúng. Họ Vương ngậm đắng nuốt cay dời về Bạc Liêu. Của cải lại tìm đến người lam lũ cần kiệm. Cha mình sanh ra trong nhung lụa. Ông nội chẳng tiếc tiền cho cha lên Sài Gòn ăn học. Ông tổ họ Vương là một hào trưởng tinh thông phong thủy, Kinh dịch. Của quí duy nhất ông tặng con mang theo lập nghiệp bên này là lá bùa hộ mệnh. Ngoài phần chú niệm an lành may mắn, ông trích năm chữ từ bài cổ văn ông thích gồm Thụy - Công - Ly - Thức - Linh và khuyên sử dụng năm chữ này làm tên lót cho năm thế hệ tiếp theo của các chi tộc ở Trung Hoa cũng như Việt Nam. Lý ra cha mình lót chữ Ly nhưng ông đã tự ý đổi tên khi tham gia kháng chiến. Anh lấy làm lạ với làng họ Vương tại thị trấn Bất Giá Sơn. Anh dẫn chị Xuyến đi thăm nghĩa trang của làng. Anh bập bõm dăm ba chữ Hán. Chị Xuyến biết nhiều nhưng không đọc sõi âm Hán Việt. Và anh bủn rủn hết chân tay khi nghe chị Xuyến dịch lòng vòng các ngôn ngữ Việt, Hán Việt, Anh để xướng tên người trong một khu mộ giản dị. Tất cả chia theo lớp lang, thứ tự y như năm chữ nói trên. Dò hỏi mãi cũng tìm được thân nhân khu mộ. Hậu thế nói đúng tên ông tổ chúng ta theo trí nhớ của anh. Bên đó đời thứ sáu lót chữ Hiển. Mai này sanh con em hãy nhớ chữ Linh. Anh mong lắm!". - Khi nào có điều kin về ngày tháng đã xa… Đêm rất khuya, đường phố tịnh không một bóng người. Phương mệt nhoài đạp xe về nhà sau buổi tối làm thêm tại cơ sở in lụa tư nhân. Cơn mưa chiều gột sạch bụi bậm, vốn quá ít ỏi trên đường Tú Xương vắng vẻ. Bất chợt Phương thả chân, tìm nơi phát ra chất nhạc Chopin. Không cưỡng lại được, anh quay xe và đến đứng cạnh hàng rào ngôi biệt thự. Từ ấy Phương hay ghé qua góc phố này. Đến nỗi mấy người cảnh sát bảo vệ ở vọng gác gần đó ngầm coi sự hiện diện của anh hoàn toàn vô hại. Gặp kì làm hàng gấp như sau hè, trước tết, Phương chỉ thoát khỏi khuôn in lúc 2, 3 giờ sáng. Anh vẫn về ngang đấy như quán tính dù muôn phần uể oải và hẳn nàng đi nghỉ rồi. Thật tình Phương chỉ say mê ngón dương cầm. Anh xa đàn đã mấy năm. Phương trộm nghe nhạc không vì vẻ xa hoa cao quý của nó. Anh muốn tái hiện tháng ngày vô lo, yên ả và thoáng hạnh phúc mong manh của tuổi thơ không trọn vẹn bên người dì phúc hậu, tốt bụng. Phương chưa bao giờ tưởng tượng xem người chơi đàn đang hắt chiếc bóng mảnh mai lên khung kính cửa sổ, là cô gái già hay trẻ, xấu hay đẹp. Chỉ biết tóc nàng dài, tiếng đàn kỳ diệu, đầy sức sống. Hình như nàng rất thú vị với vị khách không mời. Nhiều bữa nàng còn dạo vài khúc nhạc ru trong quyển Phương pháp Hoa hồng, bằng lối thả tay nghịch ngợm, như lời chúc ngon giấc trước khi tắt đèn. Mãi sau này Phương mới hay chú bảo vệ kiêm lái xe riêng của cha nàng từng để ý tới anh và trình báo đầy đủ cho cô chủ nhỏ. Phương nhớ rất rõ lần đầu tiên họ gặp nhau. Buổi tối heo may mát mẻ. Phương ôn bài cả buổi chiều và thầm cầu mong số hàng tồn kho đi hết thì anh mới được gọi làm tiếp. Phương định đi bộ thư dãn đầu óc. Lang thang, vẩn vơ nghĩ ngợi vô chủ đích anh tới góc phố ấy lúc nào không biết. Tiếng đàn thân quen, chẳng chút ngại ngùng. Thanh âm cuối cùng buông lơi sớm hơn thường lệ. Phương chưa muốn về nên đứng yên một lúc. Tiếp theo tiếng két của cổng sắt là gót chân rất nhẹ của Thủy. Phương giật mình. Tiểu thư khá đài các, gương mặt đẹp như thiên thần nhưng hơi lạnh lùng. Sắc đẹp của nàng ẩn chứa tai họa. Không phải tai họa cho kẻ si tình, mà cho chính nàng. Sự hoàn hảo tiềm tàng bất hạnh và gian truân, hơn là hứa hẹn điều sáng sủa. - Mình là Thủy. Người vẫn đàn cho bạn nghe đó. Còn bạn? - Xin… chào, tôi là… là Phương. Bạn phiền vì tôi ư? Thủy sanh sau Phương đúng một ngày, chẳng hiểu có phải vì cùng vào mùa Thu nên tâm hồn họ tương hợp ở nhiều điểm. Tuy nhiên sự khác biệt cũng không nhỏ. Thủy thường hỏi Phương: "Lãng mạn và hạnh phúc đối lập ở chỗ nào?". Nàng mê thơ Xuân Diệu đến mụ người và hay à ơi vài câu khá nổi tiếng. Dạo nọ nàng suốt ngày nghêu ngao: "Yêu là chết ở trong lòng một ít…". Phương cười nửa đùa nửa thật: "Sao em thích loại thơ hô khẩu hiệu vậy. Yêu gì mà xét đoán, so đo quá chừng. Này nhé: được, mất, cho, nhận. Tình yêu không biết mặc cả. Sự ngoại lai trong thơ Xuân Diệu không dừng nơi ngôn từ, hình ảnh và nhịp điệu. Nó ôm đồm luôn lối thực dụng buồn nôn. Việc hiện diện của người anh yêu trên đời này đã là quá nhiều… dù đơn thuần về tinh thần, sự đòi hỏi rất xa lạ với tình yêu". Mùa Thu đi qua. Thủy vào nhạc viện. Phương bắt đầu thời sinh viên tất bật với lớp học, dạy kèm và xưởng in. Điểm hẹn duy nhất của họ là Thư viện Khoa học tổng hợp trên đường Lý Tự Trọng. Giải lao họ thường ngồi trò chuyện trên ghế đá, dưới tàn cây hoa Ban cổ thụ đơm đầy hoa tím và trắng. Đôi đoạn lịch sử âm nhạc Thủy tụng niệm mãi không thuộc vẫn in đậm trong đầu Phương cho tới bây giờ. Rồi Phương ra Hải Phòng học tiếp sáu kỳ chuyên môn. Suốt tuần cuối, tối nào họ cũng hò hẹn, nói cho nhau nghe không biết chán về dự định tương lai. Tuyệt nhiên, Phương luôn từ chối bước vào nhà Thủy để nàng đàn tặng anh những bản nhạc cả hai đều thích. "Hãy chờ anh…" Phương thoái thác đơn giản như thế. Anh không kể Thủy nghe thái độ trịch thượng của ba mẹ nàng trong đôi lần có chuyện gấp, chẳng đặng thì đừng Phương gọi điện thoại tìm Thủy. Ba năm tiếp theo họ gặp nhau đúng một lần. Sự chia xa đang đến gần, thể hiện bằng thư từ ngày một thưa và ít nồng nàn hơn từ phía nàng. Sự trưởng thành mang con mắt rất nghiệt ngã. Chuyến đi Hải Phòng là phần thưởng cho tấm bằng tốt nghiệp Thủy vừa nhận. Mùa đông. Đồ Sơn vắng vẻ. Thủy và Phương người trước người sau men theo triền núi vắng. Những họng pháo phòng thủ bờ biển đen ngòm, lặng im nhìn họ từ trong hang đá. Cúc dại lác đác khắp nơi. Cánh hoa mỏng manh tỏa ra như tia sáng mặt trời ấp ủ màu vàng đến nao lòng, vô tư đùa gió ngàn khơi. Cổ nhân xem cúc mang mối liên giao giữa trời và đất. Vì thế hoa gánh thêm khái niệm bất tử, viên mãn, vẹn toàn. Bậc quân tử ẩn mình, lẩn tránh thế gian cũng chính là hoa cúc. Gần mười năm sau Phương mới gặp lại loài hoa này ở nơi rất xa biển. Trên đỉnh cao nguyên Lâm Viên người ta gọi chúng là Dã quỳ hoặc Cúc quỳ. Chiều muộn, hai người viếng thăm tàn tích tòa lâu đài đổ nát giữa đồi thông xanh um nhìn xuống bãi bùn. Sự im lặng cứ đeo bám họ. Phương nhìn mãi không chán mảnh trời đóng khung trong lỗ hổng lở lói của chiếc cửa sổ cũ. Từng cánh hải âu đan qua. Vài điểm trắng lấp lóa điểm xuyến nền biển xanh thẳm. - Trên đầu chúng ta chẳng còn trần nhà. Bầu trời không bị giới hạn bởi cái vòm bán nguyệt kia. - Em tự biết mình nhỏ bé lắm Biển ơi. Đừng bắt em ngước lên. Phương trút sự bất lực vào đôi tay. Những bụi cỏ bật khỏi trầm tích thời gian, hiển hiện khung lò sưởi cũ. Đống gạch ngói vụn bên cạnh bị anh xới lên, ném như điên dại qua cửa sổ. Chúng vội vàng mất hút dưới chân đồi, không dám trả ngược hồi âm. Cuối cùng sàn nhà bằng phẳng khiến Phương tạm dừng. Mười đầu ngón tay bỏng rát. Phương nhặt thanh gỗ mục, nghuệch ngoạc vẽ hình chiếc dương cầm theo đúng kích thước thật. - Nếu anh là chủ lâu đài, anh sẽ đặt đàn chỗ này. Hợp lý lắm phải không em. Ai biết mấy tiểu thư, mấy nàng công chúa, mấy mệnh phụ phu nhân từng ngồi đây. Họ gõ t cả dã man đã biến mất từ lâu, dân tộc này đã khai hóa, trong khi ở Tây dương con người mới chỉ có bán khai… Mưu toan tiêu diệt một nền văn minh như vậy là một ý định điên rồ và là một tội ác. Những hành động hiện tại của chúng ta, với sức mạnh vũ lực nhất thời, không thể nào mãi mãi chống nổi những gì đã có từ lâu đời, đã được toàn thể tôn kính. Nếu chúng ta tấn công vào, chúng ta sẽ là những kẻ chiến bại. Chúng ta sẽ bị áp đảo bởi nền văn minh ấy, không thể nào đánh sâu vào gốc rễ nó được…" Tuy rất sáng dạ và phân tích rất chí lý, vị học giả nọ vẫn không vượt qua được dã tâm ăn cướp của đồng chủng mình khi đề ra đường lối bóc lột tinh vi hơn: "Chúng ta phải làm thế nào để thích nghi với nền văn hóa ấy, để phục vụ thành công kế hoạch của chúng ta… Trừ những người ảo tưởng một cách cứng đầu, hoặc vài bộ óc thoái hóa, thật không còn ai nghĩ đến đường lối chính trị áp chế ở Đông dương…". Trích đoạn này nằm trong quyển sách viết về Phan Chu Trinh. Tiến sĩ Thu Trang Công Thị Nghĩa dẫn dịch lời nói kia từ Albert de Pouvourville: Les Défenses de l'Indochine et la politique d'association. Nhà xuất bản A. Pedone, Paris 1905. - Nói chung khái niệm “dân chủ” mà Tây dương luôn muốn áp đặt lên đại lục Á đông của chúng ta chẳng khác nào chiếc thòng lọng vô hình. Điều kiện tiên quyết của dân chủ phải là dân trí. Khi cách mạng dân chủ tư sản nổ ra tại trời Âu, trên 60% dân số Tây dương là người thành thị. Ở Á đông thì sao, 70% nhân lực của chúng ta hiện vẫn là nông dân. Hệ quả của việc này thế nào thì không phải ai cũng hình dung được. Đặng Tiểu Bình tiên đoán giữa thế kỷ 21 Trung Hoa mới có thể áp dụng phổ thông đầu phiếu. Chiếc áo “dân chủ” Tây dương từng khoác vội lên dăm hòn đảo xung quanh chúng ta có làm họ giàu mạnh, thống nhất và hùng mạnh hơn Trung Hoa đâu. Vẫn chỉ là bất ổn, xào xáo. Ngay Thái Lan đến tận năm 1992 mới bắt đầu áp dụng bài học dân chủ đầu tiên, kết quả đang ở phía trước. - Trong trường hợp này, dân chủ là vỏ bọc của dã tâm ăn cướp và âm mưu khuynh loát hệ thống chính trị của chúng ta. - Nhìn qua hình dáng vị anh hùng bậc nhất của họ là Napoleon cũng đủ thấy bản chất ấy. Xuất thân từ thất phu, Napoleon dựa dẫm mụ quý tộc nạ dòng để ngoi lên. Đời hắn trải dài trên các cuộc xâm lăng cướp phá triền miên. Hắn lải nhãi ca ngợi văn minh cổ Ai Cập trong khi không chút do dự hạ lệnh bắn đại bác vào tượng Nhân sư để tìm… vàng! Đúng như lời của hắn: "Từ cái cao cả đến cái lố bịch chỉ cách một bước chân". Những tên sát nhân, sát văn hóa hèn hạ dường ấy vẫn ngự trị trên cõi đời này như biểu tượng anh hùng bất tử thì chưa có gì sáng sủa cả. - Hãy so sánh hành động của bọn lính Lang Sa đã đặt thuốc nổ phá hủy chùa Một cột trước khi trao trả Hà Nội, và việc Ba Lê phi quân sự để bảo vệ di sản kiến trúc trong thế chiến thứ hai; là biết ngay "cái cao cả" của bọn hèn mạt. - Nửa sau thế kỷ hai mươi trở đi con bồ câu trắng ngậm cành ô liu đánh lừa được nhiều người. Các chính sách tiền tệ, đầu tư, tài trợ hoặc toàn cầu hóa của Tây dương xem ra còn õng ẹo hơn cành Ô liu nhiều. Lưỡi kiếm êm ái, tuyệt đối hữu dụng là lưỡi kiếm sắc nhọn, càng mềm càng mỏng càng tốt. Sự nhân đạo duy nhất là nạn nhân sẽ không cảm thấy đau. Cái chết đến nhẹ nhàng như giấc ngủ. Kỷ nguyên nô lệ Hậu hiện đại đang thành hình và được quảng bá trần trụi. Không có bom đạn chưa hẳn là hòa bình. Nghệ thuật ăn cướp siêu hình mới mẻ của Tây dương đã triệt hạ tất cả những nỗi đau thức tỉnh hữu hình nơi con mồi. - Người Việt Nam tin mình rất yêu chuộng hòa bình. Không sai! Nhưng chúng ta không tin Trung Hoa cũng là dân tộc yêu hòa bình. Mảnh đất Á đông luôn luôn yêu chuộng hòa bình, ngoại trừ Mông Cổ xa xưa và nước Nhật nửa đầu thế kỷ 20. Tần đại đế uy vũ trùm thiên hạ, thống nhất nội quốc bèn xây Vạn lý trường thành nhằm chấm đứt binh đao vĩnh viễn với rợ Hung Nô. Công trình ấy là gì, nếu không phải lời cầu nguyện hòa bình thuyết phục nhất của người Trung Hoa. Vó ngựa Hung Nô bị Trường thành và những đạo quân tinh nhuệ của Hán Vũ đế đuổi về phía tây. La Mã bị đốt trụi, Ba Lê bị vây hãm trong vài thế kỷ tiếp theo là hệ quả tất yếu… - Chẳng lẽ giờ đây chúng ta nên xót xa vì tổ tiên mình yêu chuộng hòa bình? - Thời cổ đại, hòa bình chưa hẳn đã tốt. Dường như bản năng xa xưa của nhân loại từng sử dụng chiến tranh như cơ hội để lai tạo nhiều chủng tộc với nhau, nhằm tạo nên các thế hệ ưu việt hơn. Một trong những nguyên nhân làm biến mất rất nhiều nền văn minh cực kỳ rực rỡ của loài người là vì họ đã sống và phát triển trong không gian hoàn toàn đồng chủng. Gần chúng ta là văn minh Phù Nam, xa có văn minh Incas, Mayas, Aztec… Quá mù sa mưa, lạm dụng chiến tranh như Hy Lạp, Lưỡng Hà tất đi vào ngõ cụt. - Nói vậy hơi quá nhưng rõ ràng nếu từ năm 221 trước công nguyên, Á đông mở vòng tay tiếp cận nhiều nền văn minh khác ngoài lãnh thổ của mình thì hôm nay khuôn mặt nó chắc rất sáng sủa. Các triều đại và chính thể hậu Tần không có đầu óc duy tân triệt để như Thủy hoàng đế. Đó mới là điều đáng tiếc. - Sự phát triển rực rỡ của Triết học Tiên Tần thai nghén ra Tần Thủy Hoàng. Hệ tư tưởng lớn là cha đẻ những lãnh tụ kiệt xuất. Thời đại sinh thành vĩ nhân. Không bao giờ có chuyện ngược lại. - Tần Thủy Hoàng đã chiến thắng sự chia rẽ cũng như tư duy vụn vặt, tủn mủn nằm trong máu người Á đông. Nhà nước phong kiến tập quyền ông dựng nên khá hùng mạnh vào thời điểm ấy. - Đốt sách, chôn 460 Nho sinh, đày ải dân đen trong công trường xây dựng lăng mộ và Vạn lý trường thành là hai tội không thể tha thứ của ông ta? - Cho nên mới xuất hiện câu chuyện truyền khẩu bệnh hoạn ý nói Tần Thủy Hoàng là con hoang. Lời nguyền đó là hình phạt nặng nề nhất mà ông ta phải chịu đựng hai thiên niên kỷ rồi. Những đứa con hoang của văn minh hiện đại chỉ cần một quả bom thông thường đã phanh thây cả ngàn tính mạng, chỉ cần một tệp tin nhỏ trên mạng máy vi tính trong nửa ngày có thể xóa sạch hàng triệu ổ cứng với dung lượng tương đương nhivào phím đàn, cất lên tiếng hát ngợi ca cuộc sống vương giả và tiếc rẻ cuộc chơi mang tên đời sống ngắn ngủi. Phương đổi nhuận bút hai tháng viết lách lấy hai phòng trọ rất sang trọng theo ý Thủy. "Ngôi biệt thự hiện đại hàng đầu" của Đồ Sơn nằm trên đỉnh núi nhỏ, đối diện sự hoang phế ban chiều. Nhờ kinh tế thị trường, mọi người mua được nhiều tiện nghi mà ngày hôm qua họ chỉ có thể trầm trồ đồn đoán, bái vọng từ xa. Phương đứng ngoài ban công gần như cả đêm. Gió mùa đông bắc ướp khuôn mặt anh băng giá đến vô cảm. - Em thấy bóng tối và cái chết hết sức công bằng không? Quân vương và nô lệ, lâu đài và nhà tranh vách đất đều bằng nhau và bằng không. - Anh nghĩ về cái chết hơi sớm? - Cuối mọi con đường là cái chết. Anh không thấy sự đe dọa. Hãy hiểu lời nhắn nhủ ta hãy sống tốt hơn, hoài bão nhiều hơn, tham vọng càng ít càng dễ thở. - Em chỉ sợ quên lãng. - Nỗi nhớ là lao tù của phản trắc, là hạnh phúc của trái tim chân thành. Biển rộng mở vòng tay đón Phương, ru hời giấc mơ tuổi trẻ không bờ bến. Thủy chẳng liên lạc với anh nữa, dù Phương đã cho nàng địa chỉ Đại lý tại Tokyo. Một buổi chiều Thái Bình Dương tĩnh lặng trong ngột ngạt âm ỉ. Áp thấp nhiệt đới ngấm ngầm hình thành. Phương bất ngờ nhận được điện tín. Không hiểu bằng cách nào Thủy biết Đài Viễn thông Duyên hải và dò đúng số hiệu điện báo con tàu Phương đang làm việc. "Phương, anh đang ở đâu. Hãy điện thoại cho em càng sớm càng tốt nhé anh". Hai tuần sau Thủy ra cảng Hải Phòng tìm Phương. Họ đều chuẩn bị rất nhiều thứ để nói, nhưng rốt cuộc lần gặp gỡ cuối cùng quá kiệm lời. Bữa cơm chia tay có lẽ cực kỳ nặng nề, nếu nhà hàng Thủy chọn không phải là Nữ Hoàng Ong. Chiếc dương cầm màu đen khiêm nhường đứng trong góc. Nó rất lạc lõng giữa bia rượu và thức ăn sang trọng của đám thực khách đẫy đà, làm dáng bằng những câu chuyện tiền nong xôm tụ. Cái Phương tạc lòng đánh dấu đêm chia tay vẫn là bản Dạ khúc. Chopin viết tác phẩm này ở cung Đô thăng thứ, người đời xếp nó vào tập Vĩnh biệt. Thủy chơi hết sức ngẫu hứng. Nàng đổi thay nhiều, may mắn tiếng đàn thuở nào chưa nhạt phai. Mỗi người giữ riêng một ý nghĩ, họ dạo quanh công viên trước nhà hát lớn khi đêm sắp khuya. Vòm hoa phượng bên Quán Hoa, biểu tượng của thành phố cảng, đỏ bầm trong bóng tối nhập nhòa. - Em biết em chẳng giúp anh được gì. Không phải em không muốn dùng lợi thế của mình. Bản tính anh ghét cay ghét đắng sự cầu cạnh. Nhưng anh đừng từ chối lòng tốt của ba em. Ông sẽ duyệt cho anh một nền nhà giá bao cấp. - Em muốn nói em mang lợi thế hơn mọi người từ trong bụng mẹ? Em lầm! Mỗi bộ óc đều có quyền tự do cơ bản nhất, đó là ý nghĩ về sự bình đẳng với đồng loại. Em tự coi mình là "kẻ trấn lột bẩm sinh" ư? - Phương! Em không tệ hại đến vậy đâu. - Anh rất khách quan. Từ bé em quen ăn theo những tiện nghi của xã hội dành cho cha mẹ. Lớn bằng này, em cho mình quyền chọn lựa giữa một cậu thủy thủ nghèo kiết xác, tương lai mờ mịt với cuộc sống đủ đầy hiển hiện trước mắt ư. Tình yêu không thể đơm hoa trong em đâu. Chỉ đơn giản là toan tính. - Thôi… thôi… đừng mạt sát em chứ anh… - Trước sau anh cũng cần tổ ấm cho riêng mình. Nó sẽ không bao giờ toạ lạc trên mảnh đất kia. Chưa biết chừng, hai mươi năm nữa anh sẽ hỏi mua chính căn nhà của cha mẹ em. Từ giờ phút ấy Thủy và Phương bỗng trở thành hai người xa lạ. Mới biết sự xa lạ trong tâm can thật kinh khủng. Anh đưa nàng về khách sạn Cát Bi, cạnh công viên Nguyễn Du. Ký ức quá đẹp của ngày tháng xa xưa đang cố gượng dậy, níu kéo rồi vật vã nhưng không thể thoát khỏi vòng vây lý trí. Thủy rụt rè định choàng ôm Phương. Anh lắc đầu né tránh. - Hãy thức với em đêm nay Biển nhé! Như ở Đồ Sơn dạo nào… - Sớm mai tàu nhổ neo sang Thái Lan… Anh rất bận. Chỉ cần quay lưng lại, chúng ta đã cách nhau đúng một vòng trái đất. Vô ích lắm Thủy à… Chúc em may mắn… Lấy hết can đảm Phương nhẹ nhàng trả lời và trở gót. Nếu cố nấn ná, tính nóng nảy của anh sẽ làm nàng phát khóc bởi những câu độc miệng nhất. Phương thở hắt ra. Anh cắn môi thầm nhủ: "chẳng còn gì cả!". "Không phải thế" - Phương tự bào chữa - "Mối tình đầu vụng dại của tôi!". Những bài thơ âm thanh lãng mạn tột cùng của nhân loại đã hơn một lần thăng hoa trong trái tim Thủy. Đó là chốn bình yên thánh thiện để Phương tìm về với quãng thời gian rất đẹp của đời mình. Khi công việc tạm ổn định tại Sài Gòn, Phương tìm mua chiếc dương cầm cũ. Nỗi khát khao lớn nhất của tuổi thơ được thực hiện thật toàn mỹ. Đáng ngạc nhiên, lúc tháo hàng phím lau chùi, Phương nhặt được tấm hình đen trắng xưa cũ loang mốc úp mặt xuống bụi bặm. Nét chữ Thủy bay lượn: "Lãng mạn và hạnh phúc chẳng bao giờ chung sống trên một cuộc đời…". Khoảnh khắc mùa xuân hai mươi tuổi, Thủy khoác tay Phương dưới cội Mai già giữa hội hoa Tao Đàn. Quả bong bóng nàng cầm bị viền răng cưa mép ảnh cắt đi non nửa. Phương tặc lưỡi. Anh trả ảnh về chỗ cũ, như không thể nào khác được, nhưng với hai khuôn mặt tươi cười nhìn lên. May mắn, quán cà phê vắng khách hay luôn vắng khách Phương không biết. Đây là lần đầu tiên anh đặt chân tới chốn này. Họ quay lưng về nhau. Thứ gì đó rất chung, nhưng không phải âm nhạc đang hàn gắn chuỗi ngày rời rạc phủ đầy bụi lãng quên, tưởng chừng mấy hút trong vòng xoay đời tẻ nhạt. Ngoài sân, bầu trời thành phố đẹp lạ thường. Cơn mưa trái mùa ban lộc. Vầng trăng xa xỉ của cuộc mưu sinh thoát khỏi những cao ốc ghớm ghiếc, nhuộm vàng mơ dải sương mỏng manh vắt qua con đường vắng. Bản Dạ khúc của họ đi vào đoạn kết rất nhẹ nhàng. Cả hai sóng bước ra cổng như cặp tình nhân quá đỗi hiểu nhau, chẳng cần cử chỉ âu yếm khoe khoang như nắm tay, kề vai hay kiếu cách tương tự. - Em về bằng gì? - Xe ôm anh à. Em không dám đường khuya thân gái. Nhà em ở tận quận 12. - Anh tiễn em một đoạn. - ……… - Tòa biệt thự anh đã bốc đồng đòi mua kìa. Bây giờ họ trồng hoa giấy. Cây Ngọc Lan mới đơm bông thì phải. - Lâu lắm em không đi ngang đây, hay chính xác là cố tránh lối này. Nhưng em biết dàn hoa trồng trước năm 1995. Anh có nhớ bài thơ "Hoa giấy" của anh năm ấy không? - Thủy khe khẽ đọc, giọng đằm thắm, quá đỗi gần gũi với sắc màu riêng biệt của ngón đàn. Vay sắc nắng hồng Mượn gió lả lơi Hoa nghạo nghễ mỉm cười trên vòm cổng Mê hoặc bước chân qua Tôi trở về khi chiều uá đã xa Cố tìm hoa trong hương đêm thanh khiết Chỉ gặp lại nhúm xác hoa bạc phếch Chen mảnh vụn thư tình giắt cỏ rối đường trăng. - Anh ghét em đến thế sao. -??? - Em vẫn dõi theo bước chân anh. Lâu lâu nếu không thấy thơ anh là em trống vắng lắm. Anh gởi đăng thường xuyên em lại lo. Anh chẳng từng bảo anh thật sự cần thơ khi buồn chán hoặc thất vọng. - Anh đã chữa được căn bệnh mãn tính liên quan đến thơ thẩn từ khi ra với biển. Có lẽ bài thơ em đọc của cậu sinh viên nào đó. Cậu ta vô tình chọn bút danh giống anh. Hy vọng bài thơ nhằm giải tỏa ám thị hoặc viết để kiếm nhuận bút. Mỗi thế hệ sản sinh một lý lẽ tình cảm riêng trong cái chung dễ lầm tưởng. - Em không thể hình dung ra đời sống thiếu thơ. - Rất khó phân biệt được văn có vần, có điệu và thơ. Thơ là nỗi đau thăng hoa, là khát vọng bị đè nén. - Nhưng em tin em hiểu thơ anh. - Thơ khơi nguồn cảm xúc và gần như không đòi người đọc phải hiểu. - Anh không hỏi về cuộc sống của em? - Tiểu thư đi đánh đàn cho quán cà phê bằng xe ôm. Chẳng nói lên gì nhiều. Cũng vừa đủ. Anh mừng vì em đang bám rễ vào công việc. - Anh sống ra sao? - Một mình. - Anh ra dáng rồi. - Nếu đúng vậy thì nó là giá trị con người anh sao? - Anh khó tính hơn xưa nhiều quá. - Chúng ta sắp già rồi Thủy ạ. Anh biết phải đi tìm thứ mình cần và không nên chạy theo cái mình thiếu. - Em đoán anh đang đặt gia đình ở vế thứ hai. - Chắc vậy, còn em? - Chồng em nhận án kinh tế, mười lăm năm tù giam. Tài sản bị tịch thu. Cha mẹ em cũng liên đới. Họ dọn về quê dưới Củ Chi. Hai ông bà giờ đây nghèo nhưng thanh bạch. Ban ngày em đi dạy kèm, tối đánh đàn thuê ở nhà hàng, tiệm cà phê. - Hãy nói về con em đi. - Bé Thùy Dương đã 7 tuổi. Nó ngoan và rất thích chơi đàn dương cầm. - Anh gọi taxi cho em nhé. - Anh không muốn đi trên con đường mười tám tuổi hả Biển. Em không xứng đáng để anh đưa về sao? - Anh sẽ luôn bên cạnh em, ít nhất như hiện tại. Em vẫn thi thoảng hiện ra trong ý nghĩ của anh. Xin lỗi, anh không nên biết em đang ở đâu. Họ bên nhau, dọc nỗi niềm xưa cũ. Phương rất sợ tự nhiên Thủy bật khóc và dụi đầu vào ngực anh như ngày nào. Tới cổng trường trung học Lê Quí Đôn, Phương chủ động dừng bước. - Đoạn đường này không dài nhưng cũng mười mấy năm rồi phải không "Biển ngày xưa"? - Khúc vĩ thanh em chơi lúc nãy anh chưa được biết. - Nhạc cảm rất nhạy. Tác phẩm này bật ra từ tháng ngày khốn quẫn nhất của đời em. Em đã viết như sự trốn chạy thực tại trong khi luôn bị quá khứ ám ảnh. - Nghe xong anh chợt nảy ý thơ. Anh ghi vội vào miếng giấy bạc bao thuốc lá. Thủy xòe bài thơ hứng ánh đèn pha thưa thớt của các phương tiện giao thông. Nét chữ loang loáng lúc mờ, lúc tỏ: Mười tám tuổi ta còn trẻ quá Ngày tháng mênh mông si đắm mộng phù du Ba mươi tuổi mới biết bóng em là hư ảo Mùa trăng lại về Thi sĩ đã theo tiên! Nốt nhạc đen nối đêm vào quá vãng Vệt son dài suốt hoa niên Ba mươi tuổi trở mình ôm gối cũ Bùi ngùi vĩnh biệt chiêm bao Thủy tiên héo khô Chiều đã cạn Chẳng thèm mơ suối mạch ngàn xa Bấc nến đỏ Sáp mờ ký ức Cháy hết đi cho tiệt hôm mai Cho muôn sau chẳng thể dông dài Sông trôi cứ thế ngang trời mà trôi. - Ôi! Đúng là thơ của một gã từng trải. Không trau chuốt đắn đo ngôn từ. Hay ở chỗ đấy. Anh đặt tựa chưa? - Chắc chắn nó sẽ là "Bài thơ cuối cùng". - Em luôn sợ hãi trước bất kỳ kết cuộc nào. - Nếu bây giờ anh đánh đổi tất cả để lấy nhãn hiệu nhà văn quèn. Chắc mẩn chúng ta thành một đôi rất hợp? - Hạnh phúc hay lãng mạn hả Biển? - Anh không tiếc gì với em, và với anh cũng vậy. Lúc này người cần em nhất là bé Thùy Dương và cha nó. Phương mở cửa xe mời Thủy vào. Nàng không gởi anh cái nhìn tạm biệt. Đôi mắt nàng xa vắng vượt qua mặt kiếng lốm đốm nước mưa. Con đường hun hút um tùm cây lá. Phương vội vã trở về tổ ấm cô quạnh của anh. Cả đêm Phương miên man thả mình trong những bản dạ khúc Chopin dưới ngón đàn tài hoa của Evelyne Dubourg. Cuộc sống đến lạ! Người ta quen nhau trong một phút, thích nhau sau một giờ, yêu thương nhau nhiều ngày tháng nhưng chẳng lẽ cần cả đời để lãng quên? Tương lai tươi sáng của tình cảm là gì nếu không dựa trên quá khứ phải được quên đi mãi mãi. Hình như với Phương quên lãng rất gần với tha thứ, ít ra là cho chính anh, để hoài niệm về tuổi học sinh tươi sáng hơn. Với Thủy, anh hiểu đó chưa phải là tình yêu. Những ám ảnh, hằn học và độc địa chẳng qua là sự nông nổi, lãng mạn của tâm hồn thơ trẻ phản ứng khi bị bỏ rơi. Thủy của cuộc sống, của đời thường chắc chắn không phải là Thủy trong Phương… Mối tình đầu của anh chỉ là phút giây hư ảo đơn phương và gần như không chứa đựng thực tính. Mỗi khi dị ứng bởi những lời có cánh, Phương thường nhớ đến Somporn. Nàng sống tại Bangkok, thành phố của các thiên thần, bên các mái chùa cong cong soi bóng xuống dòng Chaophraya dịu hiền. Somporn học trường thanh nhạc. Hằng đêm nàng làm thêm ở sàn discotheque cách cầu tàu số 16 khoảng 1km. Chẳng cần biết họ đã quen nhau như thế nào. Mỗi đêm sau ca trực, Phương vượt qua con hẻm nhỏ giữa khu ổ chuột, ra đường cái đến quán để được nghe Somporn hát. Vị bia Bangkok rất nặng và nồng nặc mùi cồn. Phương nghiện ngập lúc nào không rõ. Somporn chỉ hát bài "Ngườiđàn bà đang yêu" riêng cho Phương, những lúc có Phương. Nàng hát bằng tiếng Thái, giọng trời cho tha thiết mà Phương thiên vị hay hơn cả Barbara Streisand. Hai giờ sáng quán đóng cửa, Somporn luôn đưa Phương về tàu như sợ anh đi lạc. Họ chỉ hiểu nhau qua ánh mắt vì Somporn không biết tiếng Anh. Khi cử chỉ bất lực, nàng sẽ chọn một câu trong quyển đàm thoại bỏ túi Anh - Thái đưa cho Phương đọc. Gần hai tháng, hằng tuần tàu Phương ghé cảng Bangkok ba ngày. Chưa bao giờ Somporn bước vào phòng riêng của anh trên tàu. Nàng không muốn mọi người nhìn mình bằng ánh mắt khinh rẻ. Buổi chiều không lên lớp Somporn thường dẫn Phương đi chùa. Họ đã viếng gần khắp các chùa dọc dòng sông Chaopraya bằng phà hoặc taxi nước đặc trưng của Bangkok. Họ dán thật nhiều dát vàng mỏng vào ngực phật, nơi trái tim. Phương không tôn giáo nên ít khi cầu nguyện, nhưng lúc ấy anh thường thấy không khí hết sức linh thiêng. Tại chùa nào Somporn cũng xin lá số cầu may cho Phương. Nếu lành ít dữ nhiều mắt Somporn tối đi. Nàng trở ngược dán thêm giấy vàng, miệng thì thầm niệm phật. Họ háo hức khám phá Bangkok như hai vị khách du lịch. Nhiều đêm thức khuya quá, Phương ngủ quên trên taxi. Somporn kiên nhẫn ngồi đợi dù đã tới nơi định đến. Phương trách, Somporn chỉ cười. Họ tung tăng chạy nhảy, vui đùa như hai đứa trẻ trong các siêu thị, hội chợ. Họ cùng chơi bao nhiêu trò thật vui, không khác gì ở Việt Nam như bắn súng, ném vòng cổ vịt. Phương định mua tặng Somporn một món quà giá trị, nhưng lần nào cũng vậy nàng tra hỏi cặn kẽ anh mua làm gì và lắc đầu. Thuyền viên hơi tò mò về cô bạn gái dễ thương của Phương, nhất là chính uỷ Phan Sinh. Gạ hỏi hay trêu chọc Phương cũng bằng thừa. Đêm nọ hắn và vài người nữa bám theo Phương. Dù bị làm phiền nhưng Phương cũng lịch sự mời cả đám uống bia. Nghe Somporn hát Phan Sinh khoái chí ra mặt. Hắn hào phóng mua hàng chục vòng hoa giấy lần lượt choàng lên cổ Somporn sau mỗi bài hát. Ở Bangkok người ta thưởng ca sĩ bằng cách này. Giá hoa mua tại quầy là 20 bath, gần một Mỹ kim một vòng. Ca sĩ xuống đổi hoa lấy tiền sẽ bị trừ vài bath nhưng họ luôn từ chối nhận giấy bạc. - Em này cỡ ngàn bath hết đêm hả Phương? - Mắt Phan Sinh ánh lên tia dâm dục. - Bạn tôi không phải gái làm tiền. - Danh giá gớm. Thật nhiều tiền vào thì đạo đức đi tong. Chín mươi phần trăm ca sĩ trong discotheque loại này là lũ bán trôn nuôi miệng. - Ông muốn ăn tát thì cứ dí tiền rồi lôi cô ta về tàu. - Tao với mày cược nhé - Phan Sinh rút ra bốn tờ năm trăm bath - Nếu tao mời được nó đi chơi bằng số tiến gấp bốn lần giá bình dân thì mày thua tao cái gì? Còn không tao mất hai ngàn này cho mày. Phương mất hết bình tĩnh: - Hạng bán miệng nuôi trôn như mày tệ hại hơn tất cả các kẻ bán trôn nuôi miệng. Tao không phải lũ sĩ diện rởm, rước Kiều về nhà ngắm và viết truyện dạy đời thiên hạ. Tao là thằng đàn ông như số đông. Cũng có khi tao cần một ả lẳng lơ. Nhưng chẳng bao giờ tao dắt tay quàng vai gái làm tiền tập thể, đi dạo buổi chiều dưới cầu tàu, để mong nó giảm giá, như mày. - Mày chống mắt lên nhé. Nên nhớ tao nói được tiếng Lào, hao hao tiếng Thái đấy. Tao sẽ trả giá bằng tiếng mẹ đẻ của nó. Đôi mắt trâu luộc của Phan Sinh long lên tia máu sát nhân. Hắn vuốt ngay ngắn bốn tờ năm trăm bath và bước tới cầu thang dẫn lên sân khấu. Somporn đang xuống. Hắn cầm tay nàng nhưng bị cự tuyệt. Hắn bám theo nàng một lúc rồi tiu nghỉu quay lại. - Con đ… có khách tiêu hoang bao tháng có khác… Không đợi Phan Sinh nói hết câu, Phương xốc tới nắm cổ áo hắn. - Ơ…! Ơ…! Thằng mất dạy… Mày định hành hung chính ủy hả? - Đây không phải tàu Dragon cho nên mày không phải chính ủy, cấp trên của tao. Mày là thằng ngợm bẩn thỉu nhất tao từng gặp. Tao sẽ thay mặt bạn gái tao cho mày một bài học. Ba bốn vị giằng Phương ra nên quả đấm của anh trượt mang tai Phan Sinh. Tiền vương vãi sàn nhà. Phương cúi xuống nhặt, xé vụn rồi ném thẳng vào mặt Phan Sinh. Somporn hoảng hốt đến níu áo Phương. Mấy tay anh chị của quán xúm lại hỏi. Biết rõ nguồn cơn họ nổi điên định đánh cả nhóm khách Việt Nam. Somporn và vài cô gái khác can mãi mới yên chuyện. Mặt Phan Sinh tái xanh nhưng hắn không đủ liêm xỉ để từ chối xắp tiền năm mươi và một trăm bath Somporn đưa. Nàng vét sạch ví đền Phan Sinh số tiền Phương đã hủy. Hợp đồng chuyên chở cho người Thái sắp kết thúc nhằm đợt nghỉ hè của Somporn. Nàng đưa Phương tới thăm phòng trọ của nàng gần đại học Chualalongkorn. Nhà Somporn ở mạn Lop Buri, cách Bangkok 300km về phía Bắc. Phương thật xúc động khi thấy Somporn treo trân trọng bốn bức sơn mài trước bàn học. Đó là bốn bức tranh hàng chợ bằng nửa tờ giấy A4 vẽ Đào, Trúc, Cúc, Mai. Mấy thủy thủ đem đi buôn bị ế, vứt lăn lóc trong kho. Phương nhặt tặng Somporn lúc họ mới biết nhau. Somporn bảo món quà này nàng rất thích và sẽ giữ mãi bên mình. Trưa cuối cùng Somporn mạnh dạn lên tàu Phương chơi. Cả tàu trầm trồ trêu chọc. Ăn cơm xong Phương phải làm việc. Somporn nghỉ trong phòng anh. Khi Phương về căn phòng đã đổi thay. Dưới bàn tay nàng, tất cả luộm thuộm của gã đàn ông độc thân vội biến mất. Vải trải giường, gối, mền phẳng phiu. Bàn ghế, giường tủ ngăn nắp sạch sẽ. Phương đứng lặng nhìn Somporn. Đôi mắt nói hộ anh nhiều thứ. - Về Việt Nam với anh nhé - Phương bật thốt ra bằng tiếng Việt. Anh tin Somporn biết anh ao ước điều gì. -...Khọp khun… - Somporn thầm thì một lúc. Phương nghe loáng thoáng chữ cám ơn. Họ ghì xiết nhau như muốn hãm thời gian trong vòng tay. Đến lúc tiếng loa phóng thanh truyền dọc hành lang thông báo cảnh sát biên phòng Thái Lan đang lên tàu làm thủ tục họ mới choàng tỉnh. Somporn nhón chân tặng Phương trận mưa hôn rồi quay lưng mở cửa bước ra. Anh đưa nàng tới cầu thang. Dòng Chaopraya trải rộng tới chân trời, cuồn cuộn nước triều lên. Somporn nối bước nhóm quan chức Thái Lan đi xuống. Tới chân cầu thang, nàng giật mình như vừa bỏ quên thứ gì đó. Nàng ngước lên tìm Phương và tháo chiếc kiềng đeo cổ bằng đồng đen ném mạnh lên boong. Phương cúi nhặt. Máy tời chầm chậm rút thang. Từ giờ phút ấy, họ đã ở hai quốc gia. Phương nhìn Somporn thật lâu rồi về vị trí của mình trên buồng lái. Tàu nhổ neo, tháo dây buộc. - Năm hồi còi ngắn - Lệnh của ông Hoa tiêu tóc bạc làm Phương giật mình. Anh dùng hết sức ấn vào nút còi bé xíu. - Cậu làm cái quái gì vậy?- Thật tệ, Phương không rút tay khỏi công tắc, thành ra hồi còi quá dài. Hoa tiêu bực bội. - Xin lỗi ông - Phương lúng búng trong tiếng cười của cả buồng lái. - Anh ta đang yêu - Thuyền trưởng lên tiếng. - Vậy sao? Với một con nhỏ leo tàu chết tiệt của xứ sở chúng tôi à. Cậu cần thử máu rồi - Tiếng cuời rộ lên lần nữa. Phương tảng lờ và cầm ống nhòm bỏ ra cánh gà. Tàu đang tách khỏi bờ. Somporn vẫn đứng dưới cầu cảng. Chiếc bóng mảnh mai hắt lên thành phố Bangkok đang dần tím trong chiều. Tàu băng băng rẽ nước ra biển. Phương dại mồm thầm ước có trục trặc. Chẳng hạn tàu anh sẽ quệt vào chiếc khác ngược chiều. Như thế, đêm nay Phương lại được nghe Somporn thổn thức: "Em đã trao anh tất cả... Em là người đàn bà đang yêu. Em sẽ làm mọi thứ để giữ anh trong thế giới của riêng mình...!" Đến phao số không, tàu giảm tốc độ trả hoa tiêu. Trước khi về phòng, thuyền trưởng bảo Phương: "Chớ buồn. Nghề mình còn ghé Bangkok tỉ lần nữa mà. Bây giờ thì kéo còi đi, kéo thỏa thích, tới hải phận quốc tế rồi". Phương cám ơn ông và kéo chín hồi còi thật dài. Không ngờ mấy chục ngày sau tàu Phương bị đắm. Anh bỏ lên bờ, vĩnh viễn xa biển. Mảnh giấy nhỏ ghi địa chỉ, số điện thoại của Somporn cùng vài tấm hình kỷ niệm cũng không còn. Về sau, mỗi lần bạn bè đùa vui xem chỉ tay hoặc coi tử vi cho Phương, anh hay nhớ tới Somporn khi họ phán hình như Phương có con rơi. Phương và Somporn bên nhau không nhiều, ngắn ngủi nhưng trọn vẹn. Hai giờ đêm Somporn hát ra. Bốn giờ Phương bắt đầu trực sổ nhận hàng. Chiếc giường đơn ấm áp của Somporn luôn quá rộng. Phương không dám ngủ vì sợ trễ giờ nhận ca. Đôi lúc anh chỉ muốn quên đi tất cả, muốn được ở bên Somporn mãi mãi. Phương thích khép hờ mắt để cảm nhận ngón tay mềm mại, đôi môi dịu dàng của Somporn ve vuốt khắp khuôn mặt mình. Họ thủ thỉ với nhau biết bao điều. Nói chỉ để nói, để được nghe âm thanh của nhau. Somporn hay nhắc tới nhắc lui từ "em bé" bằng tiếng Anh và đặt tay Phương lên bụng nàng. Những nhịp thở đều đều. Qua một lớp áo, làn da vẫn còn âm ấm. Lòng Phương dâng lên tình cảm khó tả. Chắc chắn nó rất xa lạ với thú nhục thể. Bốn năm sau Phương đáp chuyến du lịch Bangkok vài ngày, mong tìm gặp Somporn. Taxi nước đưa Phương đến đúng cầu tàu số 16. Anh lần theo lối quen. Tòa nhà trệt và sàn discotheque đã bị san phẳng. Hình như xa lộ cao tốc mới hoàn thành ăn hết bãi để xe cũ. Phần còn lại của khuôn viên rộng lớn ngày xưa mọc lên siêu thị cao tầng. Chưa hết hy vọng, Phương thuê thông dịch đi vào ngõ hẻm ngoằn ngoèo nơi Somporn từng ở. Anh chỉ có cái tên Somporn cụt ngủn nên ai cũng lắc đầu chào thua. Có thể Phương nhớ nhầm. Gần như mọi phòng trọ tạm bợ đều giống nhau. Bangkok còn đông đúc hơn Sài Gòn, biết tìm Somporn nơi đâu. Đôi lần Phương cứ nghĩ Somporn chỉ là giấc mơ như muôn vạn giấc mơ phi thường, sản phẩm từ trí tưởng tượng hơi to tát của Phương. Chiếc kiềng bằng đồng đen là kỷ vật duy nhất Phương gìn giữ được sau trận đắm tàu. Nó sẽ bên Phương suốt đời như minh chứng về Somporn và tình cảm của nàng từng dành cho anh. Quỳnh Như là cô gái cuối cùng chia sẻ với Phương những ngày tháng cơ hàn nhất, cho dù sự sung túc chưa quá bộ đến ngưỡng cửa ngôi nhà của anh. Mấy công ty đầu tiên Phương làm trên bờ không hiểu sao luôn có việc cho anh ở Hà Nội. Lắm giai đoạn một tháng Phương ăn cơm Bắc đến 20 ngày. Anh tá túc tại khách sạn tư nhân. Quỳnh Như mới tốt nghiệp Khoa Kế toán Đại học Kinh tế Quốc dân. Nàng tạm làm tiếp tân trong khi chờ đợi nhờ vả, chạy chọt một vị trí phù hợp với chuyên môn của mình. Họ sẽ mãi mãi chào hỏi, trao hoặc gởi chìa khóa phòng như mọi người nếu Quỳnh Như không nảy ra nhã ý truyền cho Phương cách bớt tiền lưu trú được công ty thanh toán trực tiếp qua tài khoản khách sạn. Hôm ấy bà bếp trưởng đón Phương ở quầy tiếp tân. - Cậu Phương này, từ nay trở đi nhà bếp xin tăng khẩu phần ăn của cậu lên hai mươi lăm ngàn. Chợ búa đắt đỏ quá. - Cô ơi cháu còn phải nuôi mẹ già và hai em nhỏ nữa đấy - Phương biết thừa bà này chỉ vẽ chuyện. - Đi làm cho Tây mà kiệt xỉ thế cậu. - Trời đất! Cháu là cu li hạng ruồi thôi. Lương tháng hơn triệu. Công tác phí năm mươi ngàn một ngày, kể cả xe pháo. Phải khéo không thôi cả nhà sẽ ăn độn. Đợi bà bếp khuất dạng Quỳnh Như mới nhỏ nhẹ: - Sao anh không ra đầu phố ăn cho tiện. Lại rẻ nữa. - Bẩn lắm. Bụi bặm phát khiếp. - Anh khờ quá nên nghèo. Tiền anh ở một đêm ba mươi Mỹ. Nếu khéo cũng cứa được của Tây mười đồng. - Bằng cách nào? - Dãy phòng trệt có công trình phụ chung, giá mười đô thôi. Anh đổi chỗ, em trả tiền thừa. Đa số khách đến từ các cơ quan đều chắt bóp như vậy. Y như bài bản, lần sau Phương dư ra hơn trăm bạc. Quỳnh Như từ chối chiếc phong bì ghi lời cám ơn nhưng bắt Phương khao một chầu chả cá Lã Vọng. - Em khôn ngoan quá. Ai muốn làm chồng em phải tu mấy kiếp. - Em không thích làm đồ trang sức. Giá trị của nó là giá trị ảo. Món quà đầu tiên Quỳnh Như tặng Phương là bao diêm đựng đầy những cánh hoa sữa vàng ươm rụng trong đêm. Nhà nàng nằm đối diện cây hoa sữa cổ thụ mọc ở vỉa hè phố Phùng Hưng, dưới đoạn cầu dẫn cao cao nối ga Long Biên với ga Hàng Cỏ. Từ ban công hẹp tầng một, nhón chân là Quỳnh Như có thể bước lên đường ray với hai thanh tà vẹt rỉ nâu. Nàng bảo sẽ hái hoa tươi trong mùa thu tiếp theo cho Phương, dù cây vẫn còn hai ba cành đầy hoa trong tầm với của nàng. "Nếu biết tường tận Hoa sữa, ở bên cạnh Hoa sữa từ nhỏ tới lớn như em anh sẽ chán ngay thôi. Vì sao ư? Bí mật đấy". Nàng nhoẻn miệng cười rất tinh nghịch. Không lâu sau Quỳnh Như rời khách sạn. Chuyến công tác này nối chuyến kia suốt năm trời của Phương giúp họ càng ngày càng thân thiết hơn. Quỳnh Như lông bông mấy tháng, hết hướng dẫn viên du lịch lại đóng vai quần chúng trong các pha quảng cáo truyền hình tỉnh lẻ. Cuối cùng nàng cũng nhận được chân kế toán rất vừa ý tại một liên doanh. - Anh có tin tất cả đàn ông bao dung độ lượng đều chết hết rồi không? Bây giờ rặt sở khanh nhỏ mọn và ích kỷ. - Em chua chát quá. - Giống cái ngày càng sa đà cũng tại lũ đàn ông ranh ma quỷ quyệt. Chúng nặn ra những cái tổ êm ấm, an toàn bằng miệng lưỡi. Lơi tai một chút, thế là sập bẫy. - Em đẹp như thế này thiếu gì cây si để chọn lựa. - Em chẳng thể cầm lòng trước sự giả dối ngọt ngào nào. Có thằng ngợm còn bảo em rằng: "Vứt mẹ cái tình yêu và nước mắt cá sấu đi! Định ăn vạ hử? Đàn bà đẹp là người đàn bà nhận được lời khen tặng sau khi làm tình. Đời thằng này có mỗi một con nhưng nó đã bỏ đi lấy Tây". Mùa thu chẳng lỡ hẹn. Hồ Thiền Quang là trái tim của Hà Nội trong những đêm se lạnh ngạt ngào hương hoa sữa. - Hương thơm quả tế nhị, không nắm bắt được nhưng rất thật. Nó tượng trưng cho kỷ niệm và phẩm hạnh. Nó là bản chất của linh hồn. Nó nuôi dưỡng cái đẹp. - Anh đúng là nghệ sĩ hạng bét. Quỳnh Như giữ đúng lời hứa. Hoa sữa tươi phong kín trong chiếc hộp cứng, hai lớp giấy kiếng nhằm tránh mất mùi trên chuyến bay Hà Nội - Sài Gòn khoảng hai giờ đồng hồ. Buổi tối Phương mở gói quà và đặt hoa trên đầu giường. Cành cây còn nguyên nhựa trắng. Không thể chịu nổi mùi hắc. Chuyển qua bậu cửa sổ cũng chẳng khá hơn. Tức mình Phương vứt ra đường. Đúng lúc ấy chuông điện thoại đổ dồn, giọng Quỳnh Như líu lo: - Anh ném hoa đi rồi phải không? - Sớm mai anh họp giao ban mà mười hai giờ khuya vẫn chưa ngủ được. - Em nhớ anh lắm. Anh nghỉ phép vài ngày nhé. Tờ mờ sáng. Phương không cần giả tiếng tắc kè Quỳnh Như đã mở cửa và trèo lên đường ray. Cầu Long Biên đen thẫm. Hàng đoàn xe đạp thồ nặng nề chở nông sản từ hướng Gia Lâm vào nội đô. Tiếng côn trùng bờ đê bắt đầu ngái ngủ. Họ đi bộ khoảng một phần tư chiều dài cầu. Thang sắt ọp ẹp dẫn xuống cánh đồng giữa sông. “Anh nghe tiếng hát dòng sông tuổi thơ của em nhé”. Quỳnh Như trải trên nền cát chiếc khăn tay bằng lụa mỏng và bảo Phương áp tai xuống. Anh gạt khăn ra. Đúng là dòng sông biết hát. Bài ca bất tận, giai điệu nồng say, mênh mang diệu vợi và tột cùng nông nổi. Phương bỗng thấy nhớ biển, nhớ những con tàu, nhớ bến bờ anh sắp đặt chân đến. Anh tự hỏi bến bờ ấy có phải nơi đây? Sông Hồng của Phương thơ bé, của Phương thời sinh viên hay của Phương hôm nay vẫn là dòng sông ấy. Dẫu thêm vào hoặc bớt đi một người con gái như Quỳnh Như, tình yêu anh dành cho sông Hồng, cho Hà Nội vẫn thế và mãi mãi là thế, vĩnh cửu như định mệnh. Sau đó họ ngồi bệt xuống cát. Hai người chẳng nhìn rõ mặt nhau. Phương đoán giọng nói của Quỳnh Như rất giống giọng mẹ mình. Nàng kể anh nghe về tuổi thơ hồn nhiên và năm tháng trẻ trung dại dột. Âm thanh tuột trôi, bồng bềnh trong màn sương mờ đục xung quanh. Phương định ngăn nàng lại, kết thúc ngôn từ vô nghĩa. Anh phân vân không hiểu mình có thể vừa ôm nàng, vừa hôn nàng và vừa thốt lên rằng anh yêu nàng như yêu một vết thương hóa thân, anh yêu nàng như yêu Hà Nội. Rốt cuộc Phương cứ ngồi yên. Anh biết khả năng mình giới hạn nhưng khát khao mong muốn thể hiện tình cảm thì vô bờ. “Anh biết không cồn cát này còn gọi là bãi giữa. Nó chia sông Hồng làm hai nhánh là sông Cái và sông Con, do đó sông Hồng còn được gọi là Nhị Hà. Sau mỗi mùa nước bãi cồn luôn thay đổi hình dáng nhưng cát thì vẫn vậy, thơm tho mùi phù sa, sạch sẽ như ngọc trai và óng ánh tựa kim cương. Thuở nhỏ em hay xuống doi cát chơi một mình. Cô bé mảnh khảnh rất thích ngô nướng. Em nhớ mãi câu ca của một chàng nông dân thật thà, hiền hậu: “Sông Hồng sao nỡ sẻ làm đôi – Để dở dang đây một bãi bồi”. Chiều muộn hôm ấy bố dượng về Đông Anh xin bà nội củi đun, mẹ xếp hàng mua sắn lát. Em đang nằm sấp trên cát nghe sông hát thì bị hai cánh tay hộ pháp nhấc bổng lên đem vào giữa ruộng ngô. Em cào cấu la hét nhưng vô vọng. Con thú thỏa mãn xong lủi mất. Em chạy như ma đuổi về nhà. Cúp điện tối mịt nên chẳng ai thấy áo quần em rách bươm. Em đốt mớ giẻ kia đi, tắm táp và thay bộ quần áo vải thô. Bố mẹ gần như về cùng lúc. - Mày làm gì mà mặt mũi như mất sổ gạo thế? - Con không việc gì đâu - Em trả lời như máy và tự hỏi sao mình dũng cảm thế. Cả nhà xếp bằng quanh mâm cơm dưa cà. Bố dượng chun mũi mắng: - Con gái con lứa mười ba mười bốn mà vô ý. Mẹ mày đem nó vào trong đi. Mày bắt đầu trở thành một con đàn bà dơ bẩn rồi. Em khóc ngất, nước mắt chảy bù cả chuyện kinh hoàng ban chiều. Mẹ dỗ dành. Mấy hôm sau mẹ thấy thiếu bộ quần áo. Tưởng em hớ hênh bị trộm khều, mẹ đè xuống quật cho năm roi. Được dịp khóc thỏa thuê dù mẹ đánh rất nhẹ. Mười bảy tuổi em mới biết mình đã bị cướp đi sự trong trắng ngàn vàng. Em chẳng buồn lâu. Giọng đàn ông tụng ca vo ve quanh tai suốt ngày. Thằng thứ nhất là phe vé ga Hàng Cỏ. Thằng thứ hai là cậu ấm lêu lổng con ngài thứ trưởng. Thằng thứ ba mang vỏ trí thức Tây du, đi xe babetta… Thằng cuối là triệu phú, chủ cái khách sạn anh ở ngày xưa. Ánh mắt anh khác hẳn chúng. Nỗi đau tinh khiết. Nỗi buồn dịu dàng. Và cả mùi ngây thơ của cỏ dại bờ đê. Em yêu anh vì thế. Tưởng chừng chuộc lại được trắng trong với nỗi nhớ anh hằng đêm". Quỳnh Như ngả vào lòng Phương. Nàng cuộn người đón nhận nụ hôn đầu tiên của anh. Trái tim nàng ấm nồng, phập phồng dưới áo. Nàng vít đầu Phương xuống. Hai chiếc nút bật ra. Có một cái gì đó ngọt ngào và mênh mông như tình mẹ. Tất cả đàn ông trên thế gian này đều cảm giác được tái sinh, trên khuôn ngực của người phụ nữ mình thật sự thương yêu. Mặt trời vội lên. Họ trở vào phố giữa heo may đượm mùi ngô non. Sinh nhật hai mươi bảy tuổi của Quỳnh Như vui hơn hội. Nàng lí lắc nói cười như cô gái mới lớn. Mười giờ tối chỉ còn hai người giữa đống quà đủ màu. - Xà phòng thơm… Dầu gội đầu… Son phấn… Không! Cái này của con bé Hồng, anh đừng mở. Cận thị đấy - Gói cuối cùng màu đen không tên. Roạt… Khuôn mặt Quỳnh Như đanh cứng - Em chẳng muốn dấu anh. Vài ba tấm hình lõa thể chụp lén Quỳnh Như đang ngủ. Mẩu giấy nhỏ: "Như, em đừng phản bội tôi chứ. Tôi yêu em. Tôi cần em và luôn điên dại bên tấm thân của em. Tôi đang ly dị. Em sẽ là chủ nhân khách sạn… Em đừng hòng lấy được chồng, ngoài tôi. Chẳng thằng chó nào dám nhìn thẳng vào thứ này". Vết bỏng do sáp nến chảy loang trên tay Phương bấy giờ mới rát. Anh xem qua ảnh rồi đưa trả cho Quỳnh Như. Đêm Hà Nội mùa đông buốt lạnh tự trong lòng. Phương dúi cả nắm tiền lẻ vào tay gã xe ôm. Nói mãi gã mới chịu đi cho. Gã sợ Phương lao đầu xuống sông Hồng. Điểm giữa cầu Thăng Long cách mặt nước khoảng hai lăm mét. - Sao em biết anh ở đây? - Em vẫy xe đuổi theo anh. - Anh không bao giờ chết vì tình. Anh muốn khám phá dòng sông của em. Sang sông luôn là sự kiện trọng đại của đời sống. Em an tâm chưa? - Em đã hai lần nghe dòng sông hát cùng một bài ca. Hôm ấy em cứ ngỡ linh hồn mình đã thật sự trở về với thể xác. Thì ra mỗi linh hồn chỉ có một cuộc đời. Cái phần phù du và hữu hạn của con người, cái thân thể không thể tẩy uế này là dòng sông của linh hồn em chăng? - Vẫn biết núi đồi, thung lũng, gềnh thác và thiên hình vạn trạng bước ngoặt tạo nên dòng sông hiền hòa dưới chân ta. Anh yêu em nghĩa là anh bất chấp lũ lụt, bất chấp sóng dữ đe dọa nhấn chìm tất cả. - Anh chưa hiểu dòng sông này có thể tắm tưới đời anh, nuôi nấng mùa vàng màu mỡ. Gió Bấc ù ù bên tai. Những chiếc kim nhọn hoắt đang châm vào người Phương. - Hãy về phương nam nắng ấm với anh đi em. Vứt hết. Bỏ hết. Chúng ta sẽ làm lại từ đầu, ở nơi em là người xa lạ. - Lúc này em phải ở đây. Chẳng phải vì cha mẹ. Chẳng phải vì công việc. Em không muốn trốn chạy. Như thế em mới biết mình là ai. Em sẽ đi tìm dòng sông thánh thiện đã lạc mất trong biển đời đen bạc và sự hư hỏng của bản thân em. - Em sẽ là nàng dâu đoan thục nhất của Sài Gòn. Như thế quá đủ rồi. - Đám cưới chúng ta không làm lớn nhưng nên trang trọng. Anh và em sẽ cười vào mặt những kẻ tọc mạch rồi đi bộ ra bãi cát sông Hồng. Em sẽ khoác lên người màu trắng chói mắt của mây bên cửa sổ máy bay, trên đường về nhà anh. - Anh chờ em một năm. Anh hết chịu nổi rồi. Có những ranh giới anh không thể vượt qua trong ngày một ngày hai. Phương quay lại Sài Gòn. Anh đóng cây đinh mười lăm phân bên cạnh bản lịch để xâu những tờ lịch cũ. Năm đó không có ngày 29 tháng Hai. Được ba trăm sáu mươi bốn ngày và mười một giờ năm mươi chín phút thì Quỳnh Như đến ngồi bệt trước cánh cửa khóa trái ngôi nhà Phương thuê. Lúc ấy Phương vẫn đang dự sinh nhật bạn. Ham vui và quá chén, anh ngật ngưỡng trở về khi ngày mới đã sang với khuôn mặt và quần áo dính đầy dấu môi son. Quỳnh Như vứt vội hành lý xuống chân, say mê đón nhận sự vồ vập. Mùi bia tươi trộn lẫn với rượu mạnh nồng nặc. Quỳnh Như xô Phương ra. Mặt mũi Phương tối xầm lại. Cái tát quá mạnh và bất ngờ. Phương ra vẻ tỉnh táo. Anh đứng yên một chỗ, lưng ưỡn thẳng, tay chắp ra đằng sau. - Anh trưởng thành rồi Phương ạ. Mới một năm mà anh khác đi nhiều quá. Em căm thù mùi nước hoa đắt tiền của bọn vũ nữ trên cơ thể anh. Có trời mới biết trái tim anh đã đổi sang màu gì, nâu đen hay xám xịt. - Em có quá khắt khe không? - Anh không đứng vững trước cám dỗ tầm thường nhất, thì làm sao anh cảm nhận được vẻ đẹp của một tâm hồn khắc khoải sáng trong. Dù gì em cũng mang ơn anh. Tình yêu em dành cho anh đã cải hóa chính con người em. Em tiên liệu điều này bằng tấm vé hai chiều. Tám giờ sáng mai là chuyến hồi. Cho em trọ vài giờ. Và xin anh im lặng. Em sợ… dẫu chỉ là lời từ giã… Cả đêm Quỳnh Như bó gối trên ghế nệm để nhìn lên trần nhà. Phương ở bên bàn viết, xoay lưng lại với nàng và hút thuốc. Mỗi mười lăm phút được điểm bởi một tiếng "tạch" nho nhỏ nhưng gẫy gọn, phát ra từ chiếc bật lửa. Sáu giờ ba mươi Quỳnh Như ra đi, nàng thẳng thừng từ chối sự đưa tiễn. Bảy giờ Phương vào trong tắm rửa chuẩn bị ngày làm việc. Anh dầm nước hơi lâu và kỳ cọ nhiều lần. Bộ quần áo mới phẳng lì, thơm mùi vải. Trước khi bước khỏi nhà, Phương chợt thấy vài cánh hoa Hoàng Lan rơi vãi xung quanh chỗ Quỳnh Như vừa đứng dậy. Phải chăng nàng định ướp làn hương tinh tế kia vào ngôi nhà cô quạnh của anh? Cũng có thể vui tay, nàng hái dăm ba nụ hoa từ Hà Nội bỏ vào ví tay cho thơm. Hơn hai năm sau Phương gặp Tuyết. Đăng ký kết hôn rồi ly dị. Chẳng cần cả đám cưới. Bằng cách nào đấy sự việc cũng đến tai Quỳnh Như. Nàng gọi điện cho Phương: - Rồi muộn phiền sẽ qua. Anh đừng suy nghĩ cực đoan anh nhé! - Em sống ra sao? - À Phương này, vợ chồng em định lấy tên anh đặt cho đứa con đầu lòng. Chữ Phương hợp với cả hai giới. Chắc anh không phản đối? - …… - Anh lúc nào cũng đáng thương hơn đáng trách Phương ạ. Con người anh không bao giờ có tình yêu bền vững cả, hay nói đúng hơn anh chỉ biết yêu chính bản thân mình. Em vẫn hy vọng tất cả những gì quanh anh, đã đèn nén và xô đẩy anh trở nên như thế, chứ đó không phải bản chất bẩm sinh của anh. Giờ đây anh cần một cuộc vượt thoát. Hãy nêu gương em và đừng tự ái. Phương nghẹn lời. Ký ức vỡ òa mùi Hoàng Lan đằm thắm ngọt ngào. Hoa Sữa nồng nàn, xốc nổi bao nhiêu thì Hoàng Lan dịu dàng, sâu lắng bấy nhiêu. Hai nửa âm dương ấy hoà hợp tạo nên những mùa thu Hà Nội đẹp sánh Đào Nguyên. Và Phương biết, anh đã đánh mất một con người quý giá, nếu không muốn nói Quỳnh Như chính là "một nửa" duy nhất của đời anh. Từ đó trở đi, mọi cuộc kiếm tìm khác của Phương đều vô vọng, ngoại trừ giấc mơ siêu phàm về một miền cổ tích hoang hư.