8 - Mùi...

Phương chưa từng có khái niệm về công việc văn phòng. Vốn tiếng Anh tàm tạm là phương tiện duy nhất để anh bước vào nghề cạo giấy và gõ bàn phím máy tính.
Số lính đánh thuê cho nước ngoài trên chính quê hương mình đã kịp phát tướng với bụng bia đặc trưng. Họ đãi Phương một chầu túy lúy mừng thoát chết.
- Cứ ngỡ tao nhanh chân nhất, ai ngờ chúng mày khôn như rận.
- Thông cảm đi bạn. Người nhiều, việc ít lại cùng bằng cấp. Thằng nào cũng dấm dúi không tiện nói.
- A ha bây giờ mới biết bạn tốt nhỉ!
- Khai thật ngay tụi tao còn rỉ tai cho. Đi tàu mỗi tháng mày để dành được bao nhiêu?
- Hết sức khoảng hơn hai trăm Mỹ kim. Chưa kể hơn năm định kỳ về bờ xếp hàng điểm danh hàng tuần, chờ lượt sau. Cũng phải cả năm nữa.
- Thành ra công cốc. Thôi vứt hết đi tao chỉ cho vài chỗ đang tuyển nhân viên.
Nghề dạy nghề, Phương hòa mình vào cuộc sống tương đối nhanh. Anh nhảy xoành xoạch từ văn phòng này qua văn phòng nọ vì phải dùng thời gian thử việc người ta bố trí để… học việc, từ cách sử dụng máy vi tính trở đi.
Qua vài câu phỏng vấn sơ sài và những lời khai mập mờ về kinh nghiệm, Phương được tuyển ngay. Chân tiếp thị chuộng cần cù, không cần nhiều kỹ năng. Kỹ năng làm việc là cái thiếu trầm trọng không chỉ ở Phương mà ở tất cả người lao động. Hệ thống giáo dục chưa thể đáp ứng nhu cầu thị trường. Ở đâu cũng thấy các chuyên gia nước ngoài ra sức nhồi nhét, tái đào tạo một cách bắt buộc cho nhân viên mới. Dân Việt Nam sáng dạ nên người tuyển dụng lao động thường coi tiếng Anh là điều kiện cần và đủ để thu dụng.
Với đa số công việc đã đảm nhận, Phương không mấy tha thiết và mong muốn gắn bó dài lâu. Hằng ngày báo chí ra chiều thoả mãn, chạy dài số liệu vô cảm nói lên luồng đầu tư đang tăng dần. Khoảng cách giữa vốn đăng ký và giá trị thực hiện còn rất xa. Vậy mới đẻ ra hàng chục bãi đất trống giữa lòng thành phố sầm uất. Hàng rào gỗ sơn tới sơn lui năm này sang năm khác. Sau khi giải tỏa, đối tác Việt Nam chờ mãi mà cao ốc chọc trời hiện đại cứ nằm trên bản vẽ. Cuối cùng người ta san nền, xây nhiều trung tâm ăn uống, giải trí, thương mại tạm bợ cho thuê để lấy sức chờ tiếp. Đó là bề ngoài dễ đập vào mắt bàn dân nhất, chỉ trời biết cái tổng thể, cái vĩ mô mũi dài cằm vuông ra sao.
Đời sống xã hội cải thiện ở chừng mực tiên liệu được. Không thể phủ nhận đầu tư nước ngoài giúp tạo ra công ăn việc làm, tăng thu nhập cho quốc gia. Từ năm 1986 đến 2000 tổng cộng có đến 15 tỉ Mỹ kim của tư bản đổ vào Việt Nam với mục đích sinh lợi. Con số đầu tư trung bình hàng năm trên đầu người tròm trèm 15 đồng nếu xem dân số cỡ 70 triệu người. Con đường phát triển dựa trên cơ sở khai thác giá nhân công rẻ mạt còn lắm chông gai và không hề sáng sủa như nhận định. Bộ phận nhỏ dân chúng đô thị, bằng các cách khác nhau, được hưởng lợi trực tiếp từ công cuộc đầu tư này. Văn minh công nghiệp dần thành hình là cái lợi lớn nhất không thể đo bằng tiền bạc.
Khái niệm giải phóng sức lao động và cởi trói xuất hiện. Xét kỹ chúng ta đang hưởng cái mà chúng ta đáng được hưởng. Việc thay đổi cơ chế, định hướng, tư duy giúp nội lực xã hội hồi sinh. Đó là căn nguyên chính của sự thay da đổi thịt tuy chậm chạp nhưng rõ nét trên mọi mặt.
Điểm nhấn của nền kinh tế Sài Gòn là mấy ngàn văn phòng đại diện nối nhau bước vào. Có làm việc cho họ mới hiểu rõ sự hoành hành, thao túng thị trường rất ghê gớm. Cơ sở pháp luật phôi kỳ mang quá nhiều lỗ hổng chứ không phải kẽ hở. Người nước ngoài không cần luồn lách. Họ thẳng tiến bên cạnh mọi vật cản, trừ thủ tục hành chính đầy cảm tính, phiền toái đến vô lý. Nửa số văn phòng đại diện ẩn dưới lốt tìm hiểu thị trường. Đây là chiêu bài của nhóm doanh nhân "bờm", bị thôi miên bởi cục xôi trước mắt. Họ làm trung gian, chụp giựt, tranh giành nhiều hợp đồng nóng hổi của người mua luôn bận tâm đến hoa hồng, tại nhiều cơ quan nhà nước.
Chỗ đầu tiên tương đối gắn bó với Phương là một văn phòng đại diện thương mại của Singapore. Ông chủ Trịnh móc nối tuyển dụng tay Nam, gã kỹ sư kha khá nhưng bị thất sủng vì phe cánh trong liên doanh Pecho-imex. Nam được giao trọng trách chính tại cơ quan nếu không kể trưởng đại diện Trần thường xuyên qua lại, theo dõi chặt chẽ các hoạt động. Tham vọng của Nam quả là lớn. Hắn kéo cô vợ già vào ghế thư ký, xếp em họ lo tiếp thị và tuyển thêm hai kỹ sư chuyên ngành là Thạnh và Phương. Thạnh vốn bạn sơ giao của Phương, học cùng trường nhưng khác khoa. Nam xét nét hai người lạ hết sức kỹ. Hắn phỏng vấn, thử tay nghề, tra hỏi lý lịch rồi đến tận nhà ứng viên ra điều thăm hỏi nhưng để quan sát, định lượng định tính lòng trung thành.
Phương kiên quyết không làm tay sai. Nam nản chí. Ngặt nỗi Phương làm việc không sơ hở nên Nam chưa có lý do kiếm chuyện. Một ngày đẹp trời Nam vẽ đâu ra bản chi tiết điện đàm và sao truyền. Hắn qui cho Phương dùng phương tiện chung làm việc riêng, liên lạc với nhiều nơi, kể cả cái xứ khỉ ho cò gáy nào đó bên nửa kia quả đất. Phương quá đỗi ngạc nhiên. Nam bảo vợ ném cho Phương hơn trăm Mỹ kim tiền lương và yêu cầu Phương rời văn phòng ngay lập tức. Phương ra trung tâm sao truyền mua bản chi tiết. Thì ra Nam dùng đồ giả. Trước khi bỏ đi, Phương gởi bản sao này trong lá thư cho Trần đang ở Singapore, dĩ nhiên Phương không quên đề cặp tất cả mưu đồ tiềm ẩn của Nam. Trần đáp ngay máy bay sang Việt Nam, ông chủ nhỏ tế nhị đưa Nam xem thư của Phương.
Nam bắt buộc phải thải hồi vợ mình. Hắn cay cú với cả Trần. Đợi mọi thứ lắng dịu, văn phòng làm việc trơn tru Nam dại dột tỉ tê với ngài Trịnh về sự không cần thiết của Trần tại Sài Gòn. Ngoài bản tính gia trưởng cố hữu, quyết thu vén quyền lực, đố ai biết Nam còn âm mưu gì khác với người Singapore không. Tuy nhiên ngài Trịnh thấy lý do này đủ để chia tay Nam. Ông cũng chẳng thèm đôi co cùng Nam về mấy ngàn Mỹ kim công ty mẹ đã ứng trước cho Nam, giúp hắn mua nhà khi mới chuyển từ Vũng Tàu về Sài Gòn.
Nam lang bạt kỳ hồ, hắn kết thân với địch thủ của ngài Trịnh bên Singapore hơn một năm và lại rã đám vì nhiều lẽ. Nam dựa vào gốc gác của mình và quan hệ cũ ở Pecho-imex mở đại lý cho doanh nghiệp Tây dương sản xuất phao chống tràn dầu. Nghe nói vợ hắn quá tủn mủn nên Pecho-imex kiên quyết nói lời từ giã. Họ cắt đứt quan hệ với Nam. Tất cả tàu dầu, tàu phục vụ họ đang mua hoặc sắp mua đều chèn thêm khoản thay phao chống dầu cũ của Tây dương bằng loại phao của Nhật, thứ hàng mà công ty của xếp Trịnh bên Singapore là đại lý độc quyền khu vực đông nam Á.
Thạnh là người cuối cùng Trần tin cậy. Bấy giờ Thạnh tương đối thoải mái, hắn gần như thay Nam phụ trách mọi việc nếu không kể hai thầy giáo luống tuổi khá uy tín của trường Hàng hải mới vào, chủ yếu làm bán thời gian cho Trần. Trần rất coi trọng chất xám và biết mua bán mối quan hệ tình cảm của hai thầy giáo với hàng chục thế hệ sinh viên trường Hàng hải. Họ từng là học trò hoặc bè bạn đồng trang lứa với nhau. Họ nắm rất nhiều chức vụ, vị trí quan trọng trong ngành, đủ để đem về cho Trần lợi nhuận gấp nhiều lần lương tháng Trần phải trả cho "cộng tác viên" của mình.
Trần còn có lối đầu tư tưởng chừng phiêu lưu nhưng rất hữu hiệu. Ông ta luôn tìm hiểu, tạo điều kiện giúp đỡ mấy vị nắm cơ may trở thành yếu nhân, dù trước mắt họ chỉ là nhân viên quèn ăn theo nhiều bữa tiệc giao lưu, tiếp thị. Không ít người bị mắc bẫy kiểu đó. Sau này, gần nửa số hợp đồng lâu dài của Trần là sự trả nghĩa. So với đối thủ cạnh tranh, Trần chiếm lợi thế không thể phủ nhận.
Nơi cuối cùng Phương làm thuê là liên doanh lỏng lẻo chuyên sửa chữa tàu và giàn khoan. Đối tác Việt Nam ném cho họ mảnh đất bùn lầy ngoại thành như vốn góp, mặc sức họ muốn làm gì thì làm. Cũng có Phó tổng giám đốc người Việt ngồi trực tòa văn phòng sang trọng nhưng trống rỗng và rỗi việc. Ông ta dùng xe hơi, điện thoại đi động để hẹn hò bè bạn đi ăn nhậu là chính.
Phương phụ trách kinh doanh phụ tùng, nguyên vật liệu trong công ty mang danh sản xuất. Đơn giản thôi, hàng hóa nhập bằng hạn ngạch xây dựng cơ bản được bộ Thương mại duyệt miễn thuế hàng năm, thoải mái tung ra thị trường lấy lãi. Đó là vốn của đối tác nước ngoài trong liên doanh. Họ cũng tuyển nhiều công nhân cho các công trình che mắt lấy lệ. Ở đa số công trình họ là thầu phụ, thời gian hoàn thành phân đoạn việc khoảng sáu tháng, vừa đủ như qui định lúc ấy về thời gian thử việc cho người lao động có bằng trung học kỹ thuật. Thế là cứ sáu tháng họ tuyển công nhân một lần, đăng báo xôm tụ. Họ tránh được khoản bảo hiểm xã hội và y tế dễ dàng. Công nhân thiệt thòi nhưng không ai đứng ra bênh vực.
Phương biết chẳng tìm đâu ra chỗ làm ra hồn nên đành cố thủ luôn tại đấy. Vả lại công ty tin những người như Phương hiểu họ đang làm gì nên lương và thưởng khá hậu. Trên cơ sở ấy Phương tự lần ra kẻ hở của chủ và bắt đầu tích vốn.
Phương nhắm vào vô số công ty be bé nơi có bạn bè ủng hộ với nhiều hợp đồng sửa chữa tàu biển nhỏ và vừa. Anh cho ký hợp đồng sơ bộ cung cấp hàng, ma mãnh rải đều các lần giao hàng theo tiến độ sửa chữa. Tổng kết số hàng được giao chỉ soạn ra sau đợt cuối cùng. Cộng thêm thời gian ghi nợ, nghiễm nhiên khách của Phương chiếm dụng vốn người bán khá lâu, tới khi khách hàng của người mua thanh toán. Chưa kể khoảng khất nợ tùy tiện vì luật phá sản mới nằm trên văn bản. Phương được chia 50% số lãi của món nợ này, theo lãi suất kỳ hạn của ngân hàng. Nói chung chính công ty của Phương cũng chiếm dụng vốn của nhà cung cấp nước ngoài nên họ bán được hàng là mừng, ít khi hạch sách. Phương cũng tỉnh táo, chưa bao giờ bị giựt nợ nên uy tín cao. Gần tròn năm Phương đã được cất nhắc, chính thức phụ trách mảng buôn bán vật tư. Cảng Sài Gòn tàu buôn ra vào tấp nập. Đây cũng chính là nguồn phụ tùng tàu biển dồi dào. Người đi biển thường thuộc các nước nghèo, máy móc thứ gì bán được là họ xà xẻo ngay. Mối lái đánh hơi rất nhạy, luôn gọi Phương khi có hàng độc. Nhiều chi tiết máy Phương mua dự trữ, khi đẩy được lãi hơn cả xổ số.
Phương kém thiện cảm với người nước ngoài anh từng tiếp xúc và làm việc. Số ít trong họ thật sự giỏi giang còn phần đông là kẻ đất mẹ không dung nên lạc đến đây. Họ tồn tại được vì nhiều lẽ. Họ đáng tin hơn người bản xứ thông minh cần cù nhưng thiếu trung thực. Họ gần gũi với chủ, người tương đồng chủng tộc với họ. Họ điều hoà khéo léo lợi ích riêng chung trên cơ sở trách nhiệm tận tụy. Họ hưởng lương cao trên mặt bằng giá cả sinh hoạt tương đối dễ chịu. Họ thích ánh mắt tôn sùng của xã hội dành cho họ.
Không ít thì nhiều, người nước ngoài đem theo những mực thước mới pha trộn vào lề thói đóng băng của người Việt. Họ sòng phẳng, kỷ luật tốt, đúng giờ và mang tác phong công nghiệp. Họ trọng lý hơn tình. Nếu dùng tình, họ không bao giờ coi đó là nước đường cùng khi đuối lý. Tình của họ là thứ tinh thần hoàn toàn độc lập với lý. Họ dễ dàng bỏ qua xung khắc cá nhân với cộng sự Việt Nam. Họ đánh giá con người trong công việc. Họ dùng tiền mua tất cả, từ gái đẹp đến tiện nghi sang trọng và sự nghiêm cẩn của bề dưới.
Có lần nhóm người Mỹ tại một quầy rượu trò chuyện:
- Châu Á này tôi thích sống ở Singpore nhất, sạch sẽ, an ninh và văn minh.
- Tôi chỉ sướng Việt Nam. Đi khỏi quê mẹ đồng nghĩa với tha phương cầu thực. Tôi sống để thấy Việt nam sớm phát triển như Sing - Phương trả lời.
- Còn lâu bạn à. Singapore thiếu hẳn những cô gái xinh đẹp dường kia - Tên Mỹ hất mặt qua chiếc bàn cạnh đó - Ô la la… thiên đường hiện ra sau tiếng huýt sáo.
- Bụng ai chẳng chứa rác.
- Tao nghe nói xưa kia người Việt Nam rất ghét me Tây. Bây giờ họ còn ghét không?
- Nhân dân ở đâu cũng không ưa bọn can thiệp ngoại bang. Giờ đã khác, chắc mày hiểu.
- Đúng, đúng! Nhân dân Việt Nam khôn đáo để. Mỗi người Mỹ từ chối lời đề nghị hạ mức lương trên sổ sách để tránh thuế thu nhập cho họ.
- Tôi không nói tinh thần tôn trọng pháp luật của các ông tồi. Nhưng đâu phải tất cả những gì của Mỹ đều đáng học tập.
- Chúng mày còn rất ghét người Mỹ. Vẻ xởi lởi là hình thức.
- Mày quá nhạy cảm đấy. Tao và mày vẫn có thể nói chuyện được mà. Sự đối thoại bình đẳng luôn cần thiết.
Philippe là chồng cô bé Quyên thư ký văn phòng kinh doanh của Phương. Hắn đại diện cho tập đoàn sản xuất sơn tàu biển khá lớn ở châu Âu. Quyên tôn thờ Philippe ra mặt, chuyện phiếm của cô ít khi nào thiếu tên chồng mình. Quyên tốt nghiệp trường Sư phạm Ngoại ngữ, khoa Pháp. Họ yêu nhau nồng thắm cỡ hai năm. Tháng đầu tiên làm vợ ngày nào mắt Quyên cũng đỏ hoe. Hóa ra cô chưa hưởng tuần trăng mật. Ba ngày sau đám cưới linh đình ở nhà hàng Rex, Philippe tếch về Pháp nghỉ hè mình ên. Thỉnh thoảng Phương thông qua công ty đặt mua sơn của Philippe, hắn rất vui vẻ và hay thòng câu "Tuyệt lắm Phương à, cuối tuần tao mời mày đi ăn tối. Thứ bảy nhé, bảy giờ ba mươi tao sẽ điện thoại cho mày". Lần đầu Phương sụp hố. Anh sắp xếp giờ giấc để dài cổ chờ Philippe. Tuần sau thấy mặt Philippe, hắn vô tư như chẳng có chuyện cho Phương leo cây vừa qua. Phương bực. Philippe lãi nhãi đến lần thứ ba thì Phương chửi thẳng "Quên đi. Tao không thèm lời mời chết tiệt của mày". Từ đó Philippe chỉ làm việc với Phương qua điện thoại.
Một hôm Phương tình cờ gặp Philippe và Quyên đang ăn sáng. Hắn nài bằng được Phương ngồi cùng bàn. Cực chẳng đã, Phương cố nuốt cho nhanh rồi trả tiền cả ba xuất. Philippe tỏ vẻ ái ngại, hắn bảo hắn nợ Phương buổi sáng kế tiếp. Phương cười nhạt:
- Mày nợ tao nhiều lắm, sao trả hết?
- Mày viễn vông quá. Người Tây dương chúng tao sòng phẳng. Á Đông hay đa lễ.
- Ông cha tao có câu "nhập gia tùy tục", quả bóng ở chân mày đấy. Đừng nên sút cả bùn vào chiếc áo của gia chủ.
Loại Tây đất mẹ không dung, dạt bụi dạt bờ đến Vệt Nam mưu sinh Phương gặp hằng ngày. Cỡ bự như Gerard, chủ tịch công ty thì vài tháng mới đảo qua Sài Gòn nắm tình hình. Gerard chính gốc Ba Lê, phong thái khác người. Lão không bao giờ dán một xu trong túi làm bùa khiến các tài xế bị lên lịch đưa đón lão méo mặt dài dài. Việc đầu tiên Gerard thường làm khi bước vào trụ sở công ty là chào hỏi tất cả mọi người. Hắn bắt tay nam giới và hôn hít phụ nữ từ bàn tiếp tân tầng trệt lên đến lầu ba. Mức độ thái quá sẽ phụ thuộc vào sắc mạo người được hôn, càng đẹp càng bị ôm chặt, hôn lâu. Nhiều người rất khó chịu nhưng không ít chị em sướng ra mặt, hớn ha hớn hở mỗi lần nghe tiếng Gerard từ xa. Lần kia Gerard xoi mói ánh mắt thiếu thiện cảm và cái bắt tay lạnh nhạt của Phương:
- Đó là phép lịch sự Tây dương. Chú nhóc này chắc cứng đầu lắm.
- Xin lỗi ông đây là Sài Gòn chứ không phải Ba Lê.
- Văn hóa không biên giới!
- Nhưng văn hóa sẽ gây ra xung đột đáng tiếc nếu thiếu tế nhị.
Có lẽ điều lịch sự duy nhất ở Gerard mà phương cảm nhận được chính là lão không chỉ tay tống cổ Phương ra khỏi công ty. Nhiều bận trên những chuyến bay Sài Gòn - Hà Nội Phương nhác thấy Gerard cặp kè với một mụ buôn tranh trừu tượng kiêm tư vấn đầu tư, anh cứ lờ như chẳng hay.
Đám người nước ngoài thiệt thòi nhất chính là chuyên gia Nga trong Pecho-imex. Ngày mới thành lập liên doanh người Nga chiếm phần lớn chức danh chủ chốt, công nhân dàn khoan đa số da trắng. Họ có hẳn mấy dãy nhà năm tầng tạo thành một làng đồng chủng tộc rất đoàn kết. Năm 1991 Mạc Tư Khoa nhốn nháo, dân Việt tiếm dần quyền hành. Lần đầu tiên xuống Vũng Tàu làm việc xếp Trần bảo Phương gặp Leonov và Levinchuck. Trần dặn thêm cứ trình bày tất cả vấn đề kỹ thuật cho hai người đó hiểu. Giá cả, chiết khấu và thời điểm giao hàng để dành nói với phó tổng giám đốc người Việt Nam. Bữa trưa nhà hàng đặc sản, rượu Johnny Walker ngà ngà Leonov rặn từng chữ tiếng Anh:
- Mày cố đoạt mớ ngon này nhé. Chúng tao bây giờ là kẻ ngoài cuộc. Luôn phải lấy lòng quan chức Việt Nam để được gia hạn hợp đồng lao động. Nó đẩy về Nga thì húp cháo kiều mạch.
- Chung cư năm tầng dạo này vắng vẻ quá.
- Ừ, công nhân dàn khoan bị thải hồi gần hết. Con gái mới sang đông lắm.
-???
- Đời sống bên kia khó khăn, lương bổng ít, chính phủ nợ ròng rã. Họ lấy danh nghĩa người nhà chúng tao qua đây làm đủ nghề. Buôn bán. Lao động chân tay. Thậm chí làm điếm. Khối người Việt đi tìm của lạ tóc vàng da trắng cho biết mùi.
- Ông không đùa chứ.
- Sở thích của mày như thế nào tao bảo chúng gọi điện cho. "Một vé" - Leonov nói tiếng Việt lơ lớ - "Một vé một đêm". Sướng nữa thì thuê xe hơi đón em về Sài Gòn mấy hôm. Đi với lũ này chỉ tốn tiền rượu thôi. Rượu Lúa mới chứ không phải Hennessy. Xe hơi cho kín đáo ấy mà. Chúng mày mấy đứa nó cũng chiều. Tình cảm là chính. Các ả rất thích không khí Sài Gòn. Đỡ nhớ nhà. Vũng Tàu buồn tẻ lắm.
Levinchuck bực bội nhìn sang Leonov và văng tục bằng tiếng Nga. Levinchuck sử dụng thành thạo tiếng Việt, anh ta phân trần:
- Chắc bạn nghĩ Leonov sắp thành ma cô dẫn gái?
- Ồ, vui thôi mà. Xin lỗi vì tôi chăm chú nghe Leonov. Tôi từng ghé cảng Vladivostok trong thời gian đi tàu viễn dương. Tôi muốn nghiệm trong câu chuyện này ý nghĩa khác. Không phải trò trác táng!
- Chúng tôi đáng trách lắm nhưng quê hương đang rối ren. Đành tự lo thân trước. Tôi muốn nói đến thái độ nhu nhược của chuyên gia Nga trong liên doanh.
- Tôi thông cảm với anh.
- Người Việt Nam rất tâm đắc khi so sánh thương trường với chiến trường. Các bạn vốn là những chiến binh tài tình. Tuy nhiên luật kinh tế hiện thời hơi thiếu công bằng. Doanh nghiệp nào cũng sợ thuế quan, sợ chính quyền một phép. Văn bản, qui định chồng chéo biến công chức thành ông vua không ngai nắm trong tay quyền sinh sát đáng gờm. Vô hình chung chính quyền và doanh nghiệp nằm ở hai chiến tuyến.
- Chúng tôi cần học hỏi nhiều trên con đường tự do hoá thương mại. Tin hay không tùy anh, một giáo sư tên tuổi giảng cách làm hoa mắt viên chức thuế trong khóa bồi dưỡng kiến thức ngắn hạn như sau: Khi làm sổ sách nhất thiết phải tạo ra năm bảy sơ sót dễ bổ xung, sửa chữa ví như quên chỗ này hụt chỗ kia. Người ta phát hiện ra ngay và yêu cầu làm rõ, cộng thêm hai ba mục ngoài ý muốn, doanh nghiệp giành được sự chủ động cần thiết.
- Người Nga hiểu điều đó nhưng tư bản cũ không thể hiểu được. Vụ Coca Cola là điển hình. Các vị áp dụng thuật chiến tranh du kích trong thương trường. Họ là con thiêu thân đầu tiên phải trả giá. Tiền lệ này rất tệ cho tương lai công cuộc kêu gọi đầu tư nước ngoài của Việt Nam.
- Báo chí đổ xô dẫn chứng không thiếu nguyên nhân nào. Con đường kinh doanh của họ không đúng như cam kết ban đầu trong dự án khả thi lập liên doanh.
- Kinh doanh tự mang trong mình nó sự rủi ro. Dự án phải mềm dẻo và linh hoạt, nếu không cần gì luật phá sản. Cái nguyên nhân rõ ràng nhất nhưng không hề được đề cặp là vấn đề con người của các bạn. Rõ ràng cán bộ phụ trách của đối tác Việt Nam đã bị mua chuộc hoặc bị thao túng vì thiếu kiến thức lẫn kinh nghiệm.
- Anh nhận xét chí lý như chuyên gia kinh tế cao cấp.
- Tôi nguyên là giáo viên Kinh tế Chính trị Marx - Lenine của trường đại học Lomonosov. Vợ tôi người Việt. Cô ta là học trò của tôi. Quay lại chủ đề chính, người Nga sẽ gọi mười mấy triệu Mỹ kim Coca Cola trả cho Việt Nam để trở thành công ty trăm phần trăm vốn nước ngoài là sự thể hiện tình hữu nghị quốc tế tư sản.
- Còn tình quốc tế vô sản là cuộc đàm phán dẳng dai nhằm xác định tỉ giá Rúp - Đô la ở những khoản nợ cũ của chúng tôi với Liên Xô hôm qua.
- Đúng vậy. Chúng ta là lũ dân đen ngoài cuộc, nên hiểu nhau hơn là hậm hực. Phải học thôi bạn ạ. Tôi đang học, đã học và sẽ học mãi. Kiến thức giúp chúng ta thoát khỏi vũng lầy nghèo đói.
- Ông biết chợ hoa tết Nguyễn Huệ nổi tiếng giữa lòng Sài Gòn không?
- Năm ngoái gia đình chúng tôi chụp khá nhiều ảnh ngoài đấy.
- Bài học thực tế làm ngạc nhiên nhiều học giả và lãnh đạo kinh tế. Họ thắc mắc tại sao cuối giờ nông dân không bán quách hoa ế mà hủy hết hoặc đem xuống thuyền chở về vườn. Có hơn không mà!
- Họ còn biết thắc mắc là khá lắm rồi. Chức trách của họ là phải giảng giải, hướng dẫn cho dân chứ không phải cắp sách đi học bài ABC về kinh tế. Những người nông dân kia làm đúng. Họ quyết không tạo ra thói quen mua hoa rẻ vào giờ chót ở người tiêu dùng.
- Tự tôi cũng thấy làm lạ. Người Việt Nam chúng tôi có câu nói rất hay "Phú quý sinh lễ nghĩa" nhưng một thời nó luôn được khai thác kèm theo thái độ dè bĩu.
- Ý nghĩa tích cực của câu đó hay lắm. Được ăn ngon mặc đẹp xã hội mới ngẩng đầu lên. Cái thực vực cái đạo mà.
- Mặt trái của thịnh vượng chính là sự suy đồi đạo đức. Các giá trị truyền thống mai một.
- Trong buổi hỗn mang điều đó rất bình thường. Ý chí không chưa đủ, tri thức rất cần để cảnh tỉnh lương tâm. Cậu em vợ tôi quậy phá lắm. Hắn ở tù về, hết đoàn thanh niên đến công an phường, hội cựu chiến binh vận động tìm việc làm hoàn lương cho hắn. Người ta bảo đó là tính nhân nghĩa của dân tộc Việt Nam. Nhớ lúc hắn chưa tiền án tiền sự, chạy vã mồ hôi chẳng ai đoái hoài, gia ân. Cái này tiếng Việt gọi là gì nhỉ…?
- "Nước đến chân mới nhảy" hoặc "Chăm ngọn quên gốc".
- Sự vô lý tồn tại trong rất nhiều mặt của xã hội. Đại khái như nói cha mẹ phải nhớ ơn con cái vì họ là quí tử làm rạng danh nòi giống vậy!
Jean Pascal phụ trách tài chính và nhân sự trong công ty Phương. Không rõ hắn thực sự thâm hiểm hay đám thầy dùi An Nam vẽ ra cách tăng lương quái gở. Dịp thị trường ngoại hối vùn vụt leo thang, hắn tuyên bố đồng loạt tăng lương toàn công ty. Con số cuối cùng hắn nhân ngay cho tỉ giá ngân hàng nhà nước và giữ cố định luôn. Tính xuôi tính ngược thu nhập người lao động giảm so với trước và tiềm ẩn nguy cơ mất giá hằng ngày. Nhiều người uất quá kéo nhau chặn đường thư ký phòng nhân sự. Cô ta khéo chĩa mũi dùi sang Pascal. Pascal biết, hắn đuổi việc những kẻ phản đối.
Hôm ấy Phương xuống kho, anh đi ngang chỗ Pascal đang la ó bằng tiếng Pháp trước khoảng hơn chục công nhân:
- Đầu chúng mày chứa toàn óc bò. Giày dép kia chỉ hợp khi nhảy đầm thôi. Chó chết!
Hóa ra hắn dặn mang giày chống trượt để ra dàn khoan, mọi người không rõ. Phương dừng bước nhỏ nhẹ:
- Ông cần tôi phiên dịch cho họ hiểu không?
- Mày nói đi.
- Họ bảo mày nên kiếm mấy thằng Nam Hàn học võ trước khi chửi họ là thú vật - Phương nhấn mạnh chữ "mày" và "thú vật".
- Tao chưa nghe thằng nào nói mày đã dịch. Mày muốn kiếm chuyện với tao hả?
- Tất cả người lao động Việt Nam sẽ phản ứng như vậy nếu hiểu được câu chửi bằng tiếng mẹ đẻ của mày. Cha ông mày biết rõ điều đó hơn ai hết. Tin tao đi.
Pascal lộn tiết, hắn bẻ đôi cây viết đang cầm trên tay. Trước mặt Phương không còn Pascal. Đó là một thằng Tây mũi cà chua, mặt đỏ như gấc đang mâm mê, uốn cong chiếc roi ngựa. Chẳng hiểu chuyện sẽ diễn tiến ra sao nếu vài người công nhân già không đẩy Phương đi giữa cái nhìn đằng đằng sát khí của Pascal.
Khi Phương nghe bảo Pascal từng nhận bảo trợ hai đứa trẻ mồ côi anh lại không cho đó là đơm đặt. Bản tính con người luôn mâu thuẫn. Để tìm bình đẳng, sự vươn lên tự thân giá trị hơn nhiều cách thụ động cố lôi kẻ đứng trên xuống ngang hàng mình.
Khả năng học hỏi, thu nhận kiến thức của người lao động Việt Nam, cái làm nhiều nhà đầu tư nước ngoài coi như lợi thế khi bước vào kinh doanh bắt đầu phải trả giá. Hàng loạt nhân viên Việt Nam, sau thời gian làm việc để tích lũy vốn và kiến thức đã nhẩy ra lập doanh nghiệp riêng, quay lui cạnh tranh với công ty cũ. Trang quảng cáo của các báo thỉnh thoảng lại có khung vuông với lời lẽ hằn học "Ông (bà) X, kể từ ngày Y không còn là nhân viên của công ty chúng tôi. Xin quí khách hàng lưu ý, mọi giao dịch cũ được bàn giao cho nhân viên mới v.v..".
Trọng và Hà là phó của tay Khôi trưởng phòng tiếp thị trong một công ty giao nhận hàng hóa Singapore. Khôi đi đúng con đường Johnny Chu, tổng giám đốc của họ từng qua. Chu sang Việt nam dưới danh nghĩa đại diện thường trú công ty mẹ của hắn ở Singapore. Công ty ấy liên hệ mật thiết với hãng tàu nhà nước nơi Khôi là nhân viên ít nhiều uy tín. Khi đã quá rành rẽ đường đi nước bước tại Việt Nam, Chu mở công ty riêng và âm thầm lôi kéo nhiều nhân viên Việt Nam có năng lực với mức lương hấp dẫn.
Đang thuận chèo mát mái thì bạn Phương nghe lời rủ rê của Khôi đồng loạt xin nghỉ. Chu nổi đóa chửi rủa không tiếc lời. Hắn gởi hàng trăm văn bản thông báo tới khách hàng yêu cầu mọi người cạch mặt mấy đứa "ăn cháo đá bát!".
Khôi trở thành Chủ tịch ban quản trị kiêm Giám đốc công ty tư nhân. Trọng, Hà và mấy người nữa góp 50% cổ phần. Có lợi thế về kinh nghiệm, vốn liếng Khôi lèo lái công ty tương đối thành công nhưng không ngừng chèn ép đám chim non mới ra ràng. Kế toán trưởng là tay chân thân tín của Khôi tháng nào cũng soạn đến ba bản báo cáo tài chính. Một bản hình thức dành cho cục thuế sở tại. Một bản phổ biến ra mọi người. Bản cuối cùng của riêng Khôi với thu chi thực tế và nhiều trò gian trá lấp liếm. Thực tâm Khôi chẳng tốn lòng với ai. Hắn lôi kéo tìm kiếm đối tác nhằm thu hút khả năng lẫn khách hàng của họ, đồng thời sẻ chia rủi ro trên con đường lập thân may rủi khôn lường. Công ty bắt đầu ổn định Trọng và Hà biến thành cái gai cần phải loại trừ trong mắt Khôi.
Trọng, Hà ngậm quả đắng nhưng đành làm ngọt vì thiếu vốn sống và chưa thấu hiểu ngọn ngành luật chơi của thương trường. Được chừng gần năm hai đứa bèn yêu cầu Khôi cân đối công nợ, tài sản để rút cổ phần. Khôi không ngạc nhiên. Dường như hắn đã tính sẵn nước này. Tuy số vốn của Trọng, Hà không bị sứt mẻ nhưng lợi tức thu vào chỉ tầm tầm lãi suất tiền gởi không kỳ hạn của ngân hàng.
Phương cũng không tránh được to tiếng với xếp Tây trực tiếp của mình lúc đó là Jacques Vivares. Hắn một mặt giễu cợt với mọi người "Tổng thống chết còn có người thay", mặc khác dỗ ngon dỗ ngọt Phương ở lại. Hết cách, hắn bày trò bẩn thỉu nhằm bôi nhọ Phương. Hắn tra xét hàng trăm chứng từ thanh toán cũ và yêu cầu Phương giải trình cặn kẽ hơn.
- Được thôi, tôi sẽ móc tiền túi mình trả công ty ở những khoản ông không chấp nhận. Ông mới tặng tôi thêm lý do để nghỉ việc càng sớm càng tốt.
- Vậy lý do ban đầu của mày là gì?
- Bộ phận kinh doanh này hoạt động hoàn toàn trái pháp luật hiện hành của Việt Nam.
Vivares cụp đuôi bất lực và nhanh chóng giải thoát cho Phương.
Thái độ của Vivares còn có lý nhưng với Chu thì Phương thấy hắn đánh giá hơi kém người lao động Việt Nam. Đất nước Singapore của hắn từng đi lên nhờ những người như Phương và bè bạn anh. Thuở mới lập quốc Singapore đất hẹp người đông, nghèo nàn lạc hậu. Họ ít vốn nên chọn con đường phát triển thương mại, dịch vụ. Giờ đây hai mũi nhọn này vẫn hết sức giá trị cho con sư tử ấy. Singapore trở thành kho hàng hóa trung gian lớn giữa người tiêu dùng Á châu và các nhà sản xuất khắp nơi trên thế giới.
Trọng, Hà và Phương tình cờ cùng đứng ở điểm xuất phát mới. Ba người chụm đầu quyết tự mở hướng đi cho thế hệ của mình. Một công ty dịch vụ thương mại, giao nhận quốc tế dần dần thành hình. Hơn nửa số thương nhân nước ngoài đến Việt Nam và phát đạt không phải vì họ nhiều vốn. Sẵn vốn rủng rỉnh ai cũng có thể làm giàu. Không vốn nhiều mà vẫn thẳng tiến trên con đường khai thương chính trực mới đáng nói. Ngoại nhân thành ông thành bà trên xứ sở này được thì không lý do gì họ, những người chủ thực sự của đất nước lại chùn chân, ái ngại dấn bước vào nền kinh tế với giấc mơ sung túc cho bản thân và gia đình. Xa hơn nữa họ muốn trở thành cá thể hữu ích trong cộng đồng mới. Đó là lớp doanh nhân cầu tiến, có hoài bão và lý tưởng.
Họ là ai? Họ sinh ra trong chiến tranh. Lớn lên với hòa bình. Đến tuổi thành niên họ tiếp xúc ngay với cánh cửa hé mở dè dặt. Họ ham học hỏi, dù bài giảng trên ghế nhà trường hôm qua chẳng ăn nhập gì với thực tế nhưng họ ít nhiều tự trang bị cho mình một số kiến thức. Từ địa vị người làm thuê cho ngoại bang họ có quyền phấn đấu để đoạt chỗ đứng xứng đáng trong xã hội.
Trẻ trung, năng nổ và nhạy bén nhưng nhóm thanh niên muốn lập công ty riêng gặp không ít khó khăn tưởng chừng không thể vượt qua. Không đơn thuần là đống thủ tục hành chính quan liêu.
Họ mất cả chục ngày làm hồ sơ cá nhân, đếm không xuể các con dấu đỏ chót. Dự án kinh doanh hết sức tâm huyết, tỉ mỉ và công phu nhưng bị từ chối thẳng: không đúng mẫu hiện hành! Đành ném cho tay cò mắt chột dường như chưa học hết phổ thông làm hộ. Hắn ngoáy toàn thứ trên trời nhưng cán bộ tiếp nhận hồ sơ chẳng hề bác. Trăm thứ giấy khác bị hành đủ kiểu, đôi khi dấu phẩy đánh sai cũng mất mấy hôm chỉnh sửa. Một cửa, một dấu đâu chẳng thấy, để được thành phố cấp phép thành lập công ty cần đến hàng tá giấy chấp thuận nho nhỏ của ngành ngang ngành dọc, cơ quan môi trường, địa phương đặt trụ sở. Nơi nào cũng hành hạ đủ đường, tiền tới lui, phong bao trà nước lậm sâu.
Hết khâu cấp phép đến đăng ký kinh doanh. Vốn pháp định bốn trăm năm mươi triệu phải nộp bằng tiền mặt vào ngân hàng. Thói quen dân chúng chỉ thích trữ ngoại tệ mạnh. Vậy là hàng lô hàng lốc con buôn tiền chầu chực định cho vay cắt cổ. Cuối cùng mọi người phải mở sổ tiết kiệm ngoại tệ, dùng sổ thế chấp vay tiền đồng khuân qua nộp vô tài khoản phong tỏa vì loại trương mục này không cho phép chuyển tiền từ nơi khác vào.
Sự nghiệp hành chính của ban bệ cấp cao đến đây chấm dứt. Thiên thu sau cũng chẳng thấy bóng dáng viên chức nào xuống kiểm tra xem doanh nghiệp hoạt động ra sao, có ảnh hưởng môi trường không. Thay vào đó là những phiền toái khác.
Tuần đầu tiên mở cửa văn phòng công an khu vực kết hợp với cán bộ phường hỏi thăm:
- Cho chúng tôi xem giấy tờ hoạt động. Sao không khai báo?
- Chúng tôi thực hiện đúng luật công ty, trong ấy không đề cặp khâu tấu trình địa phương.
- Láo, luật nào.
Biết đám thanh niên không phải vừa, họ giở quẻ phạt vì bảo vệ quên đăng ký tạm trú, phạt vì chưa mua thiết bị cứu hỏa. Hai ngày sau đội cứu hỏa phường khệ nệ ôm vài bình CO2 đến, công ty miễn cưỡng mua với giá đắt gần gấp đôi thị trường.
Đắt nhất là kinh nghiệm báo cáo thuế. Hai tháng đầu tiên chuyên quản ra oai bằng cách loại gần hết chi phí một cách tùy tiện ra khỏi giá thành. Trên sổ sách hiện lên số lãi khổng lồ nên mức thuế cao chóng mặt. Họ phải è cổ đóng tiền ngu mệt nghỉ. Phòng thuế, cục thuế không có thời gian biểu nhất định, bất cứ lúc nào họ cũng có thể cử người xuống hạch sách, nhũng nhiễu làm gián đoạn công việc của cơ sở. Dù công ty mới thành lập nhưng hầu hết đều phải tạm đóng thuế lợi tức trên căn cứ giống như cái bẫy. Thật vậy, sắc thuế này dựa vào con số ảo, lấy từ bảng dự trù và định hướng kinh doanh. Luật ở đây xin miễn dự trù lỗ một thời gian để chiếm thị phần, lỗ vì bất cứ lý do nào khác. Không lỗ thì lãi. Gắng mà nặn ra khoản lãi hợp lý nhất để đóng trước 32% thuế lợi tức. Kết toán năm tài chính họ sẽ bớt đầu này trừ đầu kia để làm sao cứa thêm càng nhiều càng tốt, nhất quyết không để chuyện hoàn xảy ra. Với họ doanh nghiệp trở thành đối tượng lao động như các bài học kinh tế chính trị người ta từng thao thuyết trên giảng đường đại học.
Thị trường Việt Nam là mớ bòng bong của những điều phi lý. Công ty Phương tồn tại không quá ngắn, âu cũng nhờ may mắn. Thời điểm này toàn quốc hiện hữu khoảng tám chín ngàn công ty trách nhiệm hữu hạn và doanh nghiệp tư nhân. Năm ngàn đơn vị chốt ở Sài Gòn. Một phần ba cơ cấu là sở hữu của nhiều văn phòng đại diện qui mô nhỏ và vừa. Họ cho người Việt đứng tên sáng lập, mọi hoạt động đều do người nước ngoài thao túng. Họ tránh được khoản chênh lệch trong giá thành nhiều dịch vụ xã hội có sự phân biệt đối xử giữa nội địa và ngoại bang như chi phí viễn thông, điện nước và tiền nhân công tối thiểu. Công ty trách nhiệm hữu hạn ngầm thuộc sở hữu của người nước ngoài hoàn toàn khó ổn định. Chỉ cần thị trường biến động xấu họ sẽ đóng cửa ngay, đẩy hàng loạt nhân viên vào đội ngũ thất nghiệp chưa bao giờ thống kê chính xác. Phần đáng kể tất nhiên là các công ty vệ tinh mọc xung quanh nhiều doanh nghiệp lớn của nhà nước. Chúng như những con đỉa đói. Chủ nhân thực sự của chúng là quan chức lắm quyền. Hợp đồng béo bở họ đều khéo léo dàn xếp cho vệ tinh lãnh trọn.
Loại công ty tự thân vận động, lèo lái bằng ý chí lập nghiệp như của Phương không chiếm đa số. Bức tranh như vậy hoàn toàn lệch lạc và khó làm tiền đề tạo dựng thành phần kinh tế tư bản tư nhân, động lực chính cho thị trường tự do hòa nhập toàn cầu. Bối cảnh kinh tế diễn biến theo nhiều chiều, nhiều qui luật không tương thích và hết sức tùy tiện.
Đơn cử có lần Phương nhận được thư mời chào giá cùng một mặt hàng cho hai nơi, điều kiện giao hàng và thanh toán như nhau. Nơi thứ nhất là công ty vệ tinh, nơi thứ hai là người mua cuối cùng. Theo đúng bài bản trong sách, Phương gởi cho công ty vệ tinh bảng giá cao hơn người mua thực tế 5%. Cộng thêm lợi nhuận và chi phí liên quan, ít nhất người mua thực tế sẽ nhận từ vệ tinh bản chào giá cao hơn bản chào giá trực tiếp của Phương 15%. Thế mà vệ tinh kia ký được hợp đồng chứ không phải công ty của Phương. Phương không thể nhầm lẫn vì hàng là đặc chủng đồng bộ cho ngành cứu hộ, trên hồ sơ bảo hành phải ghi rõ tên con tàu sử dụng mới có giá trị.
Thường cuối năm việc kinh doanh mới dễ thở. Chẳng gì mới mẻ. Khách hàng lớn của Phương là doanh nghiệp nhà nước. Họ được cấp trên duyệt kế hoạch rất máy móc về thu chi, sửa chữa, mua sắm cho cả bốn quí. Cảnh giác với rủi ro tiềm tàng họ xoay trở cực nhọc suốt chục tháng. Thời gian cuối họ mới tung hết ngân sách ra, cố làm sao cho không đồng nào bị chuyển sang dự toán năm sau.
Số ít các tập đoàn kinh tế lớn, dưới sở hữu nhà nước, luôn giành siêu lợi nhuận là những đơn vị mang lợi thế độc quyền. Sáu bảy mươi phần trăm còn lại lỗ chồng lên lỗ, nhà nước chịu áp lực quá lớn bởi thất thu thuế. Cổ phần hóa là bước đi vừa chậm vừa vội, dẫm đạp lên chính mình. Luồng vốn xã hội còn hạn chế, tư bản manh mún nhưng thị trường chứng khoán chưa thành hình. Căn bản luật kinh thương chưa sẵn nhằm điều chỉnh đầy đủ và thích hợp. Công ty làm ăn có lãi người ta tranh giành nhau mua cổ phần. Việc định giá tài sản vô hình và hữu hình rất sơ sài nên ai có phần mà không tiền cũng cứ đăng ký rồi bán kiếm lời. Rút cuộc chỉ một vài vị quan phụ mẫu nắm đa số cổ phần bán ra. Công nhân, kẻ làm chủ tập thể cũ được đổi kiếp sắm vai ông chủ tư bản mấy ngày. Doanh nghiệp với dư nợ lớn hơn giá trị tài sản cố định thử nghiệm hết mô hình này đến mô hình khác, vẫn không thoát thai cổ phần được. Tuyên bố phá sản hoặc giải thể thì người ta không nỡ. Đạo lý của định hướng kinh tế quy định việc làm trên hết, dù việc làm ấy chỉ phát lương cho họ đủ ăn sáng và uống cà phê pha bắp rang!
Tuổi thọ của phần lớn công ty trách nhiệm hữu hạn và doanh nghiệp tư nhân khoảng ba năm. Không luồn lách trốn thuế thì không thể tồn tại. Tai họa luôn lơ lửng trên đầu thương nhân nên việc biệt tích đổi tên vốn tối kỵ trong tư duy kinh tế Á đông phải nhường bước. Công ty mới, đôi khi chỉ cần ghép chữ “tân” vào tên cũ, người cũ, thiết bị máy móc, cơ sở vật chất cũ. Cái lợi duy nhất là tất cả hồ sơ không ít thì nhiều mập mờ, ám muội sẽ được xếp sang bên. Dấu vết phạm pháp nặng hay nhẹ không còn rình rập giấc mơ làm giàu chính đáng nhưng hết sức khó khăn. Vài công ty trốn thuế, họ sẽ là tội phạm. Tuy nhiên nguyên một bức tranh kinh tế đều nhuốn màu nhập nhèng, không trốn thuế nghĩa là khai tử chính mình thì lỗi không còn ở của thương nhân nữa. Ai đó từng khuyên công chức nhà nước đừng nên “vô cảm” với doanh nghiệp. Thật sự doanh nghiệp cũng chẳng cần “hữu cảm”. Họ mong công “lý” chứ không thích công “tình”.
Với cái nhìn tổng thể, môi trường sản xuất kinh doanh toàn quốc như em bé còi xương, suy dinh dưỡng. Yếu tố khách quan là cơ chế, chính sách chưa theo kịp bước. Chủ quan thì phải thừa nhận sự lệch lạc trong nhận thức và hành động của người trong cuộc. Đầu tư chắp vá nên người ta bắt buộc phải chạy theo cái lợi trước mắt để tồn tại. Vòng quay vốn tiềm tàng các lực ly tâm phá vỡ thế cân bằng cần thiết, lợi nhuận lò dò đi theo đường mòn: nắm bắt, móc ngoặc hậu trường, chụp giựt, chia chác. Đây là cơ hội tốt để lừa lọc, man trá và tham nhũng hoành hành.
Người cực đoan phán rằng thương trường không dung đạo đức. Những thương nhân trách nhiệm, biết điều hòa quyền lợi của mình trong mối quan tâm đến quyền lợi khách hàng, coi khó khăn vướng mắc của thượng đế là trở ngại của chính mình là ai và đang ở đâu. Lũng đoạn, nhũng nhiễu còn hoành hành bao lâu nữa. Bao lâu nữa pháp quyền mới công tâm đứng giữa các yếu tố kinh tế, tác động, ngăn ngừa mọi lệch lạc với tiêu chí xây dựng môi trường kinh doanh thoáng đãng.
Phương luôn ý thức chớ nên biến mình thành con chốt thí cho canh bạc kinh tế. Không ít lần công ty Phương được gạ gẫm làm ăn lớn, xuất kho khống nhưng anh từ chối. Sự hăng hái nhiệt tình thừa thãi của một thế hệ sinh ra trong chiến tranh, lớn lên với bo bo, mì sợi cứ tàn tạ dần theo thời gian. Phương học được cách chấp nhận thực tại nhưng vẫn luôn nhói lòng trước tương lai bấp bênh. Càng sống, làm việc và càng hiểu về thương trường Phương nhiều lúc rất dao động và mất tự tin. Hơn hết, người ta qui cho thương gia thói trí trá, bất tín, chuộng lợi.
Hai bạn của Phương cũng méo mó đi ít nhiều. Trọng vốn tính vô tư, dễ hòa đồng. Hắn khá giả nhất, vợ làm ngân hàng, hai con bắt đầu lớn. Trọng không ôm nhiều kỳ vọng hão. Kinh doanh với hắn chỉ có hai con đường lợi làm, thiệt bỏ không phân vân ước đoán cho nhức óc, và nhất là không bao giờ xem xét công việc dưới lăng kính đạo đức. Năng suất làm việc của Trọng quả đáng nể, sức hắn bằng mấy người. Trọng luôn giải quyết hai ba công chuyện cùng lúc không lẫn lộn. Bỏ điện thoại di động xuống là hắn phải nhấc vội một trong hai ống nghe để bàn. Sau giờ làm việc Trọng thích uống bia ngoài khu Thi Sách. Hắn trút bỏ mọi lo toan trong cồn. Chín giờ tối Trọng về nhà, nửa tỉnh nửa say đặt lưng xuống giường. Cứ tưởng Trọng vững chãi nhất, ai dè mầm bệnh mất phương hướng bắt đầu hành hạ hắn. Đứng bên chiếc xe máy Trọng luôn rất đáng thương. Hắn vẫn phải nặn óc, cố nhớ mình ở đâu, định làm gì và sẽ quay xe chiều nào!
Hà hoàn toàn ngược với Trọng. Phương không rõ hắn sa lầy trong đạo hạnh hay đang tích đức để cất mình khỏi cơm mê. Vòng bụng Hà chỉ bằng một phần ba của Trọng. Hắn bỏ bia rượu, thuốc lá và cả thói quen bình phẩm sắc đẹp của phụ nữ. Trán Hà bắt đầu hói. Hà mê khoa học huyền bí sau khi công ty của họ hoạt động hơn năm. Phương góp ý "Trên bốn mươi mới nên đọc Kinh Dịch" - Hà cười "Sông ơi cứ mãi chảy thế này ru!". Hà có nhiều gánh nặng trên vai như vợ con, anh chị em, gia đình nhưng chắc chắn vướng mắc hằng ngày trong công việc là nguyên nhân chính của tư tưởng trốn chạy. Kiến thức hắn khá rộng. Hắn không thiếu một bằng cấp hoặc chứng chỉ nào về quản lý kinh tế dù ngắn hạn hay dài hạn. Hắn kiêm luôn quyển tự điển sống để Phương và mọi người tra cứu các văn bản mới của nhà nước. Có lẽ vì vậy Hà hay bị tẩu hỏa nhập ma khi giải quyết mọi vấn đề từ lớn đến nhỏ, liên quan đến chức trách Giám đốc hành chính. Lần hồi Hà thành ra rất thụ động. Trọng và Phương nhờ gì Hà mới làm. Rảnh là hắn ngơ ngơ ngác ngác, ra ra vào vào như cái bóng. Hà biết không ai muốn thấy hắn đọc sách trong giờ làm việc nên thỉnh thoảng hắn lận lưng Lão Tử lén vào nhà vệ sinh!
Năm 2000, bản lề chuyển giao thiên niên kỷ chẳng có gì mới với công việc của Phương. Tệ hại là đằng khác. Nền kinh tế thiếu dưỡng khí tưởng chừng bị tác động không quá lớn của cuộc khủng hoảng cục bộ toàn cầu cuối cùng của thể kỷ bắt đầu phát sinh nhiều triệu chứng lạ.
Cuộc cải cách qui mô nhất của thời kỳ này chắc chắn là đợt giảm giờ làm. Tuần nghỉ hai ngày bắt đầu thành lệ. Từ đầu công ty Phương đã được nghỉ chiều thứ bảy. Tuy nhiên nghỉ thêm buổi sáng nữa rất phung phí. Cái cần thiết là tăng cường tinh thần làm việc và trách nhiệm cá nhân trước cộng đồng chứ không phải giảm thời gian phơi mặt tại công sở. Nghỉ ngơi ở đây rõ ràng không phải như phần thưởng của sự hoàn thành. Nó là phương pháp thụ động, chấp nhận và đầu hàng thói trây lười của xã hội. Phương từng chứng kiến tận mắt căn bệnh "nghiện lao động" của người Nhật. Hơn tám mươi phần trăm công nhân đến tuổi hồi hưu sẵn sàng tái ký với chủ những giao ước tạm thời. Họ không nề hà thứ bảy, chủ nhật. Niềm vui lớn lao với họ là được làm việc. Hình ảnh văn minh công nghiệp rõ ràng nhất trong Phương là từng tốp công nhân bốc xếp trên dưới lục tuần, quần áo bảo hộ sạch sẽ, giày vớ nai nịt gọn gàng. Họ lăn xả giữa hầm tàu, dùng móc sắt luồn dây mồi để cẩu các súc gỗ khổng lồ. Tốc độ của họ khiến thủy thủ Việt Nam lo lắng. Hàng dỡ nhanh thì cảng sẽ đuổi tàu sớm. Thời gian đi bờ mua đồ cũ co hẹp lại!
Ầm ào thêm chuyện bãi bỏ mấy trăm giấy phép trong đời sống kinh doanh. Trung ương xóa. Địa phương phản đối rùm beng. Thói quen đè đầu cưỡi cổ dân đen của một lớp người bị đụng chạm. Cuối cùng cái thuở muốn làm gì, đi đâu cũng phải làm đơn xin ì ạch lùi vào dĩ vãng. Ngày nay ít ai biết "Đơn xin mua mẫu đơn" là cái gì.
Việc tăng cường xây dựng cơ sở hạ tầng như biện pháp tình thế nhằm bổ khuyết nhu cầu mua sắm đang giảm của dân chúng không có tác dụng rõ nét. Sài Gòn lầm bụi, ngổn ngang dang dở bao nhiêu công trường. Chỉ cần nghiệm từ nghịch cảnh trước mắt trên con đường đi làm cũng thấy quá nhiều phi lý. Một ngày đẹp trời công nhân ùn ùn tập trung giải tỏa và tạo ra xa lộ mới phẳng lì. Nếu không còn hàng cột điện trồi ra sụt vào đâm xuống mặt nhựa thì xa lộ sẽ rất hiện đại. Nền đường quá cao thành ra nhà cũ hai bên như bị nén xuống, thấp chũn, dị dạng. Mặt nhựa chưa kịp quen mắt đã bị xới lên đặt cống. Sau cống tới cấp nước, viễn thông, điện lực luân phiên hành hạ. Hết vòng cải tạo này nọ thì con đường nham nhở ổ voi, ổ chó. Bụi vẫn còn đó. Đoạn trường và lời trách móc chẳng ai thấu. Kẻ nào thường xuyên sử dụng con đường này đều sắm đủ mắt kiếng đen tròng to, mũ nón sùm sụp, khẩu trang kín luôn cổ.
Về xây dựng hạ tầng phải nhắc ngay đến lễ khánh thành cây cầu Mỹ Thuận bắc qua sông Tiền. Nước Úc viện trợ không hoàn lại gần 70% kinh phí xây cầu. Công nghiệp xi măng Việt Nam đang khủng hoảng thừa. Các nhà máy liên doanh thề thốt máy móc tân tiến bảo đảm chất lượng xi măng rất cao. Song công trình phải nhập khẩu xi măng Thái Lan vì không muốn phát sinh khoản thuế nội địa. Cầu rất đẹp. Trông xa như chiếc đàn Hạc với bộ dây văng mỹ lệ. Truyền hình trực tiếp, báo chí sôi nổi bình luận về hàng trăm ngàn người ùn ùn kéo đến xem cầu. Chương trình văn nghệ quần chúng ban đêm đưa đẩy những công nhân xây dựng diện áo dài hoặc âu phục trang trọng. Họ cất cao tiếng hát ca ngợi tháng ngày gian nan dầm mưa dãi nắng đã qua và vui mừng trước thành tựu mới giúp cho kinh tế vựa lúa tung cánh. Người nông dân chất phác lam lũ mừng rỡ. Càng trân trọng tình cảm của họ bao nhiêu thì càng thông cảm với họ bấy nhiêu. Nếu một tấn gạo giá 170 Mỹ kim, mỗi năm số tiền xuất khẩu gạo của đồng bằng sông Cửu Long đủ xây 10 cây cầu như vậy!
Công ty Phương ngáp dài. Đơn hàng, hợp đồng thưa thớt cầm chừng. Một phần ba nhân viên bị sa thải. Số đông bị giảm lương và thay nhau nghỉ phép tự nguyện. Nỗi khổ của lớp cần lao, bán sức cho giai cấp bóc lột ai chẳng từng biết. Người ta cần biết thêm gánh nặng của các tiểu chủ nhân, mầm non tư bản của nền kinh tế thị trường đang hướng đến. Không lương đã đành, họ bất lực nhìn sự tích lũy lao động nhọc nhằn thể hiện bằng đồng vốn, cứ không cánh mà bay, mà xói mòn, hơn bất cứ qui luật khấu hao siêu tốc nào.
Hôm hiệp định thương mại Việt-Mỹ được ký có lẽ là ngày vui hiếm hoi cuối cùng của công ty Phương. Mới bước vào cửa Trọng la toáng lên:
- Vận hội tới rồi. Chúng ta đã trượt qua tuổi ba mươi hết cả. Đây là cơ may cuối cùng.
- Đi học thêm, ôn luyện tiếng Anh, nghiên cứu kỹ điều kiện hội nhập là việc trước mắt - Hà cười rất tươi - Ai muốn thì tôi đưa đĩa mềm này cho sao chép toàn văn hiệp định vào ổ cứng mà soi mói. Đêm qua tôi lục tin tức đăng tải trên mạng mờ mắt mới thấy.
Phương hăng hái mượn Hà. Anh giải nén tập tin và xem lướt qua trong khi mọi người bàn tán, bình luận xôm tụ về bản hiệp định. Ai cũng háo hức như trẻ con.
- Mai mốt chắc xin chiếu khán nhập cảnh Mỹ dễ lắm nhỉ - Cô bé ngồi trực tổng đài điện thoại ỏn ẻn - Ba em ở bển không tiếc tiền lo cho em qua chơi với ổng một chuyến. Lần nào cũng bị ách nơi phỏng vấn. Họ cứ sợ em sang đến nơi là không về nữa.
- Em báo cho quí anh biết nhé - Cậu sinh viên Luật khoa mới ra trường, đang trong giai đoạn thử việc góp tiếng - Khi cờ sao sọc cắm đầy nơi nhà máy, công ty Mỹ từ Lạng Sơn đến Cà Mau thì mấy trự trách nhiệm hữu hạn nội địa còn lâu mới thuê được cử nhân luật như em làm nhân viên quèn. Cỡ em họ sẽ trả năm bảy trăm Mỹ. Gọi là tối nào cũng vũ trường quán xá vẫn thừa tiền, lâu lâu sẽ mời xếp cũ vài chai rượu tây X.O đàng hoàng.
- Nổ vừa thôi em trai - Phương hướng mọi người vào nội dung anh vừa tiếp thu – Phần mở đầu văn kiện bao gồm năm câu chặt chẽ, hoàn chỉnh và rất phức tạp với chủ ngữ là Việt Nam và Mỹ. Động từ chính được dùng: mong muốn, thừa nhận, lưu ý, tán thành, tin chắc. Người đọc sẽ lạc ngay vào mê hồn trận với 10 lần nhắc đi nhắc lại chữ kinh tế, thương mại; sáu lần nói đến song phương, bình đẳng, bốn lần ba hoa về phát triển, bốn lần đề cặp đến quyền lợi, lợi ích. Người Việt cần những thứ này lắm nhưng Mỹ không có cũng chẳng sao. Vậy đằng sau thứ mà Mỹ thừa thãi này là gì?
- Đơn giản thôi Phương - Trọng bĩu môi - Nên nhớ chúng ta đang phấn đấu thành thương gia chứ không phải nhà chính trị nhé.
- Clinton còn thổ lộ hắn muốn là tổng thống đầu tiên của Mỹ thăm Việt Nam sau năm 1975. Đợi cuối nhiệm kỳ hắn qua mày hỏi trực tiếp hắn nhé - Hà nheo mắt với Phương.
- Khi nào nghe tin Clinton sắp sang đây tao sẽ lên ủy ban nhà nước xin phép biểu tình phản đối hắn. Ai tình nguyện tham gia với tôi không?
- Mày điên hả? - Trọng chằm chằm nhìn Phương - Clinton dỡ bỏ cấm vận, mở bang giao Việt Mỹ và bây giờ ký hiệp định thương mại. Hắn là ân nhân của dân tộc Việt Nam chứ không phải kẻ thù.
- Lạ nhỉ, khi nó cấm vận thì là kẻ thù, là giặc. Nó bỏ cấm vận, lập tức biến thành ân nhân. Ở đây ngôn ngữ tráo trở hay con người tráo trở. Giả sử Clinton đến mà không ai đón tao sẵn sàng lịch sự tiếp hắn. Nhưng chắc chắn thảm đỏ đã trải ra. Để làm một người có lương tri thì nhiệm vụ của tao là phải căng băng rôn qua những gốc cây điệp vàng trước Lãnh sự quán Mỹ ngoài kia. Tao muốn vạch cái mặt trái bẩn thỉu của nền văn minh Tây dương mà đại diện là tên sát nhân hèn hạ Clinton. Tao cảm thấy hổ thẹn cho ai từng xếp hàng nghe George Bush diễn thuyết mấy năm trước. Câu chửi dành cho hắn phải được coi là biểu hiện cao cấp của văn hóa. Đáng tiếc chỉ toàn lời hay ý đẹp, thơm tho bóng bẩy.
- Tao biết… tao biết mày sẽ thay mặt cho nhân dân Irak, nhân dân Serbia chứ gì - Hà gật gù - Xa xôi quá.
- Chất độc màu da cam rất gần. Quanh đây thôi nhưng chẳng ai muốn nhìn thì phải.
- Mày sẽ được phỏng vấn, lên vô tuyến khắp hành tinh - Trọng bảo.
- Tao sẽ đeo mặt nạ như kẻ vô danh.
- Hoan hô lương tri - Hà khoát tay - Nhưng còn lâu người ta mới cấp phép cho mày biểu tình.
- Thôi làm việc đi - Trọng vỗ tay đôm đốp - Trưa nay bàn tiếp nhé. Cái Hiệp định thương mại xem ra có vô khối điều để nói.
Cuối cùng Clinton cũng đến và đi khỏi Việt Nam bằng các chuyến bay đêm. Sự kiện này kích thích trí tò mò của dân chúng hơn một vụ đụng xe hay đánh ghen nên hàng chục ngàn người đổ ra đường, vắt vẻo ngồi trên yên xe gắn máy chiêm ngưỡng hàng đoàn xe hơi bóng lộn gắn kính chống đạn lăn bánh. Để chứng tỏ mình không vô học, nơi đầu tiên Clinton viếng thăm, sau thủ tục ngoại giao, là Văn miếu. Ông ta cũng trọ trẹ vài câu Việt ngữ tại Đại học Quốc gia Hà Nội.
Clinton nghĩ gì khi cúi đầu trước Thánh Khổng, trước tổ tiên của tầng lớp trí thức Á đông? Clinton cầu nguyện gì khi ngồi xuống, đặt tay lên đầu cụ rùa linh thiêng hơn 500 tuổi? Chỉ trời mới biết.
Liên tiếp trong ba năm công ty Phương lỗ tổng cộng hơn 50% số vốn đầu tư. Không hẳn bầu trời toàn màu xám. Toàn quốc vẫn tăng trưởng tuy hết sức khiêm tốn, ngoại trừ ngành thuế, đầu năm nào báo chí cũng tung hô: Họ luôn hoàn thành vượt mức kế hoạch khoảng 10%. Ngân sách nhà nước bội thu mấy ngàn tỉ đến nỗi các ông Nghị phải đặt dấu hỏi.
Công ty Phương quyết định tìm lối thoát bằng cách khai thác công nghệ thông tin. Mọi người đồng lòng đầu tư hơn năm ngàn Mỹ kim vào việc bán hàng qua mạng. Một địa chỉ giao dịch qui mô được tạo ra nhắm tới cả thị trường ngoài nước. Rán lờ quên khó khăn: máy chủ của mạng lạc hậu, tốc độ đường truyền kém, xa lộ thông tin tắc nghẽn do quá tải thường xuyên, hỗ trợ kỹ thuật, tư vấn vướng mắc kiểu mồm ếch, chân rùa.
Phương liên lạc với nhà cung cấp dịch vụ mạng xin mua danh sách thuê bao để quảng cáo trực tiếp bằng điện thư. Câu trả lời chính thức là không bán vì bảo mật. Bẵng đi hai ba ngày có người gọi Phương tự giới thiệu là tin tặc. Họ ra giá nửa triệu đồng cho một ngàn địa chỉ điện thư, cứ thế mà nhân lên. Nếu mua hết số lượng thuê bao hiện hữu tại Việt Nam số tiền phải trả ước chừng vài mươi triệu. Rõ ràng đây là phi vụ mà người mua nắm chắc phần lỗ.
Chuyển qua phương pháp thủ công. Mấy nhân viên được giao nhiệm vụ lọc lựa trong hằng hà sa số danh bạ các công ty tiềm tàng. Khi gọi hỏi xem họ có sử dụng mạng thông tin không thì chín mươi phần trăm trả lời mới nghe đồn trên báo, thấy hay hay nhưng chưa xúc tiến cài đặt. Gạn ra nhúm tương đối tân tiến, Phương cũng cố chen chân tìm hiểu. Nói chung họ coi địa chỉ điện thư như một dòng ngắn, thêm vào dưới số điện thoại và sao truyền trên danh thiếp. Mua oai thôi! Lâu lâu xếp lớn táy máy thì được quân sư mình bịt mắt cho sờ voi. Nếu xếp dễ gần, chịu chơi, đám trẻ này sẽ hướng dẫn xếp cách vào yahoo.com hay aol.com tìm xem ảnh khỏa thân.
Trang quảng cáo hướng ra người nước ngoài khá hơn chút đỉnh. Tháng đầu cỡ năm trăm người tham quan. Vài ba hợp đồng lên dự trù, mọi người khấp khởi. Tuy nhiên khoảng cách nền kinh tế quốc gia của hai đối tác làm nên hố ngăn cách rất khó vượt qua. Đơn hàng nhỏ dưới một ngàn Mỹ kim sẽ đội giá rất cao nếu thanh toán bằng tín dụng thư. Chuyển tiền qua điện tín trước hay sau giao dịch đều không được ràng buộc pháp lý nào nâng đỡ chữ tín. Sáu tháng dằng dặc, qua mạng công ty Phương môi giới bán được hai container 20” kẹo đậu phộng và khô mực. Mạng chỉ giúp họ biết nhau. Mọi bước khác đi đến giao thương trót lọt, hoàn toàn theo lối cũ đường xưa.
Sự bùng nổ thông tin còn lâu lắm mới tràn qua xứ sở này. Bốn mươi ngàn người đăng ký mạng trên gần tám mươi triệu dân là giọt nước ngoài biển khơi. Không biết chừng câu chữ to tát kia chẳng hơn lời quảng cáo. Tròm trèm hai ngàn năm, người lính Hy Lạp ngày nay sẽ dùng mạng máy tính toàn cầu báo tin chiến thắng nếu cần. Phương Tây vượt qua cuộc marathon tốn sức, tác thành phát minh đáng nể này. Song người ta vừa thay đổi hình thức chứ chưa thay đổi bản chất truyền tin. Vẫn thiếu vắng phương pháp hữu hiệu đo lường sự trung thực trong giao lưu. Tốc độ thông tin tác động đến mọi mặt của đời sống tới cái ngưỡng nhất định và dừng ở đó. Mạng cáp quang cùng hệ thống kết nối các máy tính còn rất xa chữ thần kỳ. Cũng như còn lâu lắm, doanh nhân Việt Nam mới có thể hoà mình vào không khí sôi động của thương trường quốc tế trên mạng.
Điển hình như tia laser, phát minh ra vẻ thần thánh cách nay vài thập kỷ đã thành đồ chơi con trẻ. Lần đó sân khấu thể nghiệm giới thiệu kịch bản tươi rói. Diễn viên ra chào khán giả rồi xếp vòng tròn sau lưng giám đốc nhà hát kiêm đạo diễn ưu tú. Quan phụ mẫu thao thao giảng dạy cách thẩm thụ hướng sáng tạo mới. Họ đem mặt nạ, áo choàng và kiếm của Romeo từ Italia trang sức cho chàng nông dân chân đất Việt Nam trong câu chuyện tình yêu hiện đại. Bỗng gần hai trăm con người đang chăm chú nghe cùng cười ồ lên. Khán giả nghiêm túc và lịch sự cỡ nào cũng không nhịn được. Đang mải mê với lời chải chuốt, thủ trưởng lúng túng quay dọc quay ngang tìm nguyên nhân ngả nghiêng của thính giả. Hoá ra thằng bé sáu bảy tuổi ngồi trong lòng mẹ ở hàng ghế đầu nghịch chiếc đèn pin laser nhỏ. Bàn tay lông lá màu đỏ sờ soạng lung tung, hết mái tóc bồng bềnh của nghệ sĩ ưu tú đến đùi cô diễn viên xinh đẹp.
Thời thế, thế thời chậm chạp trôi. Phương xa lánh mọi chốn tiêu tiền. Rời văn phòng, Phương đến lớp học tiếng Anh, lớp bồi dưỡng kiến thức kinh tế hoặc mài mắt trong thư viện.
Cuối năm Trọng, Hà và Phương tái mặt đọc bản báo cáo tài chính. Công ty của họ còn mỗi cái xác. Quỹ tiền mặt chỉ hơn chục triệu. Tài sản cố định toàn dụng cụ văn phòng đã khấu hao gần kiệt. Vốn nằm hết trong nợ khó đòi và không thể đòi. Chưa hết, tin cục thuế xuống kiểm tra, tất toán bùng phát như tiếng sét giữa trưa nắng chang chang. Sổ sách bị truy xét, xăm soi từng con số. Ba viên chức nghiêm trang, cần mẫn đến ngạc nhiên. Từng ngóc ngách bị hoạnh họe đủ đường. Họ thẳng thừng gạt hết những hóa đơn đầu vào “có vấn đề” do nhiều người bán hàng cung cấp, hoặc chi phí thực nhưng thiếu sót không đáng kể về mặt chứng từ. Họ giải thích trơn tru rằng hóa đơn “có vấn đề” phần nhiều do bọn buôn bán hóa đơn tung ra thị trường. Mặc tình hóa đơn này do chính cục thuế phát ra, dấu triện nghiêm chỉnh. Cục thuế bị lừa, công ty cũng bị lừa. Cuối cùng một trong hai kẻ bị lừa biến thành người phán xét. Mọi lỗ lã bỗng nhiên bị san bằng. Lợi nhuận vút lên… Công thức thuế lợi tức là 32% lợi nhuận, chi phí “có vấn đề” còn bị phạt 100%, phạt hành chính. Sau rốt lợi nhuận ảo vẫn kha khá so với tổng vốn đầu tư, sắc thuế lợi tức bổ xung “đập” thêm không thương xót. Biên bản tính thuế mới làm ngã ngửa cả công ty: tổng số thuế nhà nước sẽ truy thu là 1 tỉ đồng!
Hà ngây thơ hỏi viên chức:
- Chúng tôi lấy tiền đâu ra đóng thuế?
- Công ty anh nhằm nhò gì. 1 tỉ chia cho ba người sáng lập chưa ra con số 500 triệu để kết án tử hình! Nhiều ông trách nhiệm hết hạn nợ đến hàng chục tỉ vẫn hoạt động kìa.
- Vậy tính thuế để làm gì?
- Đó là công việc bắt buộc của chúng tôi. Con số này người khác xử lý.
- Công ty tôi quá nhỏ, sổ sách đã rất nhiều. Với công ty nhà nước sao kiểm tra thấu?
- Nhà nước kiểm tra nhà nước kiểu khác, chỉ xoáy vào vài vị trí, thời gian đâu lục hết được.
- Chắc chúng tôi sẽ đóng cửa, tuyên bố phá sản.
Trọng không thích dây dưa, nhiều lời vô nghĩa. Hắn chạy ngược chạy xuôi “binh biến” tìm cách gỡ nhưng cuối cùng tiu nghỉu: “Thà chẳng chạy còn hơn. Giá phổ biến là một phần ba… Thôi chúng mình chuẩn bị tinh thần đi nghỉ nóng ở nhà đá”.
Năm mới dương lịch về. Sau buổi họp toàn thể nhân viên với định hướng ít nhiều chắp nhặt và hết sức mù mờ, giọng nói Hà chùng hẳn xuống:
- Khủng hoảng kinh tế Đông nam Á và hai năm trì trệ vừa qua cùng sự kiện thuế má sắp khai tử công ty này. Thưa các anh chị, chúng tôi có lỗi. Mong mọi người hiểu cho quyết định cuối cùng của ban quản trị: giữ lại thư ký văn phòng và tổ trưởng kế toán. Từ ngày mai chúng tôi, những người sáng lập công ty sẽ tự mình làm hết công việc hôm qua anh chị đã làm. Chúng tôi xin khất số tiền trợ cấp thôi việc. Chúng tôi cố gắng thu hồi công nợ, được đồng nào sẽ chi trả ngay đồng đấy. Chúng ta bên nhau chia ngọt sẻ bùi bốn năm. Vì khả năng hạn chế so với ước vọng nên chúng tôi không giữ được công ăn việc làm cho quí vị. Thật đáng trách!
Mười mấy con người im lặng. Tiếng lạo xạo của ổ cứng máy vi tính không thể lẫn với tiếng quạt thông hơi rì rì êm tai.
- Lãng mạn quá - Trọng lắc đầu - Ngày mốt chủ nhật năm giờ chiều, xin mời tất cả ra Thi Sách nâng ly với nhau bữa tất niên chia tay. Sông có khúc người có lúc. Thế kỷ sau, khi nào công ty thay da đổi máu, cánh cửa này sẽ luôn rộng mở chào đón nhân viên cũ.
Khi nào là khi nào, Phương ái ngại quá. Thế kỷ sau rất gần mà cũng rất xa. Bốn năm làm ông chủ nhỏ, bốn năm lo toan xốc vác với sức trẻ và lòng nhiệt thành để đổi lấy cái nhìn u ám trước tương lai.
Phương cố nhủ lòng ngày mai bao giờ cũng đẹp. Cùng lắm thì làm hồ sơ xin việc, đi phỏng vấn. Chỉ mong thăng trầm của đời sống đừng tàn nhẫn ép uổng con người phải cảm nhận thời gian thừa thãi, vô vị.
Hình như giấc mộng khai thương của thế hệ Phương đã đi đứt. Hồ Gươm từng chứng kiến giây phút Phương lưỡng lự giữa hai con đường sĩ và thương. Hơn ba mươi tuổi, cái tuổi biết mình sẽ làm được gì xô tới mà Phương vẫn quẩn quanh bên những lo toan nhỏ mọn.
Sự đèn nén khách quan quá mạnh mẽ. Dưới vẻ bề ngoài khấp khởi, con tàu buôn mục ruỗng sẽ kịp ghé bờ hay lại chìm nghỉm. Tìm ổn định tuyệt đối dưới đáy sâu rong rêu người ta chấp nhận vỏ ốc vay mượn để chui vào, lần bò kiếm thức ăn độ nhật. Thử hỏi mấy ai cố một lần can đảm trồi lên mặt nước để áp lực của chính bản thân, trong dòng máu yếm khí chưa vội bị nhuộm đen nổ tung, phanh thây. Chuyến đi can đảm bao giờ cũng vắng khách bởi nhân gian chuộng hạnh phúc đớn hèn hơn sự dũng cảm mông muội đầy bất trắc.