Đúng là một cuộc chạy đua nước rút. Thực dân Pháp đã nổ súng tái chiếm Nam Bộ. Sài Gòn là mục tiêu đầu tiên. Đó là ngày hăm ba (23 tháng 9 năm 1945). Tin này bay tới thủ đô Hà Nội như tiếng sét giữa trời quang. Thật bất ngờ những không gây hoang mang. Trước đó tướng De Gaulle đã tuyên bố tại Brazzaville, thủ đô nước Congo, là Pháp sẽ củng cố các lãnh thổ hải ngoại để xây dựng Liên Hiệp Pháp hùng mạnh hơn xưa. Lời rêu rao này được các đài bá âm phát đi từ đầu năm 1944 và mỗi ngày qua cho thấy Pháp nỗ lực tái chiếm các thuộc địa cũ ở Bắc Phi và Đông dương. Hà Nội sục sôi căm phẫn trước tin Sài Gòn bị xâm chiếm. Phong trào đầu quân vào Nam tiếp viện nổi lên gần như tự phát: máu chảy ruột mềm là truyền thống nhiễu điều phủ lấy giá gương của dân tộc Lạc Long. Chánh phủ Hổ Chí Minh tuy bận rộn với nạn thổ phỉ do quân đội Lư Hán có nhiệm vụ giải giới quân Nhật ở miền Bắc Việt Nam gây ra vẫn cấp tốc gởi các đoàn quân Nam tiến chống xâm lăng. Một trong những đoàn quân này do Nam Long chỉ huy. Vì đường giao thông bị phá hoại, quân Nam Tiến mất khá nhiều thì giờ trên đường hành quân. Vào tới miền Đông, Nam Long đưa thẳng lực lượng tới sát thành phố Sài Gòn. Tại cầu Bình Lợi, bộ đội miền Đông đã lập một tuyến phòng thủ, không cho địch nống ra lấn chiếm các tỉnh Thủ Đầu Một và Biên Hoà. Dân quân ở đây được một phân đội đồng bào thiểu số từ Biên Hoà xuống tăng cường. Đây là một binh chủng đặc biệt mà bọn Tây và quân Anh-Ấn khiếp sợ vì họ đánh địch một cách âm thầm lặng lẽ: đánh bằng cung nỏ. Những mũi tên tẩm thuốc độc không nổ ồn ào như súng mút nhưng lại gieo khủng khiếp hơn: cái chết kéo dài trong nhức nhối chứ không nhanh gọn như những cái chết “bình thường”. Ngày đoàn quân Nam tiến của Nam Long tới Bình Lợi là một ngày trọng đại. Lực lượng tăng viện không đông nhưng mang ý nghĩa rất lớn: tình đồng bào ruột thịt Bắc Nam là một sức mạnh tinh thần vô địch. Đó là một thông điệp gởi tới bọn thực dân: “Chớ động tới Nam Bộ”. Ngày 20 tháng 10, sau ngày giặc Pháp gây hấn gần một tháng, nhờ tinh thần chiến đấu cao của các bộ đội miền Đông mà hai tỉnh Thủ Đầu Một và Biên Hoà vẫn còn trong tay chánh quyền cách mạng. Trong khi ấy, Nguyễn Bình từ cao nguyên Ban Mê Thuột vượt vùng Ba Biên Giới (Trois Froncières) xuống Thủ Đầu Một. Do đi một mình nên Nguyễn Bình tới miền Đông trước đoàn quân Nam Tiến của Nam Long. Thị xã Thủ Đầu Một đang trong khí thế sẵn sàng tử chiến trước mọi đợt tấn công của bọn Pháp có quân Anh-Ấn yểm trợ. Rõ ràng là quân Anh đã làm sai chức năng giải giới quân Nhật tại miền Nam Việt Nam như Đồng minh đà uỷ quyền. Nguyên văn chỉ thị của Đồng Minh cho lực lượng tướng Gracey vỏn vẹn có một câu ngắn gọn: “sole mission: disarm the japanese don't get involved in keeping order” (sứ mạng duy nhất: giải giới quân Nhật, chớ can thiệp vào việc giữ trật tự). Tướng Gracey ngay từ đầu đã làm sai chức trách chìa mình, mở đường cho Pháp trở lại xâm lược Việt Nam. Tới thị xã Thủ Đầu Một, Nguyễn Bình đến nhà ông giáo Chương là một Mạnh thường quân nổi tiếng trong vùng. Tên ông là Đoàn Hữu Chương. Gia đình ông giáo Chương với lai người con là Đoàn Hữu Hoà và Đoàn Hữu Thanh và người con rể là Võ Bá Nhạc đều theo kháng chiến ngay từ đầu. Vừa tới nơi, Nguyễn Bình bắt tay vào việc phòng thủ thị xã cùng với chánh quyền sở tại. Công việc chuẩn bị rất khẩn trương vì có tin quân Pháp cùng bọn Anh-Ấn đã đánh chiếm Gò Vấp sau khi mặt trận An Phú Đông bị phá vỡ. Ngày 22-10 quân Anh-Ấn đánh thị xã Thủ Đầu Một. Súng nổ vang trời, nhưng dân quân chỉ làm chậm trễ bước tiến của địch chớ không đủ sức đánh bật chúng. Xe nồi đồng, Tây gọi là auto-mitrailleuse, xả súng liên thanh dọn đường cho bộ binh. Nhà của ông giáo Chương chỉ cách chúng có 300 mét. Lúc đó Nguyễn Bình ẩn trong nhà, thủ khẩu Wicker chờ địch tới. Nhưng xe nồi đồng chỉ bon bon trên đường nhựa. Lính bộ binh thận trọng bám sau xe, không dám xông xáo lục lạo. Thị xã mất rồi, Nguyễn Bình cùng hai anh Hoà, Thanh và ông Nhạc dời về Bưng Cầu. Cuối tháng 10 Nguyễn Bình họp với Cò Trương và một số nhân vật lãnh đạo tỉnh Thủ Đầu Một để tổ chức lại lực lượng quân sự. Địa điểm cuộc họp này là đồn điền cao su Võ Bình Tây. Cuộc họp này dọn đường cho hội nghị quân sự Nam Bộ vào ngày 15-11-1945.