HỒI 12
Đệ Tử Đích Truyền

     ao Ngạn xuyên qua cửa sổ vào phòng, cảm thấy hơi yên lòng. Vừa rồi gã rất lo lắng cặp giò đẹp của Tiểu Bạch Nhạn từ cửa sổ đá ra, nếu vậy gã khẳng định sẽ phải rơi xuống Dĩnh Thủy.
"Đồ trứng ngốc! Đến bây giờ mới biết leo cửa sổ vào. Thật không rõ ngươi bằng cái gì mà muốn thành danh dựng nghiệp chứ?”
Cao Ngạn quay đầu ngó lại, Tiểu Bạch Nhạn ngồi trên giường, đang ngon lành ăn trái lê trên tay. Nàng ta bắt chéo cặp chân dài không mang ủng, rung chân, có vẻ rất thoải mái thích thú.
Sự đối đãi "có thiện ý" của Doãn Thanh Nhã, làm Cao Ngạn lộ ra vẻ vui mừng. Gã không chút khách khí tới ngồi ở mép giường, thiếu chút nữa đụng vào cặp chân đẹp của nàng, mặt quay về phía thiên chi kiêu nữ thiên kiều bách mị này, nói như mở cờ trong bụng: “Nguyên lai Nhã nhi đối với ta chỉ là giả ra bộ dạng hung dữ cho người khác thấy.…..”
Doãn Thanh Nhã ngắt lời nói: “Ít nói bậy đi, xéo ra xa ta một chút, đến ngồi ở cái ghế dựa cạnh cửa sổ ấy, nếu không bổn cô nương sẽ đuổi ngươi ra khỏi phòng. Ngươi xứng để ta nói chuyện giống như trước sao?”
Cao Ngạn thấy nàng ta lúc nói thì cười mỉm, tựa như là không phải nói thật, nhưng gã đã có chút hiểu được tính tình của nàng, nào dám lỗ mãng. Mà sự thật nàng ta để gã ở lại trong phòng, đã là một sự ban ơn rất lớn, nên vội ngoan ngoãn đến ngồi lên cái ghế dựa vào cửa sổ.
Doãn Thanh Nhã bỗng đứng dậy, dời đến ngồi tại mép giường, vung tay, ném hột lê vừa ăn về phía Cao Ngạn. Cao Ngạn nào nghĩ đến nàng ta lại có chiêu này, muốn tránh nhưng không kịp, hạt lê sượt qua má gã, rơi xuống Dĩnh Thủy.
Doãn Thanh Nhã "phì" cười, hướng về phía gã le lưỡi giả làm mặt quỷ khả ái.
Lòng Cao Ngạn trở nên khoan khoái, đang muốn khua môi múa mép thì Doãn Thanh Nhã ra hiệu ngăn cản gã buông lời, tự nhiên nói: “Ta lần này tới Biên Hoang, ngoại trừ cùng ngươi tính rõ cừu mới hận cũ, còn muốn cùng với tiểu tử ngươi nói cho minh bạch, không để ngươi càn rỡ nữa.”
Cao Ngạn ý loạn tình mê ngơ ngác nhìn nàng ta, như thể không nghe được lời mà nàng ta vừa nói.
Doãn Thanh Nhã sẵng giọng: “Ngươi không nghe ta nói sao?”
Cao Ngạn trong lòng hưng phấn đắc ý, cho dù để Trác Cuồng Sinh dùng diệu bút viết thiên thư, cũng khó miêu tả được một phần. Ở cùng một chỗ với Doãn Thanh Nhã, bất luận bị đánh bị mắng, gã đều như được ăn mật ngọt. Thế giới không có nàng, hết thảy đều mất đi ý nghĩa, gã sẽ chỉ sinh tồn như là một cái xác không hồn. Có được nàng, cũng như có được thiên hạ. Huống chi lúc này nàng ta đang ở trước mặt quở trách, Cao Ngạn phát giác ra cuộc sống nguyên lai tuyệt vời như vậy. Gã nói: “Xin Nhã nhi cứ tiếp tục nói, giọng nói của nàng là thanh âm dễ nghe nhất trên đời.”
Doãn Thanh Nhã hung dữ trừng mắt, tức giận nói: “Ngươi lại giở thủ đoạn với ta, không nói nữa! Không nói!”
Cao Ngạn thử đứng lên, thấy Doãn Thanh Nhã lộ ra thần sắc bất thiện, vội ngồi lại xuống ghế. Xuôi tay nói: “Hôn một cái được không?”
Doãn Thanh Nhã tức giận đến trợn trừng mắt lên, thất thanh: “Cái gì?”
Cao Ngạn cười bồi nói: “Hắc hắc! Không có chuyện gì. Nhã nhi đã đói bụng chưa? Ta cùng nàng đến phòng ăn ăn một chút gì nhé!”
Doãn Thanh Nhã nhất mực cự tuyệt nói: “Không ăn! Muốn ăn thì ngươi tự mình đi đi.”
Cao Ngạn hỏi: “Ta hát một bài cho nàng nghe nhé?”
Doãn Thanh Nhã nhịn không được bật cười: “Không nghe!”
Cao Ngạn nói: “Vậy ta lộn vài vòng cho nàng xem nhé.”
Doãn Thanh Nhã phì cười, hung dữ liếc gã, thấp giọng mắng: “Cái tên xú tiểu tử chết bầm nhà ngươi.”
Cao Ngạn nhảy lên, xoay tròn một vòng, tiến tới trước người nàng ta khuỵu gối quỳ xuống, tâm trạng say mê nói: “Nhã nhi nàng không cần dối mình nữa. Ta và nàng là một đôi trời đất tạo nên, nàng không thể tìm được một tình nhân và phu quân nào tốt hơn ta, so với ta không có ai biết cách làm nàng vui vẻ, khiến nàng cao hứng cả.”
Doãn Thanh Nhã không tức giận nói: “Tên tiểu tử nhà ngươi lại nổi điên rồi, để ta rõ rõ ràng ràng nói cho ngươi, ta.. hắc! Ta vừa rồi cứu cái mạng nhỏ của ngươi, để từ nay về sau hai chúng ta không ai còn nợ ai. Bắt đầu từ hôm nay, ngươi đi đường lớn của ngươi, ta đi cầu độc mộc của ta, rõ chưa?”
Cao Ngạn ngẩn người hỏi: “Đường lớn chẳng lẽ không thể có cầu độc mộc sao?”
Doãn Thanh Nhã cũng ngây người, tiếp theo khóe môi hiện ra nét cười, mắng: “Xú tiểu tử ngu đần nhà ngươi, nếu còn chọc giận bổn cô nương ta sẽ giết ngươi.”
Cao Ngạn cầm lấy tay phải của nàng ta, cười đùa cợt nhả: “Tay của Nhã nhi vẫn chưa hết mỏi, hay để ta xoa bóp cho nàng, bảo đảm sẽ dễ chịu trong lòng.”
Doãn Thanh Nhã dùng thân pháp tránh khỏi tay gã, mượn thế đứng lên, tới thẳng phía trước cửa sổ, ánh mắt dõi về bờ sông.
Cao Ngạn như bóng theo hình, đi tới phía sau nàng, thiếu chút nữa thì dán vào lưng thơm của nàng, hít vào mùi thơm cơ thể phát ra từ nàng, thật không còn biết trời đất gì nữa.
Doãn Thanh Nhã khẽ thở dài: “Lần này ta tới Biên Hoang, sư phụ nhất định lo lắng lắm. Ta du ngoạn Biên Hoang tập ba ngày rồi sẽ trở về, ngươi chớ nên si tâm vọng tưởng. Nếu không, từ nay về sau ta sẽ không để ý tới ngươi nữa.”
Cao Ngạn tâm mê thần say nói: “Chúng ta vĩnh viễn không cần phân li nữa. Nhã nhi muốn trở lại Lưỡng Hồ, ta sẽ đi cùng nàng.”
Doãn Thanh Nhã giận dữ: “Kêu ngươi không được càn rỡ, ngươi chớ nên càn rỡ với người ta, đầu của ngươi có phải làm bằng đá hay không? Ngươi đi tới Động Đình, phải chăng là không thiết sống nữa?”
Cao Ngạn ngạc nhiên hỏi: “Sư phụ của nàng sao lại giết ta? Chính miệng ông ta đáp ứng sẽ không cản trở nàng lấy ta, chỉ cần Nhã nhi tốt của ta gật đầu thì sẽ được.”
Doãn Thanh Nhã chuyển thân thể mềm mại lại như gió lốc, sẵng giọng: “Ngươi lại nói bậy rồi!”
Cao Ngạn tưởng nàng muốn động thủ, sợ tới mức vội lui lại hai bước, xua tay nói: “Nguyên lai Nhã nhi không biết ta đã đến Lưỡng Hồ tìm nàng, lại còn cùng sư phụ nàng đánh cược một trận. Kết quả sư phụ nàng bị thua cuộc, hứa từ nay về sau mặc kệ không can thiệp ta và nàng chàng chàng thiếp thiếp, nói chuyện tình ái, kết làm phu thê.”
Doãn Thanh Nhã hai tay chống eo nhỏ, giận dữ la: “Ngươi tưởng rằng ngươi là cái gì? Bằng thân thủ của ngươi, thì còn không xứng xách giầy cho sư phụ.”
Cao Ngạn cười hì hì: “Cùng ta đi chính là Yến Phi, cũng là y động thủ. Y cũng không có đánh thắng sư phụ lão nhân gia của nàng. Chỉ vì ta để cho sư phụ nàng bắt được, Yến Phi mới cùng sư phụ nàng đánh cược. Nếu trong một khoảng thời gian cứu không được ta, thì y sẽ tự vẫn trước mặt sư phụ nàng. Kết quả như thế nào, nhìn xem lão tử vẫn còn sống đứng ở chỗ này cùng nàng nói chuyện thì cũng minh bạch được rồi. Việc này bây giờ đã truyền khắp hang cùng ngõ hẻm, tình cảm lưu luyến của chúng ta đã trở thành chủ đề phổ biến nhất ở phương Nam. Toàn bộ sự việc đều trăm ngàn lần chính xác. Nếu như ta có một chữ hư ngôn, hãy để ta không lấy được nàng làm kiều thê.”
Doãn Thanh Nhã ngây ra nhìn gã, sau một hồi, yên lặng ngồi vào ghế tựa, thần sắc ngỡ ngàng.
Cao Ngạn chưa bao giờ thấy qua vẻ mặt như vậy của nàng, chuyển qua ngồi xổm trước người nàng hỏi: “Nhã nhi làm sao vậy?”
Doãn Thanh Nhã buồn bã đáp: “Người ta lần này để ngươi hại thảm rồi, sư phụ vì ta mà mất mặt, thảo nào người không thể nói gì. Bây giờ sư phụ trong lòng nhất định rất khó chịu.”
Cao Ngạn đang muốn nói an ủi nàng ta, Doãn Thanh Nhã giơ hai ngón tay áp lên môi gã, nhẹ nhàng nói: “Lòng người ta đang rất loạn, ngươi đi ra ngoài một lúc được không? Để ta một mình suy nghĩ.”
Lòng của Cao Ngạn vừa đau xót vừa yêu thương. Lần đầu tiên thấy nàng ta nhẹ nhàng yêu cầu, nào dám không theo, y lời rời khỏi phòng.

***

Chi Độn nói: “Người này họ kép Mặc Di, tên Minh, là một nhân tài, nho nhã phong lưu, bác học đa văn, văn thông võ giỏi, thông hiểu cổ kim trị loạn hưng suy, thật là kỳ tài trăm năm khó gặp.”
Yến Phi nói: “Đại sư không phải đã nói người trong Ma môn, sẽ dùng trăm phương nghìn kế che giấu thân phận của bọn họ, chỉ sợ bại lộ hành tung sao? Vậy làm sao hiểu được y xuất thân từ Ma môn chứ?”
Chi Độn giải thích: “Từ sau khi Hán Vũ đế độc tôn Nho học, Ma môn bị bài trừ, tư tưởng từ đó về sau chuyển sang đường cực đoan không lối trở lại, cũng vì vậy mà nhập ma, nên xưng là Ma môn từ đó đến nay. Với những người trong Ma môn, tác phong hành sự của họ đều có manh mối có thể tìm ra, lúc ấy cao nhân của Phật Đạo lưỡng môn từ võ công kinh thế của y mà nhìn ra y nguyên là từ Ma môn.”
Yến Phi nghe đến đó, đối với cái gọi là người trong Ma môn, chẳng những không có sinh ác cảm, ngược lại còn có điểm đồng tình với tao ngộ của bọn họ. Gật đầu nói: “Tôi đã hiểu rồi.”
Chi Độn nói: “Muốn nói rõ huyết thống của Mặc Di Minh này, không thể không bắt đầu từ phương bắc Thạch Triệu chính quyền. Vĩnh Gia chi loạn, Hung Nô vương Lưu Thông công hãm Lạc Dương, giết vương công sĩ dân hơn ba vạn người, Tấn Hoài đế chạy về bắc. Năm sau Mẫn đế lên ngôi ở Trường An, lại bị bắt làm tù binh, Tấn thất bị bức về Nam, phương bắc trở thành nơi Hồ tộc tranh giành. Sau khi Lưu Thông phá Tấn, quốc thế đạt tới đỉnh điểm, lại không biết lợi dụng cơ hội mà hoang dâm xa xỉ, quốc chính ngày càng rối loạn, công thần hào tướng đều chiếm đất cát cứ. Trong đó lại để Thạch Lặc chiếm vùng đất cũ của Triệu Ngụy có thế lực lớn nhất. Thạch Lặc là hùng tài Hồ tộc, dũng mãnh tuyệt luân, dùng Hán nhân Trương Tân làm mưu sĩ, đại phá Hung Nô, lên đế vị, quốc hiệu vẫn dùng Triệu. Người đời sau gọi là Thạch Triệu.”
Yến Phi sống lâu ở phương Bắc, bản thân lại là vương tộc của Thác Bạt tộc, đối với đổi thay của chính quyền phương Bắc thì đã nghe nhiều nên quen. Nhưng chàng biết về Thạch Lặc, chủ yếu là vì thủ đoạn tàn bạo của y. Sự đốt nhà giết người cướp bóc của Thạch Lặc tại Hồ tộc cũng là xú danh truyền xa, kẻ bị hại đạt đến vài trăm vạn hộ, người cùng thời gọi là "Hồ Hoàng"*, họa hại của nó có thể thấy được.
Chi Độn nói tiếp: “Thạch Triệu lúc hưng thịnh, bản đồ bát ngát. Nam tới Hoài Hà, Hán Thủy, đông giáp tới biển, bắc đến Tuy Viễn, cơ hồ chiếm cả phương Bắc. Sau khi Thạch Lặc chết, con của anh trai Thạch Hổ đăng vị, bạo ngược vượt quá Thạch Lặc, làm các tộc tạo phản. Đến khi Thạch Hổ chết, các con tranh vị. Lúc đó, Hán tộc đại tướng Nhiễm Mẫn thừa cơ nổi lên, đoạt lấy đế vị. Mà Nhiễm Mẫn có thể thành công đoạt quyền, nguyên nhân chính là được Mặc Di Minh toàn lực phù trợ y.”
Yến Phi nói: “Nói như vậy, Mặc Di Minh có hơn ba mươi năm trước phải là nhân vật có thể hô phong hoán vũ ở phương Bắc. Chỉ nhìn y có thể để một chính quyền do Hán nhân nắm quyền giữa các tộc Hồ quật khởi xưng bá, thì cũng biết bản lĩnh của y.”
Chi Độn nói: “Ngay cả chúng ta và y đứng ở lập trường đối địch, cũng không thể không thừa nhận y là nhân vật kiệt xuất của ma môn. Năm đó Nhiễm Mẫn còn phải liên lạc với Kiến Khang, hi vọng song phương có thể liên thủ cùng đuổi Hồ Lỗ. Nhưng vì hoài nghi đối với Mặc Di Minh, cuối cùng không được việc. Tiếp theo họ Mộ Dung của Tiên Ti mạnh lên, Nhiễm Mẫn binh bại bị bắt, bị chém ở Long Thành. Mặc Di Minh bằng vào Ma công cái thế, phá vây đào tẩu. Yên vương Mộ Dung Tuyển tự thân dẫn cao thủ đuổi giết ngàn dặm, lại bị y trước sau giết chết hơn ba mươi cao thủ Yên quốc, thành công chạy thoát, từ đó không biết tung tích. Cuộc chiến này chấn động thiên hạ, truyền tụng một thời.”
Yến Phi nhíu mày nói: “Vậy thì Mặc Di Minh rốt cuộc có quan hệ gì với Bí tộc?”
Chi Độn điềm đạm nói: “Theo tin tức của chúng ta, Mặc Di Minh cuối cùng chạy ra đại mạc, được Bí tộc toàn lực che chở. Mà Yên vương cũng vì xa xôi, chẳng biết làm thế nào.”
Yến Phi hỏi: “Y vẫn còn sống sao?”
Chi Độn nói: “Việc này sợ chỉ có Bí nhân mới biết.”
Yến Phi trong lòng nổi lên cảm giác cực kì cổ quái. Ài! Mặc Di Minh. Chàng thật sự không muốn biết về bất cứ chuyện gì về y. Càng không muốn biết về chuyện của Ma môn, nói gì đến đối đầu với người nào trong Ma môn. Chàng hỏi: “Đại sư vì sao nói cho tôi về người này?”
Chi Độn nói: “Cái tâm của Ma môn muốn tranh bá thiên hạ thì vĩnh viễn sẽ không ngừng lại. Một khi để bọn chúng đoạt được chính quyền, thì đây là tai nạn lớn của nhân sĩ chính thống của Nho, Phật, Đạo ba nhà. Bây giờ chúng ta đang toàn lực hỗ trợ Lưu Dụ, Ma môn khẳng định sẽ trăm phương ngàn kế tiến hành cản trở, không cho gã có một ngày được đắc chí.”
Yến Phi hỏi: “Đại sư có muốn tôi cảnh cáo Lưu Dụ hay không?”
Chi Độn nói: “Yến thí chủ tự trong lòng có sẵn ý riêng, lão nạp không nghĩ đến việc làm tăng thêm phiền não của Lưu Dụ. Sự thật là gần trăm năm qua, ngoại trừ một Mặc Di Minh, Ma môn lại không có nhân tài kiệt xuất khác. Ma môn từ sau khi Mặc Di Minh thất bại trong gang tấc, đã suy thoái rồi.”
Yến Phi lắc đầu nói: “Ma môn đã có một nhân vật siêu quần khác, thành tựu của người này trong tương lai, khẳng định sẽ không dưới Mặc Di Minh.”
Chi Độn ngạc nhiên hỏi: “Là ai?”
Yến Phi chậm rãi nói từng chữ: “Đó là đệ tử đích truyền của Mặc Di Minh, Bí nhân Hướng Vũ Điền.”

***

Mộ Dung Chiến đứng ở đầu đường, nhìn công trình xây lại Đệ Nhất lâu đang bừng bừng khí thế ở bên kia đường. Bàng Nghĩa hiện thân cùng hắn sau khi chào hỏi từ xa, liền ẩn vào cấu trúc bằng gỗ khổng lồ này. Trên đường người qua người lại, không ngừng có hàng hóa vật liệu từ Đông môn đưa vào Biên Hoang tập. Dĩnh Thủy là mạch máu của Biên Hoang tập, hiện tại một dải phương Nam được thông suốt. Hơn nữa Hồ Bân ở Thọ Dương lại là người nhà với nhau, có hiệu dụng của Biên Hoang du. Cho nên mậu dịch của phương Nam và Biên Hoang tập, dưới sự ngầm ưng thuận của Nam Tấn, so với trước đây thì chỉ có hơn chứ không kém.
Còn về thủy lộ phương Bắc, bởi vì nằm trong phạm vi thế lực của Mộ Dung Thùy, Yên nhân tuy rằng thân tự mình lo chưa xong, tạm thời vô lực phong tỏa cửa Tứ Thủy nhập vào Dĩnh Thủy, nhưng thương lữ dám từ thủy lộ tới vẫn chỉ có lác đác vài người. Chủ yếu là hành cước thương lữ đi đường bộ, quy mô còn kém xa phương Nam.
Mất đi loại Nam Bắc mậu dịch này là một vấn đề lớn. Duy có thuyền đội của chính Hoang nhân đến phương Bắc buôn lậu hàng hóa, rồi chuyển về Biên Hoang tập tiêu thụ.
May là Hoang nhân từ trên tay Yên Khương liên quân đoạt được một lượng lớn chiến mã, quân giới và trang bị, đều là vật tư cần thiết của người phương Nam, cho nên vẫn có sinh ý để làm.
Bắt đầu từ sáng nay, nhiệt độ dần dần hạ xuống, sắc trời âm u, gió lạnh từ phía tây bắc thổi tới, làm các cửa tiệm bán áo lạnh trong Tập nhộn nhịp như chợ.
Hoang nhân đi qua đều không dám quấy rối Thống soái tối cao của bọn họ, để hắn tuy thân ở đường lớn phồn thịnh thông với mọi nơi, vẫn có thể một mình tĩnh tâm suy nghĩ tình thế trước mắt.
Ai cũng không hiểu được một khung cảnh mờ mịt trong lòng Mộ Dung Chiến. Đầu hắn dường như trống rỗng, nhiều khả năng chẳng biết cảm xúc gì.
Từ đêm qua sau khi Sóc Thiên Đại không từ biệt mà đi, hắn đối với tương lai cảm thấy mơ mơ hồ hồ, cảm giác này từ trước tới giờ hắn chưa từng có. Lần này bỏ đi là nàng, tiếp theo sẽ là ai?
Hiện tại hai vai hắn mang trọng trách tồn vong của Biên Hoang tập. Gánh nặng trầm trọng này làm hắn có cảm giác không thở nổi. Hắn cho tới giờ là người lạc quan, tương lai khó bề đoán trước đối với hắn là một loại mị lực thần kì tuyệt vời, vui quá rồi sẽ hóa buồn, nhưng không phải lúc nào khổ cực thì cũng sẽ thái lai. Biên Hoang tập là một dạng may mắn, ác vận dây dưa thì không thể tăng nhanh, nhưng cũng từng bước đi đến diệt vong. Chẳng ai nói chính xác được vận mệnh tương lai thế nào.
Biên Hoang tập giờ phút này đối mặt chính là tình huống hoàn toàn bất đồng với trước đây. Nếu như bị Mộ Dung Thùy đoạt được, Biên Hoang tập sẽ bị phá hủy hoàn toàn.
Thanh âm của Hồng Tử Xuân vang lên ở phía sau hắn: “Ngươi không phải muốn đi tìm đại tiểu thư sao? Sao lại ngẩn người ra ở đây?”
Mộ Dung Chiến liếc nhìn Hồng Tử Xuân đang chắp tay đi tới bên cạnh, nói: “Ta đang suy nghĩ khi chủ tì Thiên Thiên trở lại Biên Hoang tập, thấy được Đệ Nhất lâu lại xuất hiện ở Biên Hoang tập, mà còn nguy nga tráng lệ hơn trước kia, thì sẽ hân hoan nhảy nhót như thế nào.”
Hồng Tử Xuân gật đầu nói: “Chúng ta mỗi người đều hi vọng thấy có một ngày như vậy. Ài! Hôm nay lạnh đến khác thường, thật khiến người ta phải lo lắng.”
Mộ Dung Chiến ngạc nhiên hỏi: “Lo lắng chuyện gì?”
Hồng Tử Xuân dùng tư thái của một chuyên gia quan sát sắc trời, cười khổ nói: “Ta sợ sẽ có tuyết rơi.”
Mộ Dung Chiến chấn động nói: “Sẽ không sớm như vậy chứ?”
Nếu tuyết thật sự rơi, cái mũi thính của Phương Hồng Sinh sẽ mất linh, sẽ không có cách nào khác tìm ra tung tích của Bí nhân bộ đội.
Hồng Tử Xuân nói: “Rất khó nói, ta sống tại Biên Hoang tập hơn mười năm, trước sau đã gặp qua hai trận tuyết mùa thu, đều là gió to tuyết lớn hiếm thấy.”
Mộ Dung Chiến cười khổ: “Vận khí của chúng ta không xấu đến mức như thế chứ.”
Hồng Tử Xuân thở dài: “Vận khí tốt sẽ không vĩnh viễn ở phía chúng ta. Có câu 'an nguy tương dịch, họa phúc tương sinh'*. Chúng ta đoạt lại được Biên Hoang tập bằng một trận mưa to, cũng có thể vì một trận gió to tuyết lớn mà mất đi Biên Hoang tập.”
Mộ Dung Chiến quả quyết nói: “Ta sẽ không cam chịu số phận, Gió to tuyết lớn thì sẽ có phương pháp chống gió to tuyết lớn. Người phương Nam các ngươi không quen tác chiến trong gió tuyết, người Hồ chúng ta lại là tập mãi thành quen.”
Hồng Tử Xuân nói: “Vừa rồi không nói đại phong tuyết có thể làm Bí nhân dễ dàng lọt vào Biên Hoang, làm chúng ta bị rơi vào thế bất lợi. Chỉ là gió tuyết có thể làm tê liệt giao thông đường bộ Nam Bắc, chỉ cần Mộ Dung Thùy phái binh phong tỏa hai cửa Tứ Dĩnh, phương Bắc đừng hòng có một kiện hàng hóa nào có thể vận chuyển đến Biên Hoang tập. Chúng ta còn làm chuyện Nam Bắc mậu dịch con bà gì?”
Mộ Dung Chiến nói: “Tình huống đúng là như thế. Đại phong tuyết nếu duy trì hơn mười ngày, sẽ tạo ra tổn hại rất lớn đối với kinh tế của chúng ta. Tiếp theo sẽ là những ngày đông giá rét, mà sẽ là mùa đông khó khăn nhất, nhưng cũng có thể làm Mộ Dung Thùy không có cách nào ồ ạt tiến đánh chúng ta.”
Hồng Tử Xuân nói: “Về phương diện tốt thì là như thế. Nhưng nghĩ về khía cạnh xấu, dưới hoàn cảnh tác chiến tồi tệ lại có thể cấp cơ hội tốt cho chiến sĩ Bí tộc. Khi Biên Hoang tập phủ đầy tuyết làm người ngựa khó đi, chúng ta làm sao mà phản kích được Bí nhân?”
Mộ Dung Chiến cười khổ: “Điều này thì cần nhờ vào cái đầu của mọi người rồi.”
Hồng Tử Xuân lại nhìn lên bầu trời, nói: “Hy vọng dự đoán của ta lần này không hiệu nghiệm! Ối! Mẹ ta ơi!”
Mộ Dung Chiến chấn động, ngó lên trên.
Trên cao tràn ngập tầng tầng thứ gì đó như bông, lúc rơi xuống như biến thành vô số cánh hoa bị thổi rơi phất phơ theo gió. Sau đó những bông tuyết vốn như lông vũ hóa thành những đóa những nắm tuyết, dày đặc rơi xuống bao phủ mặt đất.
Mộ Dung Chiến thở dài: “Cái này gọi là nói vu vơ mà thành tiên tri, chúng ta gay go rồi.”

Chú thích

* Hồ Hoàng nghĩa là châu chấu Hồ. Ý nói rợ Hồ gây hại như châu chấu (hại mùa màng).
** An nguy tương dịch, họa phúc tương sinh: Bình an và nguy hiểm tác động qua lại như nguyên nhân và kết quả, họa và phúc sinh ra cùng nhau. Ý tổng thể khi đặt hai thành ngữ này cạnh nhau là chỉ những việc do vọng tưởng mà thành thì trái lại sẽ chỉ là mầm mống của tai ương.