ào ngày mùng một tháng Mười một, dù tỉnh dậy đầu vẫn còn choáng váng do hậu quả của lễ hội Halloween, Marianne Engel vẫn đi thẳng xuống tầng hầm. Trong vòng hai ngày tiếp theo, bức tượng dang dở cuối cùng của cô - con sư tử/khỉ run sợ - đã được tạc một đôi chân để đứng. Khi nó hoàn thành, cô lại nằm lên một phiến đá mới và ngủ khoảng mười hai tiếng trước khi lao vào tạc một bức tượng mới. Trong lúc đó, tôi ngồi một mình trên gác với ký ức về những bóng ma nhảy múa mà lẽ ra tôi không thể thấy được. Con quỷ lùn mới của cô (một khuôn mặt người cắm trên thân hình dị dạng của một con chim) mất bảy mươi tư giờ đồng hồ để hoàn thành, trước khi cô đi lên phòng tắm rửa một chút rồi ngấu nghiến tất cả những gì tìm được trong tủ lạnh. Tôi đã nghĩ rằng cô, như bình thường, sẽ quay trở về phòng ngủ một giấc cho lại sức, nhưng không, cô đi thẳng xuống cầu thang để nằm dài lên trên một khối đá nữa. Sau khi mơ thấy giấc mơ đá, cô lại bỏ ra hơn bảy mươi tiếng để ức chế đối tượng mới nhất của cô. Khi cô xong việc, một con cóc mặt đầy mụn cơm với cái mỏ đại bàng đang gào thét đã hiện ra. Marianne Engel trở lại giường và ngủ rất ngon, nhưng mười tiếng sau cô đã vào bếp uống cả một bình cà phê và ăn nửa cân thịt hun khói. (Khi không phải tạc tượng, cô được phép ăn thịt.) Ngay khi vét sạch cái đĩa, cô lại bước xuống cầu thang tầng hầm. “Một con nữa đang gọi.” Khi tôi hỏi làm sao cô có thể ngủ trên đá sau khi đã uống nhiều cà phê như thế, cô đáp chẳng vấn đề gì. “Con này đã nói chuyện với tôi khi tôi đang tạc con cóc rồi.” Dù đó mới chỉ là tuần thứ hai của tháng Mười một, Marianne Engel đã bắt đầu tạc bức tượng thứ ba trong tháng. Sự gia tăng số lượng hình như còn chưa đủ để làm tôi bực mình, giờ còn thêm cả sự thay đổi về độ tập trung nữa: cô say sưa làm việc hơn bất cứ lần nào tôi chứng kiến trước đây. Mồ hôi chảy khắp người cô, đọng lại thành dòng trên bụi đá, và cô phải mở toang những cánh cửa gỗ sồi khổng lồ để đón gió thu mát lạnh. Cô không bao giờ tắt một trăm ngọn nến đỏ cháy rực xung quanh mình và vòng lửa của chúng bập bùng trong gió như những ngọn lúa mì nhảy múa trên cánh đồng. Nhìn đám dụng cụ cứ lướt vun vút của cô, tôi không thể không nghĩ tới hình ảnh một người nông dân đang vung lưỡi hái lên trong nỗ lực chạy đua với mùa đông đang đến gần. Khi bức tượng thứ ba hoàn thành, Marianne Engel ngay lập tức bắt tay vào làm cái tiếp theo. Những tiếng búa đục đã dần quen thuộc đến nỗi ngôi nhà trở nên thinh lặng quá đỗi khi cô ngơi tay làm việc. Thỉnh thoảng nó - tiếng ồn ấy, không phải sự yên lặng hiếm hoi đâu - còn làm tôi lao ra khỏi nhà. Tôi không bao giờ đi đâu xa, thường chỉ trốn sau mấy góc pháo đài để nhìn những người dân đến thăm nhà thờ Romanus. Cha Shanahan sẽ đứng trên bậc thềm trước, vui vẻ mời họ vào và nài nỉ họ đến vào tuần sau. Họ đều hứa là sẽ đến, và hầu hết đều làm đúng như thế. Shanahan có vẻ là một người khá chân thành, theo chuẩn của linh mục, dù tôi phải thừa nhận rằng mình cũng không hẳn là một người đánh giá vô tư cho lắm. Tôi luôn luôn có cảm giác phấn khích/khó chịu với bọn đàn ông mặc áo chùng: vì tôi ghét cái thể chế mà bọn họ bảo vệ. Tôi còn muốn coi thường họ trên tư cách con người nữa. Nhưng tôi thường nhận ra mình không thể ghét người, chỉ ghét cái bộ áo chùng thôi. Tôi có thể tưởng tượng ra phản ứng tự nhiên của độc giả, họ cho rằng tính vô thần của tôi đã được nuôi dưỡng từ những trải nghiệm cay đắng trong cuộc đời: thời thơ ấu không nơi nương tựa, sự nghiệp khiêu dâm, thói nghiện hút, một vụ tai nạn đã thiêu tôi thành miếng khoai tây chiên. Suy nghĩ đó không hề chính xác. Chẳng có lý do logic nào để tin vào Chúa. Có những lý do cảm tính, dĩ nhiên, nhưng tôi tin rằng chẳng có gì tồn tại chỉ vì nó làm người ta cảm thấy an tâm. Chuyện tôi tin vào Chúa cũng lố bịch như tôi tin rằng có một con khỉ vô hình sống trong mông tôi; tuy nhiên, tôi sẽ tin cả hai nếu cả hai đều được chứng minh một cách khoa học. Đây là vấn đề cốt lõi của những người theo thuyết vô thần: không thể chứng minh sự không tồn tại của một điều gì đ&oacuảo nhất định. Không ai tin rằng thành phố quê hương của mình có thể sản sinh ra những nghệ sĩ đích thực, nhưng hầu như tất cả mọi người đều chấp nhận rằng ở những nơi khác nhân tài nhiều như lá mùa thu. Tuy nhiên, quan trọng hơn, ai cũng thừa nhận rằng bản thảo tốt nhất phải đến từ phòng viết trong các tu viện, vì thế nếu một người phụ nữ quý tộc không thể đặt sách thẳng từ một tu viện nào đó, tôi sẽ là lựa chọn thay thế tốt nhất. Bà ấy sẽ tự hào khoe là mình đang sở hữu một cuốn sách được viết bởi một nữ tu của tu viện Engelthal - mà dĩ nhiên không hề đả động đến việc người nữ tu đó không còn ở trong tu viện nữa rồi. Chẳng mấy chốc tôi đã nhận được nhiều đơn đặt hàng không thể làm xuể, và đó là lúc người ta bắt đầu giở trò biếu xén. Khi tôi bâng quơ nói mình thích nấu ăn đến mức nào, một nữ quý tộc đã đáp ngay lập tức rằng bà sẽ cho tôi cả một lô xích xông thịt ngon nhất đủ loại nếu tôi đặt đơn hàng của bà lên đầu danh sách. Tôi chấp nhận và nhanh chóng phát hiện ra các lời đồn thổi của tầng lớp bay nhanh đến thế nào. Không chậm trễ, tôi đã được mời dùng tất cả các thể loại ngon ngọt và, trước khi tôi kịp nhận ra, yến mạch và lúa mạch đã thay thế hạt kê trong bữa ăn hằng ngày của chúng ta. Chúng ta được tặng tất cả các loại hoa quả đang vào mùa - anh đào, mận, táo, lê và mận gai - và cả những thứ đắt đỏ khác như đinh hương và gừng, mù tạt và thì là, đường và quả hạch. Anh không thể tưởng tượng nổi những thứ này có ý nghĩa đến thế nào đâu. Bất cứ lúc nào không dịch hay chép sách thì tôi lại cố thử các công thức khác nhau; tôi cảm thấy mình đang cố đền bù cho tất cả những món chúng ta chưa bao giờ được ăn. Bà chủ nhà cũng giúp tôi vì bà ấy cũng hiếm khi được sử dụng các loại gia vị hảo hạng thế này, và tôi đã phải cười phá lên trước việc tôi đang dần trở thành một tội đồ ẩm thực. Xét cho cùng, chẳng phải Dante đã ném một nữ quý tộc xứ Sienese vào Địa ngục vì phát hiện ra “tội dùng đinh hương lãng phí” hay sao? Chẳng mấy chốc chúng ta đã sống như ông hoàng bà chúa ở Pháp. Tôi để cửa mở suốt với một nồi thịt hầm lúc nào cũng nghi ngút khói và chúng ta nhanh chóng trở thành đôi vợ chồng nổi tiếng nhất trong vùng. Thậm chí cả những người bạn Beguine của tôi cũng ghé qua, dù họ luôn giả bộ khinh bỉ đồ ăn ngon. Tôi luôn nhắc họ nhớ rằng họ đã thề sống cả đời để làm từ thiện và nếu họ làm trái tim tôi tổn thương thì đó không phải việc thiện đâu. Họ sẽ giả vờ đang ban cho tôi ân huệ bằng việc ăn những món đó, và tôi bắt đầu nhận ra ngay cả các Beguine cũng thích tán hươu tán vượn trong bữa ăn. Những người phụ nữ Do Thái thỉnh thoảng cũng ghé vào và tôi đã bất ngờ khi biết rất nhiều người trong số họ làm kinh doanh, đặc biệt nếu người chồng đã mất và người vợ phải đứng ra đảm đương việc giao thương của gia đình. Phải nói thật, điều này đã tạo cảm hứng cho tôi. Khi tôi trở nên quá bận rộn không thể nhận các bản thảo mới, một trong những người phụ nữ này đã gợi ý tôi nên thuê công nhân và bắt đầu kinh doanh đi là vừa. Đến lúc này, lòng tự trọng bị thương tổn của anh đã được tiền chữa lành. Anh nói tôi có thể làm gì tùy thích, vì thế tôi quyết định mở rộng phạm vi làm ăn. Sao lại không chứ? Khi ở phòng viết, tôi đã học được cách nhiều người hợp tác để làm nên một cuốn sách như thế nào, tôi cũng đã có kinh nghiệm làm việc với các thương gia và hiểu mọi ngóc ngách của quy trình. Càng nghĩ nhiều, tôi càng tin chắc mình có thể làm được. Đầu tiên, tôi tìm một người thợ làm giấy tôi thích. Tôi nhận được sự thán phục của ông khi tôi chỉ cho ông cách làm hỗn hợp đá vôi dùng để ngâm da động vật được nhuyễn hơn. Sau khi ông hết sốc vì được một phụ nữ chỉ dạy, tình bạn của chúng tôi đã nở rộ. Chúng tôi lập một bản giao kèo: hằng tháng ông sẽ mang giấy đến cho tôi, giảm giá nếu tôi lấy nhiều. Mỗi khi hàng được đưa tới, chúng tôi sẽ cùng ngồi xuống nhấm nháp chút thịt hầm và bàn bạc về lượng giấy tôi cần vào tháng tới. Chúng tôi đã trở thành bạn tốt, bạn tốt thực sự ấy, và ông ngày càng thích tài nấu nướng của tôi cũng như việc kinh doanh giữa tôi và ông vậy. Tiếp theo, tôi tìm được một người vẽ tranh minh họa mà sự tinh tế trong tâm hồn rất hợp với tôi. Thương lượng với cậu khá là dễ dàng vì cậu còn trẻ và đang gặp vận rủi. Hằng tháng tôi sẽ gửi cho cậu vài trang sách để vẽ những bức tiểu họa. Cậu cũng làm người kẻ khung và sắp chữ cho tôi, nghĩa là tôi sẽ đỡ phải quản lý thêm một người nữa. Sự sắp xếp này làm cả hai chúng tôi hài lòng; vì lần đầu tiên trong đời cậu có thể kiếm sống nhờ tài vẽ của mình. Cậu tử tế đến mức vẫn giữ một mức giá phải chăng cho tôi ngay cả khi cậu đã có tiếng và rất nhiều người làm sách khác cũng mời mọc cậu làm cho họ. Cũng có cả những người làm công khác nữa, chủ yếu là người viết thuê tự do, nhưng tôi sẽ không làm anh mất thì giờ với tiểu tiết đâu. Điều tuyệt vời nhất trong chuyện kinh doanh này nằm ngoài sức tưởng tượng của tôi: đột nhiên tôi lại được làm việc với sách. Khi tôi được thuê làm các bản sao Eneid của Virgil và Giấc mơ của Scipio của Cicero, nhà bảo trợ đã cho mượn các sách gốc để giúp tôi dễ làm việc. Sau đó, tôi làm các tác phẩm anh hùng lãng mạn - Hiệp sĩ Parzival của Wolfram, Hiệp sĩ Iwein của Hartman và Hiệp sĩ Tristan của Gottfreid. Vào buổi tối, tôi sẽ mang chúng đến bên giường và đọc cho anh nghe. Đây là một trong những giờ khắc hạnh phúc nhất trong cuộc đời chúng ta, vì chẳng có gì làm tôi yêu quý hơn là được ngồi với một cuốn sách đặt lên đùi và có anh tựa vào vai tôi. Tôi cố dạy anh học đọc nhưng anh chẳng bao giờ chịu kiên nhẫn. Hơn nữa, anh bảo thích được tôi đọc cho nghe hơn. Thời gian cứ thế trôi và tôi thấy mình dành nhiều thì giờ hướng dẫn những người chép sách khác hơn là tự mình chép, cho tới khi tôi nhận ra rằng mình đã có đủ năng lượng để các buổi tối tập trung vào bản dịch Dante. Tôi đã buộc phải từ bỏ việc này khi chúng ta mới đến Mainz vì không có giấy viết, rồi khi có những tờ giấy viết đầu tiên thì tôi lại không có thời gian. Giờ tôi có cả hai, và cuối cùng cũng hiểu những gì Gertrud nghĩ về cuốn Kinh Thánh của bà. Tôi sẽ tỉ mẩn soi từng chữ một để đảm bảo bản dịch của tôi phải là một kiệt tác, và sao tôi lại phải vội nhỉ? Anh và tôi còn có cả cuộc đời phía trước cơ mà. Cuối cùng đợt học việc của anh cũng kết thúc và anh đã có giấy tờ tùy thân. Thông thường theo sau đó sẽ là hành trình Wanderjahre, anh sẽ phải đi hết thành phố này đến thành phố khác để học những người thầy khác nhau, nhưng anh chẳng có ý định đi đâu cả. Anh sẽ tìm việc ở Mainz, nơi hầu hết những người thợ đá đều đã biết anh và hiểu rõ tại sao anh quyết định không đi học đâu nữa. Chẳng ai chê bai người đàn ông đã trở thành thợ học việc lớn tuổi nhất trong thành phố cả. Chúng ta đã gặp quá nhiều may mắn trong đời đến nỗi hầu như không ai nói gì về một chuyện hiện không được tốt đẹp cho lắm. Có lẽ chúng ta nghĩ mình không có quyền phàn nàn, hoặc có lẽ chúng ta cũng không muốn ám quẻ nhau, nhưng chúng ta đã rất cố gắng trong chuyện ấy rồi mà tôi vẫn chưa thụ thai. Trong sâu thẳm tâm trí, tôi luôn lo lắng rồi anh sẽ nghĩ tôi không phải một người bạn đời thích hợp, vì thế anh không thể hiểu được tôi đã nhẹ nhõm đến mức nào khi vừa cầm giấy tờ trong tay, anh tuyên bố sẽ kết hôn với tôi. Chúng ta quyết định sẽ chỉ làm một lễ cưới nho nhỏ thôi nhưng ngay khi tin đồn rò rỉ ra ngoài, tất cả những người chúng ta biết đều muốn tham dự. Tôi cho rằng đó là vì chúng ta được yêu mến, nhưng có vẻ mọi người mong đợi một bữa tiệc hoành tráng thì đúng hơn. Tôi chuẩn bị thức ăn, món quà tặng hoành tráng nhất, và nhanh chóng có cả một đội quân giúp sức xuất hiện trong bếp. Khi ngôi nhà của chúng ta trở nên quá nhỏ, việc chuẩn bị đã tràn cả sang những ngôi nhà lân cận. Bà chủ nhà của chúng ta đã điều hành mọi thứ, và thậm chí cả mấy người Beguine cũng đến giúp sức dù họ là những đầu bếp cực kỳ kinh khủng. Nuối tiếc duy nhất của tôi là tôi không thể mời mẹ Christina, cha Sunder và huynh trưởng Heinrich. Tôi đã nghĩ đến việc gửi lời mời tới Engelthal, nhưng tôi biết họ sẽ buộc phải từ chối thôi, và tôi không muốn đặt họ vào tình cảnh đó. Tôi tự an ủi bản thân với suy nghĩ là nếu có thể thì họ chắc chắn sẽ đến. Còn việc duy nhất khiến anh hối tiếc là chuyện anh đã không thể mời Brandeis. Anh còn thậm chí không biết bạn mình còn sống hay không. Tệ hơn, anh không thể đi tìm anh ấy mà không để lộ ra rằng mình đã thoát nạn và trốn khỏi đội quân condotta, đội quân mà luật lệ duy nhất là không để ai trốn thoát. Anh không thể tha thứ cho bản thân chuyện Brandeis đã để anh trốn thoát, trong khi anh ấy phải quay lại với họ. Vẫn có những lúc anh giật mình tỉnh khỏi cơn ác mộng về những trận chiến xưa cũ. Lễ cưới của chúng ta diễn ra rất suôn sẻ và trời thì không thể nào đẹp hơn. Những người thợ đá đứng cùng những người thợ làm sách, người Do Thái với Thiên Chúa giáo, và tất cả mọi người, thậm chí cả những người Beguine nữa, đều ăn cho tới khi bụng no căng. Hầu hết khách khứa đều khật khưỡng về nhà, và rồi chỉ còn lại anh và tôi, dành cho nhau đêm đầu tiên với tư cách là vợ chồng. Khi chúng ta tỉnh dậy vào sáng hôm sau, anh đã tặng tôi m;m động tác của tôi hơi vụng về lóng ngóng đã hạ cánh lên ngực và cằm của cô ta. Cô ta ngã ngửa về phía sau, dù tôi không chắc bao nhiêu là vì cú đấm và bao nhiêu là vì ngạc nhiên. Khi cô ta bò dậy, cô ta nhe hàm răng đầy máu ra cười. “Tôi sẽ không hạ nhục bản thân bằng việc đánh một con điếm chửa đâu,” Agletrudis nói, “nhưng tôi chắc chắn sẽ gửi lời của cô đến cho mẹ Christina.” Ở lại chẳng ích gì cả, vì giờ đây chúng ta không bao giờ được phép vào trong tu viện nữa, mà bọn truy kích thì vẫn còn đang đeo bám ngay phía sau. Tôi cố trèo lại lên ngựa và anh đã để tôi phóng nước đại cho xả bớt cơn giận của mình trước khi hỏi chúng ta sẽ đi về đâu. Tôi nói là tôi không biết. Anh gợi ý cái lán của cha Sunder. Tôi nói rằng ông đã mất rồi. Anh hỏi là không biết huynh trưởng Heinrich có còn sống không. Tôi không biết. Anh nói rằng chúng ta không có sự lựa chọn nào khác, và ngôi nhà của họ là cái đích mới của chúng ta. Huynh trưởng Heinrich rất choáng váng khi thấy chúng ta trước cửa nhà mình sau ngần ấy năm, nhưng ông thậm chí chẳng ngần ngại đến một giây. Ông mở toang cánh cửa để cho chúng ta vào, và tôi sẽ luôn nhớ tới ông vì điều đó. Anh đưa Brandeis thẳng đến chỗ cái giường nhỏ mà anh đã nằm khi ở đây trị bệnh. Huynh trưởng Heinrich trông như đã sức tàn lực kiệt. Ông không còn đi đứng vững chãi được nữa, và ông phải tập tễnh đi lấy nước và dọn chỗ nằm cho chúng ta. Ông giúp chúng ta trị thương cho Brandeis, cố hết sức ghìm anh ấy trong khi anh rửa vết thương cho bạn. Khi Brandeis ngừng vùng vẫy, chính huynh trưởng Brandeis - chứ không phải anh hay tôi - đã nhẹ nhàng vuốt tóc anh ấy, dù ông chưa từng gặp Brandeis trước đó. Khi Brandeis cuối cùng cũng chìm vào giấc ngủ chập chờn, huynh trưởng Heinrich nói rằng sẽ chuẩn bị một chút thức ăn. “Tôi có rất ít khách đến thăm, hãy để tôi được tiếp mọi người…” Tôi khăng khăng đòi giúp và huynh trưởng Heinrich cảm thấy rất thích thú khi thấy giờ đây tôi cũng đã biết nấu nướng. Khi ông khen ngợi kỹ năng mới của tôi, tôi mới dám nói lời chia buồn trước cái chết của cha Sunder. Huynh trưởng Heinrich vừa thái rau vừa gật đầu một cái. “Anh ấy đã sống một cuộc đời tốt đẹp và ra đi trong giấc ngủ, vì thế không có gì phải tiếc thương đâu. Có một đài tưởng niệm rất đẹp và tất cả các xơ đều nói rằng ác quỷ đã mừng vui trước cái chết của anh ấy. Không phải vì Kẻ Thù Lớn đã chiếm được một linh hồn mới, mà vì Friedrich không bao giờ có thể làm hại Hắn với những lời cầu nguyện của mình được nữa.” Giọng ông run rẩy. Friedrich, ông đã nói vậy. Không phải là huynh trưởng Sunder, như ông vẫn thường gọi khi cha còn sống. Không phải trước mặt tôi, ít nhất là thế. Ông cố mỉm cười nhưng không thể, và tôi đã hiểu vì sao ông lại trông khắc khổ đến như vậy. Huynh trưởng Heinrich đang chờ đến lượt mình. “Cô có biết là xơ Gertrud cũng mất rồi không? Trái tim của bà ấy dường như đã không thể chịu nổi sau khi…” Giọng của Heinrich trượt đi. Dĩ nhiên, ông muốn nói đến chuyện cuốn Kinh Thánh của bà bị đốt. “Marianne, khi chỗ tro tàn sót lại được tìm thấy, bà ấy nhận ra rằng cả đời này cuốn Kinh Thánh của mình sẽ không bao giờ được hoàn thành. Những chuyện không hay xảy ra giữa hai ngưnym>
CHƯƠNG 3
CHƯƠNG 4
CHƯn phải rất hài lòng nếu biết được rằng cô đã có mang. Anh ấy luôn tin rằng tình yêu cô dành cho người đó là chân thật.” Ngay chính giữa căn bếp ấy, tất cả những sự kiện xảy ra hàng tuần trước đó đã trở lại với tôi. Đánh mất cuộc sống tôi và anh cùng nhau xây dựng tại Mainz, phát hiện ra mình đã bị đổ cho một tội lỗi khủng khiếp, và biết tin cha Sunder đã mất. Agletrudis đứng cười ở cổng, với tư cách là quyền tu viện trưởng. Việc thai nghén của tôi, tôi đã lo lắng từng giây phút mỗi ngày. Tôi đã gần như kiệt hết ý chí và tinh thần từ khi chúng ta rời khỏi Nürnberg, nhưng ngay trong giây phút ấy thì tất cả mọi sức mạnh còn sót lại của tôi đều cạn sạch. Tôi giải phóng tất cả những giọt nước mắt mình đã cố kìm nén từ trước đến giờ. Tôi gục xuống, người tôi gập lại trong cánh tay của người anh lớn. Lại được ôm thật là một điều tuyệt vời, chỉ đơn giản là được ôm và được nghe những lời nói ân cần. Anh đã quá bận rộn chiến đấu bảo vệ chúng ta, thúc cho ngựa chạy và lập các bước hành động tiếp theo. Tôi không trách anh, nhưng tôi nhớ những cử chỉ quan tâm ấm áp của anh. Huynh trưởng Heinrich vuốt tóc tôi y như với Brandeis, và ông đặt tôi nằm lên giường của chính mình. Ông đắp chăn cho tôi và nói cho tôi chính xác điều tôi cần được nghe: rằng tất cả mọi việc đều sẽ tốt đẹp cả thôi. Vài ngày trôi qua và chúng ta không có sự lựa chọn nào khác ngoài cứ ở nguyên tại đó. Tôi hy vọng có lẽ chúng ta đã đánh lừa được bọn truy lùng, nhưng anh đảm bảo với tôi rằng chúng ta chắc chắn không làm được điều đó. Anh nói với một sự tin tưởng tuyệt đối rằng, giờ đây khi một tên truy kích đã chết, những kẻ còn lại sẽ tái hợp và cố gắng tìm hiểu xem chúng ta đang bài binh bố trận thế nào. Chúng ta luôn cẩn thận rửa vết thương cho Brandeis và mong nó sẽ lành, nhưng chúng ta đã hy vọng quá nhiều. Nó bị nhiễm trùng và anh ấy sốt rất cao, nói mê sảng. Anh đã chứng kiến chuyện này trước đây, trên chiến trường, và biết mình phải làm gì. Huynh trưởng Heinrich giữ hai vai của Brandeis còn tôi giữ hai chân anh ấy, trong khi anh dùng một cái rựa cắt đi một phần đùi của anh ấy. Khi chúng ta làm xong, quần áo mọi người đều dính đầy máu và có cả một tảng thịt trong cái xô. Khi tôi nhìn vào vết thương khủng khiếp trên đùi Brandeis, tôi đã cảm thấy hai điều: xấu hổ vì nỗi sợ rằng vết thương sẽ ảnh hưởng đến tôi theo cách nào đó và làm hại đứa trẻ, và tội lỗi vì lý do gây ra vết thương. Nếu tôi không do dự trước cửa sổ nhà trọ đó, Brandeis đã có thể nhảy ra trước khi cái rìu phóng tới. Huynh trưởng Heinrich là người đầu tiên nhận thấy sự hiện diện của hai gã đàn ông cưỡi ngựa. Chúng giữ một khoảng cách khá xa ngôi nhà, qua rặng đồi nơi tôi từng chơi đùa khi còn nhỏ, nhưng chắc chắn bọn chúng đang theo dõi chúng ta. Chúng là bọn truy kích, dĩ nhiên. Khi tôi hỏi tại sao chúng không tới thẳng chỗ chúng ta, “Bọn chúng biết là chúng ta có cung tên và có thể sử dụng vũ khí, vì thế chúng đã gọi viện binh.” Có vẻ bọn chúng vẫn chưa phát hiện ra anh, vì chúng chưa nhìn được rõ anh. Mà cho dù có nhìn được, chúng cũng khó mà nhận ra anh - không chỉ vì anh bị bỏng, mà còn vì chúng gia nhập đội condotta sau khi anh đã trốn đi. Chúng không thể biết tôi là ai, dù chúng là những thành viên kỳ cựu đến thế nào, nhưng chúng chắc chắn cũng đoán được hẳn là phải có lý do gì đó thì chúng ta mới không tiếp tục trốn chạy. Chúng có biết về vết thương của Brandeis không? Rất có thể, vì chúng hẳn đã nhìn thấy những vệt tuyết đầy máu bên vệ đường ở Nürnberg. Liệu chúng có phát hiện ra cái bụng bầu giấu dưới lần áo choàng của tôi không? Chắc là không. Nhưng trước tất cả những câu hỏi của chúng về chúng ta, tôi có một câu hỏi lớn hơn dành cho chúng: chuyện gì sẽ xảy ra khi những tên lính đánh thuê khác đến? Chúng ta đã tranh cãi rất kịch liệt. Huynh trưởng Heinrich nói ông sẽ đi ra với tư cách người phụng sự Chúa để nói chuyện phải quấy với chúng. Anh cười vào cái ý nghĩ đó. Brandeis, trong lúc tỉnh táo, đã tranh luận rằng anh ấy sẽ đối diện với số phận của mình như một người đàn ông, và đây cũng là cách duy nhất giúp những người còn lại thoát chết. Chúng ta phải chạy trốn để bảo toàn tính mạng, anh ấy nói thế, trong khi anh ấy đánh lạc hướng bọn chúng bằng cách phi ngựa theo hướng ngược lại. Nhưng dĩ nhiên chúng ta không thể để anh ấy làm hành động tự sát như thế. Anh muốn đứng lên chiến đấu, ngay bây giờ và tại đây, nhưng ai sẽ chiến đấu cùng anh? Không phải một nữ tu đã giải nghệ và đang mang bầu. Không phải Brandeis, người vẫn chưa tỉnh hẳn khỏi cơn mê sảng. Không phải Heinrich, một ông già. Vì thế điều anh thực sự muốn nói ở đây là anh sẽ một mình chống lại chúng. Lập luận của anh là nếu anh có thể diệt được hai tên lính này, ít nhất tôi và Heinrich cũng có thể trốn thoát trước khi bọn còn lại đến. Anh sẽ đưa Brandeis đi theo hướng ngược lại, dù anh ấy có chịu được hay không. Kế hoạch này, anh nói, giờ là lựa chọn tốt nhất. Chúng ta không thể cứ chờ chết ở đây được. Cuối cùng, chẳng lập luận nào thành công cả. Khi tất cả những người còn lại đã ngủ và đến lượt anh phải thức canh, anh mang cung tên biến vào bóng đêm. Không ai hay biết anh đã đi cho tới khi anh quay lại đánh thức mọi người dậy. “Chúng chết rồi,” anh nói. “Trời tảng sáng rồi và những kẻ khác sẽ đến chóng thôi, vì thế chúng ta phải nhanh lên.” Tôi đã không thể kìm được sửng sốt trước chuyện anh giết người, khóc.” “Cho tôi hỏi ông một câu. Liệu có thể tin vào sự tồn tại của những linh hồn nhưng lại không tin vào sự tồn tại của Chúa được không?” “Với một số người, có thể.” Cha Shanahan nhấp một ngụm trà. “Nhưng không phải với tôi.” ° ° ° Số 24 đã xong. Số 23 đã xong. Số 22 đã xong. Đó là tuần cuối cùng của tháng Mười một, và Marianne Engel cuối cùng cũng chịu lên gác. Có vẻ chuyện thiếu ăn thiếu ngủ tử tế đã làm cô không thể chịu đựng thêm nữa. Tôi chẳng giỏi nấu ăn lắm, nhưng tôi cũng bắt cô ăn một bữa và đảm bảo bữa ăn đó thật đủ chất. Cô không chỉ kiệt sức, lượng caffeine và nicotine cô nốc vào người đã làm cô suy nhược khủng khiếp. Cô cứ rung bần bật trên ghế, mắt không tập trung được một giây, và liên tục đánh rơi thìa. Khi ăn xong, cô cố đứng dậy nhưng nhận thấy mình không thể. “Anh giúp tôi cái!” Tôi đã kiếm được cơ hội thể hiện tài leo cầu thang của mình và cố hết sức đỡ cô từ phía sau, gần như là kéo lê cô trên mấy bậc thang. Khi chúng tôi tới được phòng tắm, tôi mở vòi và cô ngồi phịch vào bồn tắm. Chẳng việc gì phải đậy kín lỗ thoát nước cho tới khi chúng tôi xả xong lớp ghét bẩn đầu tiên cả, thế là tôi cứ giúp cô xối nước lên người. Khi cô đã tráng xong người để có thể tắm tử tế, chúng tôi vặn đầy nước vào bồn. Tôi ngồi bên bồn, kỳ cọ cho cô. Những quầng thâm đen to tướng đã xuất hiện dưới mắt cô. Tôi giội sạch những mảnh đá vụn bám vào mớ tóc rối xù, giờ đang rung rinh như những giàn nho ai đó quên tưới nước. Sự thay đổi tệ nhất chính là số cân cô đã sụt: có lẽ gần năm cân, có thể là mười. Điều đó chẳng tốt đẹp gì cho cô cả, vì cô sụt cân nhanh quá, theo đúng cách tệ nhất có thể. Tôi thề rằng mình sẽ bắt cô ăn tử tế hơn, ăn nhiều hơn. Ngày nào cũng vậy. Việc tắm rửa làm cô sảng khoải đến mức cô có thể tự về phòng ngủ mà không cần tôi giúp. Ngay khi cô đã yên vị trong chăn thì tôi liền xoay người đi luôn, nghĩ rằng cô sẽ ngủ ngay lập tức. Cô đã làm tôi ngạc nhiên khi gọi tôi lại. “Mainz. Khu chợ. Anh có muốn biết đó là ai không?”