Dịch Giả: Nguyễn Xuân Hiến
Thuyết khát dục và bệnh thần kinh Narcissisme
Phần thứ ba: Thuyết tổng quát về chứng bệnh thần kinh

(Bệnh của những người mê say chính sắc đẹp của mình)
Đã nhiều lần và ngay mới đây thôi, chúng ta đã phân biệt khuynh hướng của cái tôi và những khuynh hướng tính dục. Sự dồn ép cho thấy là luôn luôn giữa hai khuynh hướng này có sự phản đối nhau và trong cuộc xung đột đó bao giờ những khuynh hướng tình dục cũng thua và phải tìm cách thoả mãn bằng những phương sách thụt lùi khác: trong thực tế người ta không thể chế ngự được những khuynh hướng tình dục, nhưng những khuynh hướng này tìm thấy trong tính cách không thể chế ngự được này một sự đền bù cho sự thất bại của mình. Chúng ta đã thấy hai loại khuynh hướng này có hai thái độ khác nhau đứng trước nhu cầu của đời sống thực tế và do đó chúng theo hai con đường phát triển khác nhau và liên lạc với thực tế bằng hai cách khác nhau. Chúng ta tưởng rằng những khuynh hướng tình dục liên lạc chặt chẽ với trạng thái tình cảm của cái tôi hơn những khuynh hường của chính cái tôi, nhưng điều này hoàn toàn đầy đủ đối với một vấn đề quan trọng duy nhất. Cho nên để hỗ trợ kết quả này chúng ta phải kể đến sự kiện đáng chú ý là sự không thoả mãn cái đói và cái khát, hai bản năng tự tồn tại sơ đẳng nhất không bao giờ biến những khuynh hướng đó thành những khuynh hướng lo sợ, trong khi việc khát dục không được thoả mãn bao giờ cũng biến thành khuynh hướng lo sợ đã trở thành một hiện tượng luôn luôn xảy ra và được biết đến nhiều nhất.
Vì vậy chúng ta quả có quyền phân biệt những khuynh hướng tình dục và khuynh hướng của cái tôi và không ai phủ nhận quyền đó được. Chính cái quyền phân biệt đó đã phát sinh ra việc có mặt của bản năng tình dục với tính cách một sự hoạt động của con người. Chỉ có điều cần hỏi là chúng ta gán cho sự phân biệt đó một tầm quan trọng, một tính cách sâu xa như thế nào? Chúng ta chỉ có thể trả lời câu hỏi đó một khi ấn định rõ ràng sự khác nhau trong khi hoạt động của những khuynh hướng tình dục trong cách phát hiện về phương diện cơ thể và tinh thần và những khuynh hướng khác trái ngược với chúng, và nhất là khi chúng ta biết rõ được tầm quan trọng của những hậu quả do sự khác nhau này gây ra. Tất nhiên chúng ta không có lý do gì để nói rằng giữa các khuynh hướng này có sự khác nhau gì về thực chất. Cả hai loại đều chỉ là những nguồn nghị lực và tìm hiểu xem có phải thực ra hai loại này chỉ là một hay không, hay giữa chúng có một sự khác nhau về một thực chất nào hay không và nếu trong thực tế chúng chỉ là một thì khi nào chúng tách bạch nhau ra; vấn đề này phải được thảo luận không dựa trên những khái niệm trừu tượng mà phải dựa trên căn bản những sự kiện do sinh lý học cung cấp. Những sự hiểu biết của chúng ta về vấn đề này còn thiếu sót, nhưng dù không thiếu sót chăng nữa thì vấn đề đó cũng chẳng thuộc phạm vi môn phân tâm học.
Chúng ta sẽ không có lợi gì khi chấp nhận ý kiến của Jung về tính duy nhất, căn bản của mọi bản năng và gán cho những nghị lực được phát hiện ra trong các bản năng đó cái danh dự “khát dục”. Vì không thể nào gạt bỏ được cơ năng tình dục ra ngoài đời sống tinh thần, chúng ta bị bắt buộc phải nói đến một sự khát dục có tính chất tình dục và một sự khát dục không có tình chất tình dục. Chúng ta có lí do khi chỉ dùng danh từ khát dục chỉ những khuynh hướng tình dục thôi và từ trước tới nay chúng ta bao giờ vẫn cũng chỉ dùng danh từ khát dục theo nghĩa đó thôi.
Vì thế nên tôi nghĩ rằng vấn đề nên đi xa tới mức nào trong việc phân biệt những khuynh hướng tình dục và các khuynh hướng tự bảo tồn khác không thành vấn đề, không quan trọng đối với phân tâm học. Phân tâm học không có thẩm quyền giải quyết vấn đề đó. Tuy nhiên sinh lý học cho ta vài điều chỉ dẫn chứng tỏ rằng sự phân cách đó có ý nghĩa sâu xa. Tình dục là cơ năng độc nhất trong cơ thể con người vượt ra khỏi cá nhân và ràng buộc con người với dòng giống con người. Sự hoạt động của cơ năng này không có ích cho cá nhân như các cơ năng khác, trái lại còn gây ra biết bao nhiêu nguy hiểm đe dọa đời sống con người, nhiều khi còn làm mất đời sống này nữa, khi cơ năng đạt đến mức khoái lạc cao. Vả lại có thể một phần nào đời sống sau với tính cách di truyền. Sau cùng con người cá nhân thường tự coi như yếu tố cần thiết nhất và coi tình dục như một cách thoả mãn như trăm ngàn cách khác, về phương diện sinh lý chỉ là một giai đoạn trong bao nhiêu thế hệ, một cái bướu trong một nguyên sinh chất bất diệt, một người chiếm lĩnh tạm thời trong một sự giao thác di sản.
Tuy nhiên, sự giải thích bệnh thần kinh về phương diện phân tâm học không cần đến nhận xét có tầm quan trọng quá cao như thế. Sự khảo sát riêng biệt khuynh hướng tình dục và khuynh hướng của cái tôi đã cung cấp cho ta phương sách tìm hiểu bệnh thần kinh hoán chuyển. Bệnh này chính là kết quả của sự xung đột giữa những khuynh hướng tình dục và những khuynh hướng bản năng tự bảo tồn, hay nói về phương diện sinh lý bằng những danh từ mơ hồ hơn, giữa cái tôi được hiểu như cá nhân con người độc lập, với cái tôi coi như một phần tử của một thế hệ. Chúng ta có đủ lý do tin rằng chỉ loài người mới có sự phân biệt giữa hai cái tôi cá nhân và xã hội này; cho nên trong tất cả các giống vật trên mặt đất, con người đã hiến cho chúng ta một môi trường tốt nhất để khảo sát về bệnh thần kinh. Sự phát triển quá mức của khát dục của con người, đời sống tinh thần dồi dào, hậu quả của sự phát triển khát dục có vẻ như đã tạo điều kiện gây ra sự xung đột đó. Tất nhiên chính những điều kiện này cũng là điều kiện phát sinh ra những tiến bộ to lớn của loài người, những điều tiến bộ giúp cho loài người bỏ lại đằng sau tất cả những cái gì có chung với loài vật, thành ra tính di truyền làm cho con người dễ mắc bệnh thần kinh chính là mặt trái của chiếc mề đay, nghĩa là của những năng khiếu có tính chất thuần tuý của con người. Nhưng thôi chúng ta hãy tạm gác lại những điều lý luận chỉ có tác dụng đưa chúng ta đi xa những vấn đề hiện đại.
Từ trước tới nay chúng ta làm việc trên căn bản định đề là có thể phân biệt được những khuynh hướng của cái tôi và những khuynh hướng tình dục dựa theo sự phát hiện của cả hai. Đối với bệnh thần kinh hoán chuyển thì sự phân biệt như thế chẳng gặp khó khăn gì. Chúng ta đã gọi là khát dục những sự hao phí sinh lực mà cái tôi dành cho những đối tượng của các khuynh hướng tình dục và gọi là “lợi ích” những sự hao phí sinh lực bắt nguồn trong các bản năng tự bảo tồn; bằng cách theo dõi mọi định cư của khát dục, những sự biển đổi và số phận sau cùng của nó, chúng ta đã có được một khái niệm đầu tiên về sự hoạt động của các động lực tinh thần. Về phương diện này, bệnh thần kinh hoán chuyển đã hiến cho ta vật liệu được việc nhất. Nhưng về chính cái tôi, về những tổ chức của cái tôi, cách cấu tạo và hoạt động của những tổ chức này ta chưa biết gì hết và chúng ta chỉ có thể đồ chừng là biết đâu sự phân tích các bệnh thần kinh khác chẳng giúp cho ta rọi ánh sáng vào những vấn đề đó.
Chúng ta đã mở rộng quan điểm phân tâm học của chúng ta đến những chứng bệnh khác này. Chính vì thế nên năm 1908 sau một cuộc thảo luận với tôi, K.Abraham đã đưa ra đề luận là đặc tính chính của bệnh điên sớm phát nằm trong sự việc khát dục không định cư trên những đối tượng của căn bệnh này (giữa bệnh náo loạn thần kinh và bệnh điên sớm phát có những sự khác nhau về tâm lý tình dục). Nhưng một khi khát dục của những người điên không định cư trên những đối tượng thì nó đi đâu? Abraham trả lời là khát dục quay trở lại với cái tôi và chính sự quay trở lại này, việc khát dục nhảy vội về với cái tôi chính là nguồn gốc của thói quen kỳ cục thích danh vọng cao sang trong bệng điên phát sớm. Thói quen kỳ cục thích danh vọng cao sang có thể so sánh với sự thái quá về giá trị tình dục của đối tượng mà người ta nhận thấy trong đời sống tình ái. Đây là lần đầu tiên chúng ta nhận thấy một đặc điểm của bệnh tâm lý đứng trước một đời sống tình ái bình thường.
Tôi phải nói ngay với các bạn: những quan niệm đầu tiên của Abraham vẫn còn tồn tại trong phân tâm học và trở thành căn bản trong thái độ của chúng ta đối với bệnh thần kinh. Dần dần người ta quen với ý nghĩ là sự khát dục mà chúng thường thấy định cư trên các đối tượng, sự phát hiện của một khuynh hướng tìm được thoả mãn bằng những đối tượng đó, sự khát dục cũng có thể bỏ rơi các đối tượng đó và thay thế chúng bằng cái tôi. Lúc đó người ta mới tìm cho sự phát hiện này một hình thức hoàn hảo hơn bằng cách đặt những liên lạc chặt chẽ hơn giữa những yếu tố cấu thành của nó. Chữ “narcissisme” mà chúng ta để chỉ sự di chuyển nói trên lấy ở một bệnh mà P.Nacke đã mô tả, trong đó người đứng tuổi đối với thân thể mình có một sự say mê âu yếm thường thấy trong một đối tượng tình dục bên ngoài.
Người ta đã tự nhủ là nếu một khi khát dục có thể định cư ngay trên chính thân thể mình thay vì phải định cư trên một đối tượng khác thì sự việc đó không thể được coi là một sự việc đặc biệt và không có ý nghĩa; mà bệnh “narcissisme” chính là trạng thái nói chung và sơ khởi rồi từ đó mới phát sinh ra tình ái đối với một đối tượng và sự phát sinh này không vì thế mà làm mất đi bệnh “narcissisme”. Theo những điều chúng ta biết về sự phát triển của khát dục đối với đối tượng, rất nhiều khuynh hướng tình dục lúc đầu đã được sự thoả mãn mà người ta gọi là tự thoả mãn này giải thích tại sao tình dục lại chậm trễ trong việc thích ứng với nguyên lý thực tế do giáo dục mang lại. Như vậy, tức là sự tự thoả mãn là hoạt động tình dục trong giai đoạn “nác sít” của sự định cư khát dục.
Tóm lại, chúng ta đã tự tạo ra một hình dung về các liên quan giữa khát dục của cái tôi và khát dục khách quan mà tôi có thể cụ thể hoá bằng một sự so sánh lấy trong động vật học. Các bạn hẳn biết những sinh vật sơ đẳng gồm có một nguyên sinh chất chỉ hơi khác nhau chút ít. Những sinh vật này phóng ra những chân giả để tiêu thoát sức sống của chúng. Nhưng chúng cũng có thể rút những chân giả đó lại và cuốn tròn mình lại như một viên tròn. Chúng ta ví những chân giả đó với sự vươn mình của khát dục tới những đối tượng trong khi khối chính của nó vẫn nằm trong cái tôi, chúng ta cho rằng trong những trường hợp bình thường khát dục của cái tôi có thể biến thành khát dục khách quan và chính khát dục khách quan cũng có thể quay trở lại với cái tôi được.
Nhờ những hình dung này chúng ta có thể giải thích, hay nói một cách khiêm nhường hơn, mô tả một số lớn trạng thái tinh thần phải được coi như nằm trong đời sống bình thường, thái độ tinh thần trong tình ái, trong các chứng bệnh cơ thể, trong giấc ngủ. Về trạng thái giấc ngủ, chúng ta đã nói rằng giấc ngủ chính là sự thoát khỏi ảnh hưởng của đời sống bên ngoài phụ thuộc vào ham muốn được ngủ ngon. Chúng ta đã nói rằng mọi hoạt động tinh thần ban đêm trong giấc mơ đều làm việc cho sự ham muốn này, chịu sự quy định và chế ngự của những lý do ích kỷ. Đứng về phương diện khát dục chúng ta cho rằng giấc ngủ là một trạng thái trong đó mọi sinh lực, khát dục hay ích kỷ, gắn liền vào đối tượng, rời khỏi các đối tượng đó để quay vào cái tôi. Các bạn có thấy rằng quan niệm này chỉ rõ cho ta thấy tính chất sự nghỉ ngơi và sự mệt nhọc trong giấc ngủ không? Quang cảnh được thoát khỏi đời sống bên ngoài một cách sung sướng như thế được bổ túc về phương diện tinh thần. Trạng thái phân phối khát dục cổ xưa lại trở lại trong người ngủ: trong đó khát dục là lợi ích của cái tôi sống, chúng rất hoà hợp, dính liền vào nhau trong một cái tôi không cần đến bất cứ một yếu tố nào khác.
Ở đây chúng ta cần hai nhận xét: Thứ nhất chúng ta làm thế nào phân biệt được “nác xít” và sự ích kỷ? Theo ý tôi, “nác xít” chính là sự bổ túc có tính cách khát dục cho sự ích kỷ. Nói đến ích kỷ chúng ta chỉ nghĩ đến nhiều điều gì có ích cho cá nhân; nhưng nói đến “nác xít” chúng ta nghĩ đến sự thoả mãn khát dục của cá nhân. Về phương diện thực tế, sự khát biệt giữa ích kỷ và “nác xít” có thể đi xa nữa. Người ta có thể rất ích kỷ nhưng vẫn không thôi gán cho một vài đối tượng rất nhiều sinh lực khát dục trong khi sự thoả mãn này tương ứng với những sự đòi hỏi của cái tôi. Sự ích kỷ sẽ làm sao cho sự theo đuổi những đối tượng đó không làm hại đến cái tôi cả. Người ta có thể vừa ích kỷ mà lại vừa có tính “nác xít” rất trầm trọng nữa. Nghĩa là có thể gạt ra ngoài những đối tượng tình dục một cách dễ dàng hoặc về phương diện của thoả mãn tình dục trực tiếp hoặc về phương diện của những khuynh hướng dẫn xuất từ nhu cầu tình dục mà chúng ta thường đối lập với tình dục thuần tuý, điều này chúng ta goị là tình ái. Trong tất cả các trạng thái phỏng đoán nay sự ích kỷ xuất hiện như một yếu tố đặt trên hết mọi điều phản đối, một yếu tố bất biến, trong khi “nác xít” chỉ là yếu tố luôn luôn thay đổi. Sự trái ngược của ích kỷ, sự vị tha không hề trùng hợp với sự phụ thuộc của các đối tượng vào sự khát dục, khác ích kỷ ở chỗ không theo đuổi sự thoả mãn tình dục. Chỉ trong trạng thái tình ái tuyệt đối, lòng vị tha mới trùng hợp với sự tập trung khát dục vào một đối tượng. Đối tượng tình dục thu hút vào cho mình một phần của “nác xít” do đó chúng ta mới có cái mà chúng ta gọi là “sự thái quá giá trị tình dục của đối tượng”. Nếu thêm vào đó chúng ta có tính vị tha của sự ích kỷ truyền vào đối tượng tình dục thì đối tượng này trở nên mạnh vô cùng: người ta có thể cho rằng đối tượng đó đã thu hút cả cái tôi.
Sau bài thuyết trình khô khan và khó nhai của khoa học chắc các bạn sẽ khoan khoái khi nghe một bài ca tả sự trái ngược giữa “nác xít” và trạng thái tình yêu. Tôi lấy bài này trong Westostilicher Divan của Goêth:
SULEIKA
Các dân tộc dù là kẻ nô lệ hay kẻ chiến thắng
Bao giờ cũng đồng ý với nhau ở điểm này:
Hạnh phúc tuyệt đối của trẻ con trong trái đất,
Chỉ thấy trong cá tính con người thôi.
Dù đời sống như thế nào chăng nữa, người ta cũng sống được,
Một khi người ta biết rõ chính mình,
Chả có gì mất đi hết,
Một khi người ta vẫn nguyên như người ta bây giờ,
HATEM
Có thể được lắm. Đó là dự luận thường thường.
Nhưng tôi theo mọt con đường khác.
Tất cả hạnh phúc trên trái đất này,
Tôi chỉ thấy tập trung hết trong người Suleika thôi.
Chỉ trong trường hợp nàng ban cho tôi những đặc ân.
Nếu nàng không thèm nhìn tôi,
Tôi cho rằng,
Tôi sẽ mất hết.
Sẽ không còn thằng Hatem nữa.
Nhưng tôi biết tôi sẽ làm gì.
Tôi sẽ hoà mình vào trong con người sung sướng.
Được nàng ban cho những cái hôn.
Nhận xét thứ hai của tôi bổ túc cho thuyết về giấc mơ. Chúng ta sẽ không thể cắt nghĩa được sự phát sinh ra giấc mơ nếu chúng ta không công nhận, với tính cách bổ túc, rằng vô thức bị dồn ép trở nên độc lập với cái tôi trong một mức độ nào đó, thành ra nó không chịu sự chế ngự của ham muốn trong giấc ngủ và giữ vững vị trí của nó dù rằng mọi sinh lực khác phụ thuộc vào cái tôi đều bị thu hút để phục vụ giấc ngủ trong mức độ mà chúng gắn liền vào những đối tượng. Đến lúc đó chúng ta mới hiểu tại sao cái vô thức có thể lợi dụng được sự huỷ bỏ hay giảm sút của kiểm duyệt trong đêm để cướp lấy “những cái gì còn sót lại ban ngày” để cùng với các vật liệu do những cái gì còn sót lại cung cấp, hợp thành một ham muốn trong mơ bị cấm đoán. Ngoài ra cũng có thể là “những cái gì còn sót lại ban ngày”, do việc nó giao tiếp với cái vô thức bị dồn ép có đủ khả năng chống lại khát dục bị giấc ngủ xâm chiếm hết. Trong sự kiện này có một đặc tính vô cùng quan trọng có tính cách sống động mà chúng ta phải đưa vào trong quan niệm của chúng ta liên can đến sự thành lập giấc mơ.
Một bệnh trong cơ thể, một cái gì làm cho mình đau đớn; một chứng viêm ở cơ quan nào đó đều tạo ra một trạng thái mà hậu quả là sự tách rời của sự khát dục ra khỏi đối tượng của nó. Khát dục sau khi rời khỏi đối tượng của mình trở vào với cái tôi để bám chặt vào bộ phận đau đớn trong thân thể. Người ta có thể khẳng định rằng trong những điều kiện này sự tách rời của khát dục ra khỏi đối tượng của nó còn mạnh hơn sự tách rời của sự ích kỷ đối với thế giới bên ngoài. Điều này như mở đường cho chúng ta hiểu rõ bệnh uất trong đó, một cơ quan cũng làm cho cái tôi bận tâm rất nhiều nhưng chúng ta không biết rằng cái tôi lúc đó cũng đang bệnh. Nhưng tôi không muốn đi sâu hơn vào con đường này nữa, hay phân tích những trạng thái mà giả thuyết về sự quay trở về trong cái tôi của sự khát dục có thể làm thành dễ hiểu hơn hay cụ thể hơn: lý do là tôi muốn nhanh chóng trả lời hai điểm mà các bạn muốn hỏi. Thứ nhất, các bạn muốn biết tại sao khi nói đến giấc ngủ, đến bệnh tật và các tình trạng khác, tôi lại phân biệt “khát dục” và “lợi ích”, “khuynh hướng tình dục” và “khuynh hướng của cái tôi” trong khi người ta có thể phân tích các sự đó bằng cách chỉ nói đến một sinh lực duy nhất, sinh lực này trong khi hoạt động có thể hoặc bám vào đối tượng, hoặc bám vào cái tôi, phục vụ cho khuynh hướng này hay khuynh hướng khác. Thứ hai các bạn ngạc nhiện khi thấy tôi coi sự tách rời khát dục ra khỏi đối tượng như nguồn gốc của một trạng thái bệnh hoạn trong khi sự biến đổi của khát dục khách quan thành khát dục của cái tôi, cũng thuộc thành phần các hoạt động tinh thần bình thường lặp đi lặp lại hàng ngày, hàng đêm.
Tôi trả lời như sau. Lời bài bác thứ nhất của bạn nghe được. Việc xem xét những trạng thái giấc ngủ, bệnh tật và tình ái có lẽ không bao giờ sẽ dẫn tới sự phân biệt giữa khát dục khách quan và khát dục của cái tôi, giữa khát dục và lợi ích. Nhưng bạn đã quên mất những công trình khảo cứu khởi đầu của chúng ta, những công trình đã rọi ánh sáng vào những trạng thái tinh thần mà chúng ta đã khảo cứu từ trước tới nay. Chỉ vì đã chứng kiến sự xung đột phát sinh ra bệnh thần kinh chuyển hoán mà giữa những bản năng tình dục và bản năng tự bảo tồn. Chúng ta không thể nào bỏ được sự phân biệt đó. Việc khát dục của các đối tượng có thể biến thành khát dục của cái tôi, việc phải xét đến sự có mặt của khát dục của cái tôi là cách giải thích duy nhất có giá trị đối với những điều bí ẩn của bệnh thần kinh mà chúng ta gọi là “nác xít”, ví dụ như bị điên sớm phát, đối với những điều giống nhau và khác nhau giữa bệnh này một đằng và bệnh náo loạn thần kinh cùng bệnh ám ảnh đằng khác. Hiện nay chúng ta áp dụng cho giấc ngủ, bệnh tật và trạng thái tình ái những điều mà chúng ta thấy không thể chối cãi được tại nơi khác. Chúng ta cần tiếp tục sự áp dụng đó để xem chúng sẽ đưa chúng ta tới đâu. Đề luận duy nhất không được rút ra một cách trực tiếp từ sự nghiên cứu phân tâm học là như sau: khát dục vẫn là khát dục, dù đem áp dụng cho các đối tượng hay cho cái tôi của đương sự và không bao giờ nó biến thành lợi ích, ích kỷ cả; đối với lợi ích cũng vậy, nó không bao giờ biến thành khát dục cả. Nhưng đề luận này cũng giống như sự phân biệt giữa khuynh hướng tình dục và khuynh hướng của cái tôi, sự phân biệt mà chúng ta phải giữ lại cho tới khi nó bị phủ nhận vì lý do ích lợi của sự phát minh.
Lời bài bác thứ hai của bạn cũng đúng nhưng đi sai đường hướng. Tất nhiên sự quay trở về với cái tôi của khát dục sau khi tách rời khỏi đối tượng không phải là nguyên nhân trực tiếp gây bệnh; chúng ta chẳng đã thấy hiện tượng này xảy ra trước khi bắt đầu giấc ngủ để rồi lại thụt lùi trở lại sau khi thức dậy sao? Giống vật li ti trong nguyên sinh chất thụt chân giả vào rồi lại thò ra khi gặp cơ hội. Nhưng sự việc xảy ra khác hẳn khi có một sự diễn tiến nào đó rất cương quyết bắt buộc khát dục phải tách rời khỏi đối tượng. Khát dục sau khi trở thành “nác xít” không tìm lại được con đường trở về đối tượng nữa và chính sự giảm sút của tính di động của khát dục mới là nguyên nhân gây bệnh. Người ta có thể nói rằng trong một vài giới hạn nào đó sự tích luỹ của khát dục không chịu đựng được. Nếu khát dục phải bám vào một đối tượng nào đó chính là vì cái tôi gây nên. Nếu chúng ta định đi vào chi tiết của bệnh điên sớm phát, tôi sẽ cho các bạn hay rằng sự diễn tiến làm cho khát dục sau khi tách rời khỏi đối tượng không tìm được quay về với những đối tượng đó nữa - sự diễn tiến đó cũng gần sự dồn ép hay một sự gì giống thế. Nếu tôi nói cho bạn hay rằng những điều kiện của sự dồn ép thì các bạn sẽ có cảm tưởng như đang đi trên con đường quen thuộc. Sự xung đột có vẻ như chỉ là một, và diễn ra bằng những sức mạnh giống nhau. Nếu kết quả của cuộc xung đột đó có khác nhau như trong bệnh náo loạn thần kinh chẳng hạn thì đó chỉ là do sự khác nhau về bản chất. Trong người bệnh của chúng ta, phần yếu trong quá trình phát triển của khát dục, phần gây ra triệu chứng, lại ở chỗ khác. Có lẽ tương ứng với giai đoạn sơ khai của “nác xít” mà bệnh điên sớm phát quay trở lại trong giai đoạn cuối cùng của nó. Điều đáng chú ý là chúng ta bị bắt buộc phải công nhận trong khát dục của tất cả các bệnh thần kinh “nác xit” những điểm định cư tương ứng với những giai đoạn phát triển sớm hơn trong các bệnh náo loạn thần kinh và ám ảnh nhiều. Nhưng các bạn biết rằng những khái niệm chúng ta thu lượm được trong khi khảo sát bệnh thần kinh chuyển hoán cũng giúp cho chúng ta tìm được đường hướng phải theo trong bệnh thần kinh “nác xít” khó tìm hơn nhiều về phương diện thực tế. Những điểm giống nhau rất nhiều và thực ra chỉ có một hiện tượng thôi. Vì thế cho nên bạn hiểu rõ những sự khó khăn, nếu không nói là không thể được đối với những muốn dựa vào thần kinh học để cắt nghĩa những bệnh này mà không biết gì về bệnh thần kinh hoán chuyển phân tâm học.
Bệnh điên sớm phát không phải chỉ có những triệu chứng thoát ra từ sự tách bạch của khát dục khỏi các đối tượng rồi tích luỹ lại bên trong cái tôi, với tính chất của một khát dục “nác xít”. Người ta phải dành chỗ lớn cho những hiện tượng khác gắn liền vào những cố gắng của khát dục đối với các đối tượng, nghĩa là tương ứng với một mưu toan trả lại hay khởi bệnh. Những triệu chứng sau này còn ầm ĩ đáng chú ý hơn nữa. Chúng có nhiều điểm giống nhau với triệu chứng của bệnh náo loạn thần kinh, ít điểm giống nhau hơn với bệnh ám ảnh, tuy nhiên vẫn khác cả hai bệnh này về những điểm khác. Có vẻ như trong sự cố gắng quay trở lại với đối tượng bệnh trong thần kinh sớm phát, khát dục đã thành công trong việc bám vào các đối tượng đó nhưng thực sự chỉ bám vào được bóng của các đối tượng đó thôi, nghĩa là vào sự phát biểu thành lời nói của các đối tượng đó. Tôi không thể nói nhiều hơn nữa nhưng cho rằng thái độ của khát dục trong khi cố gắng quay về với các đối tượng đã giúp cho ta hiểu rõ được sự khác biệt thực sự giữa một sự khác biệt hữu thức và một sự phát biểu vô thức.
Tôi đã đưa các bạn vào một vùng đất trong đó môn phân tâm học sẽ đạt được nhiều tiến bộ. Kể từ khi chúng ta quen với danh từ “khát dục của cái tôi” chúng ta đã tìm hiểu được bệnh thần kinh nác xít; công việc của chúng ta còn là tìm được cách giải thích sinh động về các bệnh này và luôn thể bổ túc những điều hiểu biết của chúng ta về đời sống tinh thần bằng cách đào sâu những điều đã biết về cái tôi. Tâm lý của cái tôi mà chúng ta định xây dựng, không thể dựa trên căn bản của những dữ kiện của sự quan sát nội tâm, mà phải dựa trên căn bản của sự phân tích những điều rối loạn và phân tán của cái tôi như trong sự khát dục. Có thể sau khi xong công việc đó thì giá trị của những điều hiểu biết về bệnh thần kinh hoán chuyển và liên quan đến khát dục sẽ giảm đi. Nhưng công việc này chưa tiến được bao nhiêu. Chúng ta không thể dùng hết kỹ thuật của chúng ta trong việc tìm hiểu bệnh thần kinh nác xít như trong bệnh thần kinh hoán chuyển. Tôi nói cho các bạn nghe tại sao. Một khi tiến lên một bước trong bệnh thần kinh nác xít, chúng ta như cảm thấy một bức tường bắt chúng ta dừng lại trong một lúc. Trong các bệnh thần kinh hoán chuyển tuy có gặp những điểm chống đối nhưng chúng ta đã phá bỏ được từng chướng ngại vật một. Trong bệnh thần kinh nác xít, sự đề kháng có vẻ như không thể nào vượt qua được. Chúng ta chỉ có thể kiễng chân nhìn qua bức tường để rình xem đằng sau có gì không. Vì vậy chúng ta phải thay thế kỹ thuật hiện thời bằng kỹ thuật khác, chúng ta chưa biết sẽ thay thế như thế nào. Tất nhiên vật liệu về các bệnh này không hề thiếu. Bệnh phát hiện bằng nhiều cách, dù không phải bằng những cách hợp ý chúng ta và trong lúc này chúng ta đành phải giải thích những phát hiện đó thôi bằng cách dùng những điều đã thu nhận được trong khi nghiên cứu bệnh thần kinh hoán chuyển. Hai loại bệnh này khá giống nhau đủ để gặt hái được những kết quả xác thực trong bước đầu, dù rằng chúng ta không thể nói chắc là kỹ thuật đó có thể đưa chúng ta đi xa hơn.
Còn nhiều khó khăn nữa xuất hiện làm ngăn trở bước tiến của chúng ta. Bệnh thần kinh nác xít và tâm lý chỉ hé mở những bí ẩn của chúng cho những người đã học qua trường phân tâm học về bệnh thần kinh hoán chuyển thôi. Vậy mà những nhà thần kinh học không hề biết đến phân tâm học trong khi những nhà phân tâm học lại không thấy có nhiều trường hợp thần kinh học. Chúng ta cần một thế hệ những nhà thần kinh học qua một trường phân tâm học như một khoa học sửa soạn. Hiện nay ở Mỹ đã có hai cố gắng loại này, trong đó những nhà thần kinh học nổi tiếng dạy sinh viên về phân tâm học và các nhà giám đốc nhà thương điên công hay tư cũng dùng phân tâm học để quan sát bệnh nhân của họ. Chúng ta cũng đã nhìn qua tường thấy một vài điều về bệnh thần kinh nác xít dưới đây.
Hình thức bệnh hoạn của bệnh vọng tưởng và bệnh điên kinh niên giữa một địa vị mơ hồ trong việc phân loại của bệnh thần kinh học tối tân. Vậy mà những chứng bệnh này rất gần với chứng bệnh điện sớm phát dưới danh từ “paraphrenie” theo nội dung thì bệnh vọng tưởng có thể được mô tả như thói quen kỳ cục thích danh vọng cao sang, có cảm tưởng như mình bị hành hạ, cuồng dục, ghen tuông… Chúng ta không chờ đợi thần kinh học đưa ra những lời giải thích. Tôi lấy một ví dụ (xảy ra từ lâu lắm rồi và có thể mất đi một phần giá trị) đó là sự cố gắng dựa vào một triệu chứng để tìm ra một triệu chứng khác bằng cách dựa vào lý luận tri thức của người bệnh: người bệnh có cảm tưởng rằng mình bị hành hạ chính là vì mình là người quan trọng, do đó mới phát sinh ra chứng bệnh kỳ cục thích danh vọng cao sang là hậu quả ngay tức khắc của sự tích luỹ sắc dục quá nhiều trong cái tôi làm cho cái tôi trở thành quan trọng; đó là bệnh nác xít phụ thuộc, xuất hiện như hậu quả của bệnh nác xít sơ khai, nghĩa là của những ngày đầu tiên của tuổi thơ ấu. Nhưng một quan sát của tôi trong bệnh bị hành hạ đưa tôi đến một dấu vết khác. Tôi nhận thấy rằng trong phần lớn các trường hợp người ta bị hành hạ cũng như kẻ hành hạ đều cùng thuộc một phái (nam hay nữ). Người ta có thể cắt nghĩa sự kiện này bằng nhiều cách, nhưng trong một vài trường hợp được nghiên cứu kỹ người ta nhận thấy rằng chính người cùng phái mà mình yêu mến nhất trước khi mắc bệnh đã trở thành người hành hạ mình trong khi bị bệnh. Tình trạng có thể phát triển bằng sự thay thế người mình yêu mến bằng một người khác, ví dụ như thay thế người cha bằng người gia sư, hay người cao hơn. Từ những kinh nghiệm đó tôi đưa ra nhận xét rằng bệnh bị hành hạ chỉ là hình thức bệnh hoạn trong đó người bệnh chống lại một khuynh hướng đồng tính luyến ái quá mạnh. Sự biến đổi của lòng yêu thành thù hận, một sự biến đổi có thể trở thành một sự đe doạ cho sự sống của con người vừa được yêu, vừa bị thù ghét, trong những trường hợp này tương ứng với sự biến đổi của những khuynh hướng khát dục thành lo sợ, hậu quả của sự dồn ép. Các bạn hãy nghe điều quan sát mới nhất của tôi về vấn đề đó. Một vị bác sĩ trẻ tuổi bị bắt buộc phải rời bỏ thành phố nơi sinh của mình vì đã đe doạ giết chết con trai một vị giáo sự đại học trong thành phố đó, anh con trai này trước đây là bạn thân của anh ta. Vị bác sĩ này cho rằng người bạn cũ của mình có những ý tưởng thật kinh khủng, một sức mạnh của quỷ sứ, cho rằng chính anh đã gây ra một nỗi khổ sở xảy đến cho gia đình mình trong mấy năm qua, gây ra mọi điều không may về gia đình cũng như xã hội. Nhưng như thế vẫn chưa đủ, anh con trai bạn cũ và cha anh ta, ông giáo sư đại học còn phải chịu trách nhiệm về chiến tranh đã xảy ra vì đã gọi quân Nga đến xâm lăng Tổ quốc của mình. Bệnh nhân của chúng ta cho rằng anh ta đã nhiều lần suýt chết vì ông bạn quý và cho rằng chỉ có cái chết anh này mới làm cho anh ta hết mọi nỗi đau đớn thôi. Vậy mà lòng yêu đối với người bạn cũ còn mạnh đến nỗi một hôm khi có dịp dùng súng lục bắn chết anh này, người bệnh thấy tay mình như tê liệt. Trong cuộc nói chuyện với người bệnh tôi biết là tình bạn giữa hai người khởi đầu từ những năm đầu tiên học trung học. Ít nhất có một lần tình bạn đã vượt quá giới hạn của tình bạn. Một đêm cùng ngủ với nhau một giường họ đã giao cấu với nhau hoàn toàn. Người bệnh không bao giờ cảm thấy một tình cảm đối với đàn bà như những người cùng tuổi và cùng phái. Anh ta đã đính hôn với một cô gái đẹp, nhưng cô này thấy anh chẳng tỏ cảm tình âu yếm gì nên dứt tình luôn. Nhiều năm sau bệnh của anh ta được phát hiện sau khi đã thoả mãn hoàn toàn một người đàn bà. Người này vừa hôn anh xong thì đột nhiên anh thấy đau đớn kỳ lạ, như có người lấy dao bổ óc ra làm đôi. Sau đó anh cho rằng, anh có cảm tưởng như người ta bổ đôi óc anh ta để lòi xương sọ ra như trong phòng giải phẫu hay trong việc mổ sọ; thế rồi vì người bạn thân lại chuyên môn về giải phẫu sọ nên anh cho rằng chính người bạn đã gửi người đàn bà đến cám dỗ anh ta. Đến lúc đó anh mới mở mắt ra và hiểu rằng mọi sự hành hạ khác đều do anh bạn cũ mà ra cả.
Tôi đã có dịp quan sát một trường hợp như thế và khẳng định quan niệm của tôi mặc dù bề ngoài có vẻ mâu thuẫn. Người con gái tưởng tượng rằng mình bị một người đàn ông đã đến chỗ hẹn với nàng hai lần rồi hành hạ, thực ra là nàng đã bắt đầu thù ghét một người đàn bà mà nàng coi là đã thay thế mẹ nàng. Mãi sau khi đến chỗ hẹn lần thứ hai với người đàn ông, nàng mới chuyển sự thù ghét người đàn bà sang người đàn ông. Vậy điều kiện người cùng phái đã được thực hiện trong trường hợp thứ hai này cũng như trong trường hợp thứ nhất. Trong lời phàn nàn của nàng đối với vị luật sự và vị bác sĩ của mình, người bệnh đã không đả động gì đến giai đoạn đầu tiên đó và chính điều này có vẻ như đã cải chính quan niệm của chúng ta về vấn đề người cùng phái.
Trong giai đoạn sơ khai, sự đồng tính luyến ái trong việc chọn lựa đối tượng giống bệnh “nác xít” ở nhiều điểm hơn là giống bệnh luyến ái thường tình. Vì thế cho nên khi muốn tránh một khuynh hướng đồng tính luyến ái quá mạnh, người ta thường quay về bệnh nác xít một cách dễ dàng hơn. Cho tới nay tôi chưa có dịp nói cho các bạn nghe về nền móng của đời sống ái tình nhưng ngay bây giờ tôi cũng chưa thể lấp chỗ trống đó được. Tất cả những điều có thể nói cho các bạn nghe là sự lựa chọn đối tượng, sự tiến bộ trong sự phát triển khát dục sau giai đoạn nác xít có thể tiến hành theo hai giai đoạn khác nhau: hoặc theo loại nác xít, cái tôi của đương sự được thay thế bằng một cái tôi nào đó giống nó nhất; hoặc theo loại mở rộng, những người được chọn làm đối tượng cho khát dục là những người trở nên cần thiết vì giúp vào việc thỏa mãn những nhu cầu khác của đời sống. Khi nào khát dục chọn đối tượng theo loại nác xít, tôi cho rằng khát dục thuộc thành phần những kẻ hướng về đồng tính luyến ái nhiều hơn.
Trong một bài học trước đây tôi có nói chuyện cho các bạn nghe về trường hợp của người đàn bà có thói ghen tuông. Bây giờ sắp đến lúc bài học chấm dứt chắc các bạn tò mò muốn biết tôi giải thích một thói quen như thế nào đứng về phương diện phân tâm học. Tôi tiếc là chỉ có thể nói cho các bạn nghe về điểm này ít hơn những điều bạn chờ đợi ở tôi. Sở dĩ chúng ta không thể dùng lý luận và kinh nghiệm để cắt nghĩa những hình ảnh tương tự trong bệnh ám ảnh là vì có những liên quan của nó với vô thức mà chính ý tưởng ám ảnh và cái thói quen kỳ cục này lại đại diện cho vô thức và chế ngự nó. Hai bệnh này chỉ khác nhau về mặt ngoài và tính cách sống động thôi.
Cũng như trong bệnh vọng tưởng chúng ta cũng tìm thấy trong bệnh buồn rầu u uất một vết rạn giúp cho ta lời trách móc không thương hại mà những kẻ buồn rầu u uất thường đưa ra để tự gán cho mình thực ra áp dụng cho một người khác, đối tượng tình dục mà họ đã mất hay không còn kính phục như trước nữa. Chúng ta đã đi đến kết luận là nếu người buồn rầu u uất đã đánh rơi đối tượng của khát dục thì đối tượng đó sẽ trở vào trong cái tôi sau một diễn biến mà người ta gọi là một sự đồng nhất hóa có tính cách nác xít. Tôi chỉ có thể hiến cho các bạn một hình ảnh của sự đó thôi chứ không thể cho một sự mô tả về bên ngoài cũng như về tính cách sống động. Lúc đó cái tôi được đối xử như một đối tượng bị bỏ rơi, chịu mọi sự tấn công và thù hằn mà nó gán cho đối tượng. Dựa vào quan niệm này chúng ta có thể dễ dàng cắt nghĩa mưu toan tự tử thường thấy ở con người u uất vì người bệnh nhất định huỷ bỏ cùng một lúc chính mình và đối tượng vừa yêu vừa ghét. Trong bệnh u uất cũng như các bệnh nác xít khác, thường phát hiện ra một đặc tính của đời sống tình cảm mà chúng ta gọi là song đường. Đó là sự có mặt của những tình cảm thân thiện và thù nghịch đối với một người khác. Không may là tôi lại không có cơ hội để nói chuyển cho các bạn nghe về sự song đường này.
Cạnh sự đồng nhất nác xít còn có một sự đồng nhất trong náo loạn thần kinh mà chúng ta biết rõ từ lâu. Tôi muốn chỉ rõ cho các bạn xem giữa hai sự đồng nhất này có những khác biệt nhờ vào mấy thí dụ được lựa chọn cẩn thận. Về hình thức định kỳ và chu kì của bệnh u uất, tôi có thể nói cho các bạn nghe một điều mà chắc các bạn rất thích. Nếu có điều kiện thuận lợi chúng ta có thể dùng lối nói chữa chạy theo phân tâm học trong những thời gian giữa khi nổi cơn ngăn cản không cho tình trạng u uất trở lại dù dưới khía cạnh tình cảm nào. Người ta sẽ nhận ra rằng trong bệnh u uất cũng những trong thói quen kỳ cục đều có cách giải quyết một cuộc xung đột có tính cách đặc biệt mà các yếu tố đều giống y như trong các bệnh thần kinh khác. Các bạn thấy ngay là tâm lí học còn có nhiều dữ kiện phải thu lượm được trong phạm vi này.
Tôi cũng đã nói cho các bạn biết rằng, chúng ta có thể nhờ phân tâm học thu lượm được nhiều điều hiểu biết liên quan đến cái tôi, đến những yếu tố cấu thành của nó. Chúng ta cũng đã bắt đầu nhìn thấy sự cấu thành này, những yếu tố này. Khi phân tích thói quen kỳ cục quan sát, chúng ta tưởng đã có thể kết luận được rằng trong cái tôi quả có một cái gì quan sát chỉ trích, so sánh mãi không biết mệt và chống đối lại những phần khác của cái tôi. Vì thế cho nên tôi cho rằng người bệnh đã nói sự thực – một sự thực mà chúng ta không quan tâm đến một cách xứng đáng – khi phàn nàn rằng mỗi bước đi của anh ta đều bị quan sát rình mò, mỗi ý nghĩ đều bị vén màn bí mật và chỉ trích. Điều lầm độc nhất của người bệnh là đặt cái động lực khó chịu đó ở bên ngoài. Người bệnh thấy trong mình có một cái gì đang đo lường cái tôi hiện thời của mình và mỗi sự phát biểu của cái tôi đó theo một cái tôi lý tưởng mà anh ta tự tạo ra trong quá trình phát triển. Tôi nghĩ rằng sự tự tạo đó được thực hiện với ý muốn lập lại sự tự bằng lòng mình, một sự tự bằng lòng mình đi liền với tính cách nác xít lúc sơ khai thời thơ ấu đã bị biết đau biết bao nhiêu rối loạn và đau buồn. Cái gì đang rình mò đó, chúng ta biết rõ: đó chính là con người kiểm duyệt của cái tôi: ý thức con người. Chính ý thức này kiểm duyệt các giấc mơ, đó chính là nơi xuất phát của những sự dồn ép các ham muốn không thể chấp nhận được. Chịu ảnh hưởng của thói quen hay quan sát, ý thức bị tan rã và cho người ta biết rõ nguồn gốc của nó: đó là những ảnh hưởng của cha mẹ, những nhà giáo dục, bầu không khí giáo dục xung quanh; đồng hoá với một vài người mà ta chịu ảnh hưởng.
Đó là một vài kết quả thu lượm được nhờ sự áp dụng phân tâm học cho các bệnh thần kinh nác xít. Tôi công nhận những kết quả này không nhiều lắm, không được rõ ràng lắm tuy sự rõ ràng này chỉ có thể có được khi chúng ta quen dần với phạm vi mới này. Sở dĩ đạt được những kết quả đó là nhờ chúng ta đã dùng đến khái niệm về sự khát dục nác xít và chính khái niệm này đã giúp cho chúng ta mở rộng đến các bệnh nác xít những điều đã khảo sát được trong bệnh thần kinh hoán chuyển. Và bây giờ chắc các bạn tự hỏi không biết chúng ta có thể đạt được một kết quả theo đó thì tất cả mọi sự rối loạn nác xít và các chứng bệnh về tâm lí đều bắt nguồn ở khát dục cả không, và không biết có phải yếu tố khát dục trong đời sống tinh thần chịu trách nhiệm về sự phát triển sinh ra bệnh thần kinh mà không có một sự thay đổi nào trong sự hoạt động của các bản năng tự bảo tồn không? Tôi cho rằng lúc này chưa cần trả lời câu hỏi đó và nó cũng đủ chín để chúng ta đưa ra. Chúng ta hãy chờ đợi cho khoa học tiến triển thêm nữa. Một ngày kia tôi sẽ không ngạc nhiên nếu thấy những khuynh hướng khát dục chiếm độc quyền trong việc phát sinh ra bệnh thần kinh và thấy thuyết về khát dục toàn thắng trong mọi lĩnh vực từ những bệnh thần kinh hiện tại đơn giản nhất cho tới bệnh điên khùng nặng nhất đối với con người. Chúng ta đã chẳng thấy rằng điều biểu thị cho sự khát dục chính là sự từ chối không chịu khuất phục thực tế trong cuộc đời của nó sao? Nhưng tôi có cảm tưởng rằng những khuynh hướng của cái tôi, bị các sự thúc đẩy của khát dục lôi cuốn, cũng cảm thấy những bối rối trong khi hoạt động, Và nếu một ngày kia tôi được tin rằng trong các bệnh tâm lí nặng những khuynh hướng của cái tôi có thể có những công trình khảo cứu của phân tâm học đã đi lạc hướng. Nhưng đó chỉ là vấn đề trong tương lai, ít nhất cũng đối với các bạn. Các bạn hãy cho phép tôi quay trở lại sự lo sợ một chút để rũ bỏ một điểm chưa được rõ ràng. Chúng ta đã nói rằng vì những liên quan rõ ràng giữa sự lo sợ và khát dục, chúng ta không thể chấp nhận được rằng sự lo sợ khi đứng trước một mối nguy hiểm lại là sự phát biểu của những bản năng tự bảo tồn – vậy mà điều đó lại không thể nào chối cãi được. Có thể nào trạng thái tình cảm do sự biểu thị lại không bắt nguồn ở những bản năng ích kỉ của cái tôi mà bắt nguồn ở sự khát dục của cái tôi không? Sự thực là trạng thái lo sợ không hợp lí một chút nào và tính bất hợp lí đó xuất hiện càng rõ hơn khi nó đạt tới mức độ cao hơn. Lo sợ lúc đó làm rối loạn hành vi của con người, hành vi chạy trốn hay hành vi tự bảo vệ, hành vi độc nhất hợp lí để tự bảo tồn. Vì thế cho nên khi chúng ta gán cái phần tình cảm trong sự lo sợ thực sự cho sự khát dục của cái tôi, và gán hành vi phát hiện trong dịp đó cho bản năng tự bao tồn, chúng ta đã gạt bỏ được những khó khăn về lý thuyết. Các bạn không tin một cách đúng đắn rằng – tôi hy vọng như thế – người ta lo sợ và chạy trốn chỉ vì người ta lo sợ chứ? Không, người ta lo sợ và chạy trốn vì một nguyên cớ: đó là vì người ta thấy mối nguy hiểm hiện ra. Những người đã gặp nhiều sự nguy hiểm ghê ghớm kể lại rằng họ không hề lo sợ mà chỉ hành động bằng cách chĩa khí giới về phía con vật. Chẳng hạn, đó quả thực là một phản ứng không gì hợp lí hơn được.