Ly trênKhôn dướiGIẢI NGHĨATruyện của Trình Di. - Quẻ Tấn, Tự quái nói rằng: Các vật không thể mạnh mãi đến chót, cho nên tiếp tục quẻ Tấn. Tấn là tiến lên, các vật không có lẽ nào đương mạnh mà tự ngừng, đã mạnh thịnh thì phải tiến lên, vì vậy quẻ Tấn mới nôl quẻ Đại tráng. Nó là quẻ Ly ở trên Khôn, tức là sự sáng ở trên đất. Mặt trời mọc ở trên đất, càng lên càng sáng, cho nên là Tấn, ấy là cái ý tấn tới mà sáng tỏ thịnh lớn vậy. Các vật, thịnh dần là tiến, cho nên lời Thoán nói rằng: “Tấn là tiến vậy”. Trong quẻ, có khi có đức, có khi không đức, tuỳ theo sự nên phải vậy.LỜI KINH晉, 康侯用錫馬蕃庶, 晝日三接.Dịch âm. - Tấn, khang hầu dụng tích mã phồn thứ, trú nhật tam tiếp.Dịch nghĩa. - Quẻ Tấn, tước hầu yên dùng cho ngựa giậm nhiều, ban ngày ba lần tiếp.GIẢI NGHĨATruyện của Trình Di. - Quẻ Tấn là thì tiến thịnh, sự sáng lớn ở trên, mà thể dưới êm thuận phụ vào, tức là tượng chư hầu vâng theo nhà vua, cho nên là tước hầu yên. Tước hầu yên nghĩa là tước hầu trị an, gặp được bề trên cả sáng, mà biết dốc lòng để thuận theo, đó là tước hầu trị an, vì vậy mới được bề trên yêu đương, cho ngựa rất nhiều. Xe ngựa là của ban thưởng long trọng, “giậm nhiều” nghĩa là đông nhiều, chẳng những nhà vua ban cho hậu hỹ, lại được thân mật kính lễ, trong buổi ban ngày, đến ba lần tiếp, ý nói yêu đương đãi đoạ đến tột bậc vậy. Quẻ Tấn là thì tiến thịnh, trên sáng dưới thuận, vua tôi hợp nhau, nói về người trên, thì là tiến về đường sáng thịnh, nói về bề tôi, thì là tiến lên mà ắt được sự vẻ vang yêu đương vậy.Bản nghĩa của Chu Hy. - Tấn là tiến lên, tước hầu yên là tước hầu làm yên được nước; ngựa cho giậm nhiều, ban ngày ba lần tiếp nghĩa là chịu nhiều ơn to, mà được thân mật kính lễ một cách rõ rệt vậy. Bởi vì quẻ này là quẻ trên Ly dưới Khôn, có tượng mặt trời mọc ở trên đất, bốn hào xuôi thuận mà bám vào chỗ cả sáng, do ở quẻ Quan biến lại, thành hào Sáu Tư, mềm mà tiến lên cho đến hào Năm. Kẻ xem có ba điều ấy, thì cũng có sự yêu ấy.LỜI KINH彖曰: 晉進也, 明出地上, 而麗乎大明, 柔進而上行, 是以康侯用錫馬蕃庶, 晝日三接也Dịch âm. - Tho án viết: Tấn tiến dã, minh xuất địa thượng, nhi lệ hồ đại minh, nhu tiến nhi thượng hành, thị dĩ khang hầu dụng tích mã phồn thứ, trú nhật tam tiếp dã.Dịch nghĩa. - Lời Thoán nói rằng: Tấn là tiến. Sáng ra trên đất, mà bám vào chỗ sáng lớn, mềm tiến mà đi lên, thế cho nên tước hầu yên dùng cho ngựa giậm nhiều, ban ngày ba lần tiếp vậy.GIẢI NGHĨATruyện của Trình Di. - Tấn nghĩa là tiến, tức là sự sáng tiến lên mà thịnh. Sự sáng xuất hiện trên đất, càng tiến càng thịnh, chonên là tấn. Sở dĩ không gọi là tiến, vì tiến chỉ là tiến lên, không bao quát được nghĩa sáng thịnh. Sáng ra trên đất, tức là Ly ở trên Khôn, Khôn bám vào Ly để thuận phụ vào chỗ cả sáng, tức là bề tôi có đức thuận, phụ lên với ông vua cả sáng. “Mềm tiến mà đi lên” là thế nào? Các quẻ, Ly ở trên, hào mềm ở ngôi vua, phần nhiều vẫn nói “mềm tiến mà đi lên”, ví như quẻ Phệ hạp, quẻ Khuê, quẻ Đỉnh. Hào Sáu Năm của quẻ này lấy chất mềm ở ngôi vua, “sáng mà xuôi thuận bám vào”, nghĩa là biết đãi kẻ dưới bằng cách yêu đương thân mật, vì vậy mới là “tước hầu yên dùng cho ngựa giậm nhiều, ban ngày ba lần tiếp”. Ông vua cả sáng, tức là người làm yên thiên hạ. Chư hầu biết thuận phụ với đức sáng của thiên tử, ấy là tước hầu làm được yên dân yên nước, cho nên gọi là tước hầu yên. Vì vậy mới được hưởng sự yêu đương, ban cho, và được thân mật kính lễ, trong buổi ban ngày, ba lần tiếp kiến thiên tử. Không nói công khanh mà nói tước hầu, vì rằng: thiên tử là người trị ở bên trên, chư hầu là người trị ở bên dưới, ở dưới mà thuận phụ với ông vua cả sáng là tượng chư hầu.Bản nghĩa của Chu Hy. - Câu đầu thích nghĩa tên quẻ, các câu sau lấy tượng quẻ, đức quẻ, và sự biến hoá của quẻ mà thích lời quẻ.LỜI KINH象曰: 火在地上, 晉, 君子以自昭明德.Dịch âm. - Tượng viết: Hoả tại địa thượng, Tấn, quân tử dĩ tự chiêu minh đức.Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Lửa ở trên đất, là quẻ Tấn, đấng quân tử coi đó để tự làm cho tỏ đức sáng.GIẢI NGHĨATruyện của Trình Di. - “Chiêu” là làm cho tỏ ra. Đấng quân tử coi tượng sáng ra trên đất mà càng sáng thịnh, để tự làm cho tỏ đức sáng của mình. Bỏ sự che lấp đi, đem sự biết lại, là tỏ đức sáng ở mình, làm rõ đức sáng với thiên hạ là tỏ đức sáng với bên ngoài. Làm rõ đức sáng ở mình, cho nên nói rằng “tự tỏ”.Bản nghĩa của Chu Hy. - “Chiêu” là làm cho rõ ra.LỜI KINH初六: 晉如, 摧如, 貞吉, 罔孚, 裕无咎.Dịch âm. - Sơ Lục: Tấn như, tồi như, trinh cát, võng phu, dụ vô cữu.Dịch nghĩa. - Hào Sáu Đầu: Dường tiến lên vậy, dường đun lại vậy, chính thì tốt, chẳng tin, khoan thai không lỗi.GIẢI NGHĨATruyện của Trình Di. - Hào Đầu ở dưới cuộc, “tấn”, tức là bắt đầu sự tiến lên. Tấn như là lên tới, tồi như là nén lui. Theo lúc mới tiến mà nói, được toại sự tiến, hay không được toại sự tiến, chỉ có được chính thì tốt. “Chẳng tin” là vì ở dưới mà mới tiến lên, đâu đã được ngay người trên cả tin. Nếu mà người trên chửa tin, thì yên phận tự thủ, ung dung rộng rãi, đừng nóng nảy cầu cho người trên tin mình. Ví bằng lòng mình thiết tha muốn được người trên tin dùng, thì chẳng vì săng sắc cầu cạnh, để cho mất sự thao thủ, ắt sẽ vùng vằng giận dỗi, dễ làm hại đến tình nghĩa, đều là có lỗi, cho nên, ung dung rộng rãi thì không có lỗi. Đây nói về cách xử trí trong lúc tiến lui của đấng quân tử.Bản nghĩa của Chu Hy. - Lấy chất Âm ở ngôi dưới, ứng với kẻ không trung chính, có tượng muốn tiến mà bị đẩy lại. Kẻ xem như thế, mà biết giữ đạo chính đính thì tốt; giả sử không được người ta tin mình, cũng nên xử trí bằng cách khoan dụ, thì không có lỗi.LỜI KINH初六: 晉如, 摧如, 貞吉, 罔孚, 裕无咎.Dịch âm. - Tượng viết: Tấn như, tồi như, độc hành chính dã; dụ vô cữu, vị thụ mệnh dã.Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Dường tiến vậy, dường bẻ vậy, là một đi chính vậy; khoan thai không lỗi, vì chưa chịu mệnh vậy.GIẢI NGHĨATruyện của Trình Di. - Không tiến lên, không nén xuống, chỉ một mình đi về đường chính. Rộng rãi thì không lỗi, là vì lúc đầu muốn tiến mà chưa đáng ngôi. Đấng quân tử với sự tiến lui, hoặc chậm, hoặc chóng, nghĩa nên thế nào thì theo thế ấy, không lúc nào mà không khoan thai. Đấng thánh nhân sợ người sau không hiểu nghĩa khoan dụ, kẻ ở ngôi quan, tự bỏ chức vụ của mình cho là khoan thai, cho nên phải nói rõ rằng: Hào Sáu Đầu khoan thai thì không có lỗi là vì lúc mới tiến lên chưa chịu mệnh nhận chức. Nếu có quan thủ, không được người trên tin mình mà mất chức phận, thì một ngày cũng không thể ở.Bản nghĩa của Chu Hy. - Hào Đầu ở ngôi dưới chưa từng có mệnh quan thủ.LỜI KINH六二: 晉如, 愁如, 貞吉, 受兹介福于其王母.Dịch âm. - Lục Nhị: Tấn như, sầu như, trinh cát, thụ tư giới phúc vu kỳ vương mẫu.Dịch nghĩa. - Hào Sáu Hai: Dường tiến vậy, dường sầu vậy, chính thì tốt, nhận phúc lớn ấy chưng thửa bà nội.(1) Vua Thang nhà Thương đánh vua Kiệt nhà Hạ, vua Vũ nhà Chu đánh vua Trụ nhà Ân, đều là bầy tôi đánh vua.(2) Vua Thang bị vua Kiệt giam ô ngục Hạ đài, khi được tha ra liền dựng nên cơ nghiệp nhà Thương, vua Văn bị vua Trụ giam ở ngục Dũ lý, khi được tha ra liền gây nên cơ nghiệp nhà Chu.Truyện của Trình Di. - Hào Sáu Hai ở dưới, trên không ứng viện, là hạng trung chính, mềm thuận, không phải kẻ hăng tiến, cho nên về sự tiến là đáng lo, sầu nghĩa mà tiến lên khó khăn. Nhưng giữ được trinh chính thì tô% cho nên nói rằng: “Dường tiến vậy, dường sầu vậy, chính thì tốt”. Vương mẫu là bà nội, tức là bậc chí tôn trong loài Âm, chỉ về hào Sáu Năm đó. Hào Sáu ấy đạo trung chính tự giữ, tuy ở trên không có ứng viện, không thể tự mình tiến lên, nhưng đức trung chính của nó, lâu rồi ắt rõ, người trên phải tự nhiên tìm nó, bởi vì hào Sáu Năm là ông vua cả sáng, với nó cùng đức, ắt nên tìm nó và ban ơn lộc cho nó. Thế là nhận phúc lớn ở bà nội.Bản nghĩa của Chu Hy. - Hào Sáu Hai trung chính, trên không ứng viện, cho nên muốn tiến mà sầu. Kẻ xem như thế mà giữ được chính đính thì tốt và được nhận phúc ở bà nội. Bà nội chỉ hào Sáu Năm, tức là lời xem tốt lành về việc cúng bà mà hết thảy những kẻ lấy chất Âm mà ở ngôi tôn cũng đều thuộc về loại đó.Lời bàn của tiên nho. - Hồ Song Hồ nói rằng: Dường tiến vậy, dường sầu vậy là hào Hai muốn tiến mà lại lo vì nó không ứng với hào Năm. Hào Năm ở dưới đắp đổi thể Khảm tức là thêm lo; hào Hai muốn tiến lên mà phía trước có chỗ trũng hiểm, lại bị núi Cấn ngăn trở, cho nên có tượng lo sầu. Vì nó biết giữ chính đính nên vẫn được tốt.LỜI KINH象曰: 受兹介福, 以中正也.Dịch âm. - Tượng viết: Thụ tư giới phúc, dĩ trung chính dã.Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Nhận phúc lớn ấy, vì trung chính vậy.Truyện của Trình Di. - Nhận phúc lớn ấy bằng đạo trung chính. Người ta biết giữ đạo trung chính, lâu rồi ắt được hưởng thụ, huông chi có bậc cả sáng ở trên, mà lại cùng đức với mình, thì ắt được nhận phúc lớn.六三: 衆允, 悔亡.Dịch âm. - Lục Tam: Chúng doãn, hối vong.Dịch nghĩa. - Hào Sáu Ba: Mọi người tin, ăn năn mất.GIẢI NGHĨATruyện của Trình Di. - Lấy hào Sáu ở ngôi Ba, không được trung chính đáng có ăn năn, nhưng hào Ba ở trên thế thuận, là kẻ thuận đến cùng tột, ba hào Âm đều thuận lên trên, đó là hào Ba thuận với bề trên, cùng chí với mọi người, mọi người tin theo, vì vậy sự ăn năn của nó phải mất. Có chí thuận với người bề trên, quay về chỗ sáng, mà mọi người theo mình, cái gì không lợi?LỜI KINH象曰: 衆允之志, 上行也.Dịch âm. - Tượng viết: Chúng doãn chi chí, thượng hành dã.Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Cái chí được mọi người tin, vì đi lên vậy.GIẢI NGHĨATruyện của Trình Di. - Đi lên nghĩa là phía trên thuận bám vào chỗ cả sáng. Trên theo ông vua cả sáng tức là chỗ giống nhau của chí mọi người.LỜI KINH九四: 晉如, 鼦鼠貞麗.Dịch âm. - Cửu Tứ: Tấn như, thạch thử trinh lệ.(1) Tức là theo lời văn mà chọn lấy nghĩa ý.Dịch nghĩa. - Hào Chín Tư: Dường tiến vậy, con chuột đồng, chính bền, nguy!GIẢI NGHĨATruyện của Trình Di. - Là hào Chín, ở ngôi Tư, đó là không phải ngôi mình, không phải ngôi mình mà cứ ở, ấy là kẻ tham giữ ngôi. Tham ở ngôi cao đã không phải là chỗ yên ổn của mình, mà lại cùng đức với người trên, thuận bám vào người trên, ba hào Âm đều ở dưới mình, thế ắt tiến lên, cho nên lòng nó sợ ghét chúng nó. Tham mà sợ người là con chuột đồng, cho nên nói rằng tiến như con chuột đồng. Tham chỗ không đáng ở mà lại có lòng sợ ghét, nếu cứ giữ mãi kiểu đó bằng cách chính bền, đủ biết là nguy.Bản nghĩa của Chu Hy. - Dùng cách bất trung bất chính để kiếm ngôi cao, tham mà sợ người, đó là đạo nguy, cho nên là tượng chuột đồng. Kẻ xem như thế, tuy chính đính cũng nguy.LỜI KINH象曰: 鼦鼠貞麗, 位不當也.Dịch âm. - Tượng viết: Thạch thử trinh lệ, vị bất đáng dã.Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Chuột đồng chính nguy, ngôi chẳng đáng vậy.GIẢI NGHĨATruyện của Trình Di. - Người hiền vì chính đức mới nên ở ngôi trên, bất chính mà ở ngôi cao thì là không đáng; tham lam mà chỉ sợ mất thì hay sợ người, ở mãi chỗ đó, đủ biết là nguy.Lời bàn của tiên nho. - Vương Đồng Nghê nói rằng: Trong thì mềm tiến, mà hào Chín Tư một mình tiến bằng cách cứng, cho nên cái nghĩa sự tiến đó, với sự trinh là nguy, với ngôi là không đáng.LỜI KINH(1) Dương Hùng trước làm tôi nhà Hán, sau Vương Mãng cướp ngôi nhà Hán, lại làm tôi Vương Mãng.六五: 悔亡, 失得勿恤, 往吉, 无不利.Dịch âm. - Lục Ngũ: Hối vong, thất đắc vật tuất, vãng cát, vô bất lợi.Dịch nghĩa. - Hào Sáu Năm: Ăn năn mất, mất được chớ lo, đi thì tốt, không gì không lợi.GIẢI NGHĨATruyện của Trình Di. - Hào Sáu lấy chất mềm ở ngôi tôn, đáng lẽ là có sự ăn năn, vì nó cả sáng mà phía dưới đều thuận theo, cho nên sự ăn năn của nó mất đi. Kẻ dưới đã cùng đức thuận theo, nên đem lòng thành thực tin dùng, cho hết tài của mọi người và thông chí của thiên hạ, chớ nên tự dùng sự sáng của mình mà lo được mất. Cứ thế mà đi thì tốt, không gì không lọt.Bản nghĩa của Chu Hy. - Là hào Âm, ở ngôi Dương, nên có sự ăn năn, vì là cả sáng ở trên mà kẻ dưới đều thuận theo, cho nên kẻ xem được hào này thì sự ăn năn mất đi, lại bỏ hết cái lòng tính công mưu lợi, thì đi sẽ tốt mà không gì không lợi. Nhưng cũng ắt phải có đức ấy mới ứng với hào ấy.LỜI KINH象曰: 失得勿恤, 往有慶也。Dịch âm. - Tượng viết: Thất đắc vật tuất, vãng hữu khánh dã.Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Mất được chớ lo, đi có phúc vậy.GIẢI NGHĨATruyện của Trình Di. - Lấy đức cả sáng, được kẻ dưới phụ vào, đem lòng thành thực mà tin dùng họ, thì có thể làm nên công lớn của thiên hạ, thê là đi mà có phúc khánh.LỜI KINH上九: 晉其角, 睢用伐邑, 麗!吉无咎, 貞吝.Dịch âm. - Thượng Cửu: Tấn kỳ dốc, duy dụng phạt ấp, lệ! Cát vô cữu, trinh lận.Dịch nghĩa. - Hào Chín Trên: Tiến thửa sừng, bui dùng đánh làng, lo thì tốt, không lỗi, trinh thì đáng tiếc.GIẢI NGHĨATruyện của Trình Di. - Sừng là vật cứng mà ở trên, hào Chín Trên lấy chất cứng ở chỗ cùng tột của quẻ, cho nên dùng sừng làm tượng. Lấy chất Dương ở ngôi trên, ấy là cứng đến cùng tột; ở trên cuộc tiến, ấy là tiến đến cùng tột; cứng đến cùng tột thì sẽ hỏng về mạnh tợn; tiến đến cùng tột thì sẽ hỏng vì nóng kíp; là chất cứng mà cùng cực về sự tiến, đó là sai mực vừa phải nhiều lắm, không dùng gì được, chỉ dùng về sự đánh làng thì tuy dữ mà tốt và không lỗi nữa. Đánh bốn phương là trị bên ngoài, đánh làng ở của mình là trị bên trong, nói đánh làng, nghĩa là tự trị bên trong vậy. Người ta trị mình cực cứng thì giữ đạo càng bền, cực tiến thì dời điều thiện càng chóng; như hào Chín Trên này dùng để trị mình thì tuy hại về sự nghiêm dữ, nhưng tốt và không có lỗi. Nghiêm dữ không phải là đạo yên vui, nhưng về sự trị mình thì có công. Lại nói “trinh lận” cho hết nghĩa cùng cực về sự cương tiến thì tuy trị mình có công nhưng không phải là đức trung hoà cho nên, với đạo trinh chính thì là đáng tiếc.Bản nghĩa của Chu Hy. - Sừng là vật cứng mà ở trên, hào Chín Trên cứng tiến, cùng tột có cái tượng đó. Kẻ xem được hào này dùng để đánh làng riêng của mình, thì tuy nguy mà tốt và không lỗi. Nhưng dùng sự cực cứng trị làng nhỏ dù được chính đạo cũng là đáng tiếc.LỜI KINH(1) Gia nhân nghĩa là người nhà.象曰: 維用伐邑, 道未光也.Dịch âm. - Tượng viết: Duy dụng phạt ấp, đạo vị quang dã.Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Bui dùng đánh làng, đạo chưa sáng vậy.GIẢI NGHĨATruyện của Trình Di. - “Bui dùng đánh làng” đã được tốt mà không lỗi, lại nói “trinh tiếc” nghĩa là đạo trinh chưa sáng lớn vậy. Lấy chính lý mà nói tức là sự sáng đáng tiếc vậy. Ôi đạo đã sáng lớn thì không cái gì không trung chính, đâu còn có lỗi? Nay tự trị bằng cách quá cứng, tuy có công rồi, nhưng Đạo của mình chưa sáng lớn, cũng là đáng tiếc. Đó là thánh nhân nói cách, làm hết lẽ phải.(1) “Trị” này nghĩa là có kỷ cương, có trật tự, trái lại với chữ “loạn”QUẺ MINH DI==Khôn trên EE Ly dướiGIẢI NGHĨATruyện của Trình Di. - Quẻ Minh di, Tự quái nói rằng: Tấn nghĩa là tiến, tiến ắt bị đau, cho nên tiếp đến quẻ Minh di. Di nghĩa là đau, cả tiến không thôi, ắt có bị đau là lẽ tự nhiên, vì vậy quẻ Minh di mới nôi quẻ Tấn. Nó là quẻ Khôn trên Ly dưới tức là sự sáng vào trong đất. Phản lại quẻ Tấn thành quẻ Minh di, cho nên nghĩa nó với quẻ Tấn đều trái lại nhau. Tấn là quẻ sáng thịnh, ông vua sáng sủa ở trên là lúc mọi người hiền cùng tiến; Minh di là quẻ tối tăm, ông vua tối tăm ở trên là lúc kẻ sáng bị đau. Mặt trời vào trong đất, tức là sự sáng bị thương mà tối tăm, cho nên gọi là Minh di.LỜI KINH明夷利艱貞.Dịch âm. - Minh di lợi gian trinh.Dịch nghĩa. - Quẻ Minh di lợi về khó nhọc trinh chính.GIẢI NGHĨATruyện của Trình Di. - Đấng quân tử gặp thì Minh di, lợi ở biết khó nhọc mà không lỗi đạo trinh chính, ở thì tôl tăm khó khăn mà có thể không mất sự trinh chính của mình, vì vậy mới là quân tử sáng láng.Bản nghĩa của Chu Hy. - Di nghĩa là đau. Là quẻ dưới Ly trên Khôn, mặt trời vào trong đất, tức là cái tượng sáng mà bị đau, cho nên gọi là Minh di. Lại, hào Sáu Trên quẻ này là chủ sự tối mà hào Sáu Năm gần nó, cho nên kẻ xem lợi về khó nhọc để giữ sự chính mà tự che sự sáng của mình.LỜI KINH彖曰: 明入地中, 明夷.Dịch âm. - Thoán viết: Minh nhập địa trung, Minh di.Dịch nghĩa. - Lời Thoán nói rằng: Sáng vào trong đất, là quẻ Minh di.GIẢI NGHĨATruyện của Trình Di. - Đây dùng tượng quẻ để thích tên quẻ.LỜI KINH内文明而外柔順, 以蒙大難, 文王以之.Dịch âm. - Nội văn minh nhi ngoại nhu thuận, dĩ mông đại nạn, Văn vương dĩ chi.Dịch nghĩa. - Trong văn vẻ sáng láng mà ngoài mềm thuận để đội nạn lớn, vua Văn dùng cách đó.GIẢI NGHĨATruyện của Trình Di. - Sáng vào trong đất tức là sự sáng bị diệt, cho nên là sáng đau. Quẻ trong là Ly, Ly là tượng văn vẻ sáng láng; quẻ ngoài là Khôn, Khôn là tượng mềm thuận; đó là bên trong có đức văn vẻ sáng láng, bên ngoài lại biết mềm thuận, xưa kia vua Văn như thế, cho nên nói rằng vua Văn dùng cách đó. Đương lúc vua Trụ tối tăm, tức là thì sáng đau, mà vua Văn trong có đức văn vẻ sáng láng, ngoài mềm thuận để thờ vua Trụ, đội phạm nạn lớn(1) mà bên trong không mất cái đức thành sáng của mình, bên ngoài đủ để tránh xa tai vạ, đó là đạo Văn vương đã dùng, cho nên nói rằng vua Văn dùng cách đó.Bản nghĩa của Chu Hy. - Đây dùng đức quẻ để thích nghĩa quẻ. “Đội nạn lớn” chỉ về gặp loạn vua Trụ mà bị giam.LỜI KINH利艱貞, 晦其明也, 内難而能正其志, 箕子以之.Dịch âm. - Lợi gian trinh, hối kỳ minh dã; nội nạn nhi năng chính kỳ chí. Cơ tử dĩ chi.Dịch nghĩa. - Lợi về khó nhọc trinh chính, là làm cho tôl thửa sự sáng vậy; trong nạn mà hay chính thửa chí, ông Cơ tử dùng cách đóGIẢI NGHĨATruyện của Trình Di. - Trong thì sáng đau, lợi về xử cảnh khó khăn mà không mất sự trinh chính của mình, nghĩa là biết che giấu sự sáng của mình. Không làm cho tôi sự sáng của mình, thì bị vạ lo, không giữ được sự chính đính của mình thì không phải là người hiền minh, ông Cơ tử(2) đương thì vua Trụ, thân ở nước ấy, bên trong sát gần nạn của vua ấy, cho nên nói rằng “trong nạn”. Nhưng ông Cơ tử biết giấu kín sự sáng của mình mà tự giữ lấy chí chính đáng, đó là cái đạo ông Cơ tử vẫn dùng, cho nên nói rằng “Ông Cơ tử dùng cách đó”.Bản nghĩa của Chu Hy. - Đây lấy nghĩa một hào Sáu Năm để thích lời quẻ. “Trong nạn” nghĩa là họ gần vua Trụ về ở trong nước vua ấy, như hào Sáu Năm gần hào Sáu Trên.LỜI KINH 象曰: 明入地中, 明夷, 君子以蔽衆, 用晦而明.Dịch âm. - Tượng viết: Minh nhập địa trung, Minh di, quân tử dĩ lỵ chúng, dụng hối nhi minh.Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Sáng vào trong đất là quẻ Minh di. Đấng quân tử coi đó để trị dân chúng, dùng tôi mà sáng.GIẢI NGHĨATruyện của Trình Di. - Sự sáng là để mà soi, đấng quân tử không đâu không soi, nhưng quá dùng sự sáng, thì hại về đường xét nét, xét nét quá thì hết việc mà không có độ lượng bao dong cho nên đấng quân tử coi tượng “Sáng vào trong đất”, mà về cách trị người không soi, xét cùng cực mà dùng sự tối, rồi mới có thể dong người hào chúng. Người ta thân với mình mà đâu yên đó, thế là dùng sự tôl cốt để cho sáng. Nếu tự dùng sự sáng của mình, không gì không xét, thì tự mình không thắng được sự giận ghét mà không có đức khoan hậu bao dong, lòng người xa lìa ngờ vực không yên, thế là lỗi đạo trị người, chỉ để thành ra không sáng mà thôiLỜI KINH初九:明夷于飛, 垂其翼, 君子于行, 三日不食, 有攸往,主人有言.Dịch âm. - Sơ Cửu: Minh di vu phi, thuỳ kỳ dực: quân tử vu hành, tam nhật bất thực; hữu du vãng; chủ nhân hữu ngôn.Dịch nghĩa. - Hào Chín Đầu: Sáng đau chưng bay; đủ thửa cánh; đấng quân tử chưng đi, ba ngày chẳng ăn; có thửa đi, người chủ có nói.GIẢI NGHĨATruyện của Trình Di. - Hào Chín Đầu ở thể sáng mà ở đầu cuộc sáng đau, đó là lúc mới bị hại. Chín là hào Dương sáng đi lên, cho nên mới dùng tượng “bay”, sự tối ở trên, làm hại sự sáng của khí Dương, khiến nó không tiến lên được, thế là bay mà bị đau cái cánh. Cánh bị đau nên phải rủ xuống. Phàm kẻ tiểu nhân hại người quân tử, chỉ hại cái để mà đi, đấng quân tử chưng đi, ba ngày không ăn, nghĩa là đấng quân tử sáng soi, thấy việc từ khi nhỏ nhặt, dù mới có mối bị hại mà chưa rõ rệt, đấng quân tử có thể thấy được, cho nên mới đi để tránh. “Đấng quân tử chưng đi” nghĩa là bỏ lộc vị của mình mà lui về ẩn nấp vậy. “Ba ngày chẳng ăn” ý nói khốn cùng đến tột bậc. Việc chưa rõ rệt mà xử rất khó, không phải là người thấy cơ sáng suốt thì không thể xử. Ôi biết cơ là sự thật riêng của đấng quân tử, người thường không thể biết, cho nên lúc mới sáng đau, sự bị đau chưa rõ mà đi thì thế tục ai không ngờ vực mà lấy làm lạ? Cho nên có thửa đi thì người chủ có nói. Nhưng đấng quân tử không vì thế tục lấy làm lạ mà chậm chạp nghi ngờ sự đi của mình. Nếu đợi mọi người cùng biết thì sự đau đã tới mà không thể đi được.Bản nghĩa của Chu Hy. - Bay là rủ cánh là tượng bị đau. Kẻ xem đi mà chẳng ăn, chỗ đi không hợp, thì nghĩa nên thế, không thể tránh được.Lời bàn của tiên nho. - Khâu Kiến An nói rằng: “Quẻ Minh di, chứa tối ở trên: hào Đầu là thể Ly sáng, cách hào Trên rất xa, thấy hại liền tránh, có tượng “Bay mà rủ cánh”. Rủ cánh nghĩa là không dám tiến lên, thu mình để tránh vạ vậy. Đấng quân tử biết cơ, nghĩa nên đi cho mau, có thể không ăn, mà không thể không đi, bởi vì đi trọng hơn ăn. Người chủ tức là người làm chủ mình, chỉ về hào Đầu ứng với hào Tư; có nói nghĩa là lấy lạ về sự đi sớm.LỜI KINH象曰: 君子于行, 義不食也.Dịch âm. - Tượng viết: Quân tử vu hành, nghĩa bất thực dã.Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Đấng quân tử chưng đi nghĩa chẳng ăn vậy.Truyện của Trình Di. - Đấng quân tử lành nấp mà khôn cùng, nghĩa nên thế vậy. Chỉ theo nghĩa nên thế nào thì làm thế ấy, cho nên ở yên mà không buồn, dẫu rằng chẳng ăn cũng được.Bản nghĩa của Chu Hy. - Nghĩa ở đâu thì theo ở đấy chẳng ăn cũng được.Lời bàn của tiên nho. - Vương Đồng Khê nói rằng: “Đấng quân tử chưng đi” nghĩa là bỏ lộc và ngồi vậy. “Ba ngày không ăn” nghĩa là không đáng ăn lộc vậy.LỜI KINH六二: 明夷, 夷于左股, 用拯, 馬壯吉.Dịch âm. - Lục Nhị: Minh di, di vu tả cổ, dụng chửng, mã tráng cát.Dịch nghĩa. - Hào Sáu Hai: Sáng đau, đau ở đùi bên tả, dùng cứu, ngựa mạnh tốt.GIẢI NGHĨATruyện của Trình Di. - Hào Sáu Hai lấy tài rất sáng được chỗ trung chính mà thể thuận, thuận thì tự xử, đó là cách cư xử rất khéo. Dẫu đấng quân tử tự xử vẫn khéo, nhưng gặp lúc những kẻ tiểu nhân âm tối làm hại sự sáng, cũng không khỏi bị nó hại mình. Có điều đấng quân tử tự xử có cách, cho nên không thể làm hại nhau cho lắm, và rút lại vẫn có thể tránh được. Chân là cái để đi, đùi ở trên ông chân, với việc đi cũng không thiết lắm; bên tả lại không phải chỗ tiện dùng, với sự dùng của cái chân, phải cho bên hữu là tiện, chỉ có người què mới dùng bên tả, bởi vì đứng về bên hữu là gốc. “Đau ở đùi bên tả” nghĩa là đau hại sự đi mà không thiết lắm; tuy vậy cũng ắt có cách tự khỏi, cứu dùng con ngựa khỏe mạnh thì mau được khỏi mà tốt. Đấng quân tử bị kẻ âm tối làm hại nhưng mà có cách tự xử, cho nên sự đau không tệ; có cách tự cứu, cho nên được khỏi mau chóng. Nếu cách dùng cứu không mạnh thì đau lâu, cho nên nói rằng “Ngựa mạnh thì tốt”. Hào Hai lấy chất sáng ở vào dưới chỗ âm tôi, gọi là tốt nghĩa là chỉ khỏi đau hại mà thôi, không phải bảo rằng có thể làm việc trong thì đó.Bản nghĩa của Chu Hy. - Đau mà chưa thiết, cứu được mau chóng thì khỏi, cho nên tượng, chiêm của nó như thế.LỜI KINH象曰: 六二之吉, 順以則也.Dịch âm. - Lời Tượng: Lục Nhị chi cát, thuận dĩ tắc dã.Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Cái tốt của hào Sáu Hai, vì thuận bằng phép vậy.GIẢI NGHĨATruyện của Trình Di. - Hào Sáu Hai mà được tốt, vì nó xử thuận mà có phép tắc. Phép là đạo trung chính; biết thuận mà được trung chính, cho nên ở thì sáng đau mà có thể giữ được sự tốt.LỜI KINH九三: 明夷于南狩, 得其大首, 不可疾貞.Dịch âm. - Cửu Tam: Minh di vu nam thú, đắc kỳ đại thủ, bất khá tật trinh.Dịch nghĩa. - Hào Chín Ba: Sáng đau chưng cuộc săn bên nam được thửa đầu lớn, chẳng khá kíp chính.Truyện của Trình Di. - Hào Chín Ba ở trên quẻ Ly là sáng đến tột bậc, ở lại chỗ cứng mà tiến lên; hào Sáu Trên ở trên quẻ Khôn, là tối đến tột bậc; rất sáng ở dưới mà làm bậc trên thể dưới, rất tôi ở trên, mà ỗ chỗ cùng cực, hai đẳng ứng địch với nhau, là kẻ sẽ dùng sự sáng để trừ sự tôi, ấy là việc của vua Thang vua Vũ(68) đó chăng? Bên Nam ở về phía trước mà là phương sáng, săn bắn là việc trừ hại, săn bên Nam nghĩa là tiến lên mà trừ hại, nên bắt được đầu lớn của nó; đầu lớn chỉ về chùm đầu của đám tối, tức là hào Sáu Trên. Hào Ba với hào Trên cùng ứng với nhau, là tượng kẻ rất sáng được kẻ rất tối. Không thể kíp chính, nghĩa là giết kẻ đầu ác, và trừ tục cũ thói dơ chưa thể thay đổi ngay được, ắt phải thay đổi dần dần, vội quá thì nó sợ hãi mà không yên… Cho nên nói rằng không thể kíp chính, nghĩa là không thể kíp làm cho nó ngay thẳng. Hào Sáu Trên tuy không phải ngôi vua, ví nó ở trên mà là tôi đến cùng cực, cho nên là chủ sự tôi, vì vậy, mới gọi là đầu lớn.Bản nghĩa của Chu Hy. - Lấy chất cứng ở chỗ cứng, lại ở trên thể sáng, mà bị khuất dưới cho rất tôi, chính là ứng nhau với hào Sáu Trên, chủ của sự tối, cho nên có tượng ngảnh sáng, trừ hại, bắt được kẻ đầu ác; nhưng mà không thể kíp ngặt, cho nên mới có lời răn không thể kíp chính. Vua Thành Thang nổi lên ở ngực Hạ đài(2), vua Văn vương dấy lên ở ngục Dũ lý, chính hợp giữa của hào này, mà việc nhỏ cũng có như thế.LỜI KINH象曰: 南狩之志, 乃大得也.Dịch âm. - Tượng viết: Nam thú chi chí, nãi đại đắc dã.Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Chí săn bên Nam, bền cả được vậy.Truyện của Trình Di. - Ôi lấy sự sáng của kẻ dưới trừ sự tối của kẻ trên, chí nó cốt ở trừ hại mà thôi, như vua Thang, vua Vũ của nhà Thương, nhà Chu, há có ý muốn lấy thiên hạ làm lợi? Bắt được đầu lớn của nó ấy là bỏ được sự hại mà cả được chí minh. Chí nếu không thế, thì tức là việc trái loạn.LỜI KINH六四: 入于左腹, 獲明夷之心, 于出門庭.Dịch âm. - Lục Tứ: Nhập vu tả phúc, hoạch minh di chi tâm, vu xuất môn đình.Dịch nghĩa. - Hào Sáu Tư: Vào chưng bụng bên tả, được cái lòng sáng đau: chưng ra cửa sân.GIẢI NGHĨATruyện của Trình Di. - Hào Sáu Tư lấy chất Âm đóng ngôi Âm mà ở vào thể Âm mềm, nhằm chỗ gần vua, đó là kẻ Âm tà tiểu nhân ở ngôi cao dùng sự mềm nhũn cong queo để thuận với vua; hào Sáu Năm là ngôi vua. Sáng đau tức là ông vua bị đau sự sáng, hào Tư lấy sự mềm nhũn cong queo, thuận theo với nó, để cho giao kết được bền. Ôi kẻ tiểu nhân thờ vua chưa có khi nào theo sự rõ rệt lấy đạo hợp nhau, họ ắt lấy cách ẩn lệch tự mình kết với người trên. Bên hữu nhằm vào sự dùng, cho nên là nơi sáng rõ; bên tả không nhằm sự dùng, cho nên là nơi ẩn lệch; tay chân người ta hay dùng bên hữu; người đời thường bảo bên tả là trái, đó là bên tả là chỗ ẩn lệch. Hào Tư dùng cách ẩn lệch kết sâu với vua, cho nên nói rằng “vào chưng bụng bên tả”. “Vào bụng” nghĩa là giao kết sâu lắm; bởi giao kết sâu cho nên mới được lòng nó. Nhưng kẻ gian tà được tin với vua đều do cướp được lòng họ. Nếu không cướp đượclòng họ, hồ dễ họ không tỉnh ngộ? “Chưng ra cửa sân” nghĩa là đã tin ở lòng, rồi sau mới làm ra ngoài; tôi gian thờ vua tôi, ắt phải trước làm mê hoặc lòng họ, rồi mới có thể thi hành ra ngoài.Bản nghĩa của Chu Hy. - Nghĩa của hào này chưa rõ ra sao, trộm ngờ như vầy: Bụng bên tả là chỗ tôi ẩn, được lòng sáng đau chưng ra cửa sân, tức là đắc ý về sự đi xa; ý nói kẻ bói mà được hào này thì cách tự xử phải nên như thế. Bởi vì thể Ly là đức rất sáng, mà ở dưới ba hào thể Khôn, là chỗ rất tối, sáng ở ngoài tối, nên phải theo sự xa gần cao thấp mà xử khác nhau. Hào Sáu Tư là bậc mềm chính, ở chỗ tôi mà còn nông, nên còn có thể đắc ý về sự đi xa; hào Năm là hạng mềm giữa, ở chỗ tối mà đã ngặt, cho nên mới là cái tượng bên trong có nạn, phải chính chí mình, để che bớt sự sáng đi; hào Trên thì là tôi đã cùng tột, cho nên là kẻ tự hại sự sáng của mình, đến nỗi phải tôi, mà lại có thể hại người ta; nghĩa là năm hào dưới đều là đấng quân tử, một hào trên là hạng hôn quân.Lời bàn của tiên nho. - Khâu Kiến An nói rằng: Khôn là bụng, bên tả là chôn ẩn lệch; hào Sáu Tư tiến lên ở dưới thể Khôn, cho nên nói rằng “Vào chưng bụng bên tả”. Làm hại sự sáng của người ta ấy là người trên, hào Sáu Tư sâu vào bụng nó mà hiểu được cái lòng “làm đau sự sáng” của nó, cho nên nói rằng “được lòng sáng đau”. May mà hào Tư với hào Trên, lúc đó hiểu được ý kín của nó, biết rằng ám chứa ở trên, không thể giúp dập; bỏ nó mà đi, để tới với hào Chín Ba là kẻ sáng, cho nên có tượng “ra cửa sân”.LỜI KINH象曰: 入于左腹, 獲心意也.Dịch âm. - Tượng viết: Nhập vu tả phúc, hoạch tâm ý dã.Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Vào chưng bụng bên tả, được lòng ý vậy.Truyện của Trình Di. - Vào chưng bụng bên tả, nghĩa là lấy đạo cong lệch, vào với vua, mà được lòng ý của hắn. Được lòng hắn, cho nên cùng chót vẫn không tỉnh ngộ.LỜI KINH六五: 箕子之明夷, 利貞Dịch âm. - Lục Ngũ: Cơ tử chi minh di, lợi trinh.Dịch nghĩa. - Hào Sáu Năm, ông Cơ tử chưng sáng đau, lợi về chính bền.GIẢI NGHĨATruyện của Trình Di. - Hào Năm là ngôi vua, ấy là sự thường. Nhưng sự lấy nghĩa(1) của kinh Dịch, biến động theo thì, hào Sáu Trên ở trên thể Khôn, mà là sáng đau đến tột bậc, tức là kẻ âm tôi làm hại sự sáng đến tột bậc, hào Năm gần sát với nó, đấng thánh nhân, nhân hào Năm gần sát người rất tôi để tỏ cái nghĩa khu xử chỗ đó, cho nên không chuyên nói về ngôi vua. Hào Sáu Trên âm tôi làm hại sự sáng đến tột bậc, cho nên mới dùng làm chủ quẻ Minh di. Hào Năm gần sát ông vua làm hại sự sáng, nếu để sự sáng của mình tỏ rõ, thì ắt bị đau hại, cho nên, nên như ông Cơ tử tự mình nấp náu, thì có thể khỏi nạn. Ông Cơ tử là bầy tôi cũ nhà Thương và là người họ đồng tông, có thể bảo là gần sát với vua Trụ, nếu không tự che sự sáng của mình, thì chắc bị vạ, cho nên ông ấy giả cách rồ đi làm đứa ở, để khỏi bị hại. Tuy là che lấp sự sáng, nhưng bên trong vẫn giữ chính đạo, đó là “trong có nạn mà chính được chí mình”, vì vậy mới gọi là nhân và sáng. Như ông Cơ tử có thể bảo là trinh vậy. Bởi hào Năm là hạng Âm mềm, cho nên răn rằng “lợi về chính bền”, nghĩa là nên chính bền như ông Cơ tử vậy. Nếu lấy đạo vua mà nói, nghĩa cũng như thế. Kẻ làm vua có khi nên tự ngậm tôi, thì cũng bên ngoài che tôi sự sáng bên trong giữ cho chí ý chính đính.Bản nghĩa của Chu Hy. - Ở chỗ rất tôl, gần vua rất tôl, mà giữ được tâm chí chính đính, đó là tượng ông Cơ tử, chính bền đến tột bậc vậy. “Lợi về chính bền” là câu để răn kẻ xem.LỜI KINH象曰: 箕子之貞, 明不可息也.Dịch âm. - Tượng viết: Cơ tử chi trinh, minh bất khả tức dã.Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Ông Cơ tử chưng chính, sự sáng không thể tắt vậy.GIẢI NGHĨATruyện của Trình Di. - Ông Cơ tử ẩn náu, không mất sự chính bền, tuy gặp hoạn nạn, sự sáng vẫn còn, không thể dứt tắt vậy.Nếu gặp vạ lo mà để cho mất cái điều mình vẫn cầm giữ, thì là mất sự sáng, ấy là dứt tắt. Người xưa, như Dương Hùng(1) là hạng đó.LỜI KINH上六: 不明, 晦, 初登于天, 後入于地.Dịch âm. - Thượng Lục: Bất minh, hối; sơ đăng vu thiên, hậu nhập vu địa.Dịch nghĩa. - Hào Sáu Trên: Chẳng sáng, tôi, đầu lên chưng trời, sau vào chưng đất.GIẢI NGHĨATruyện của Trình Di. - Hào Trên ở về chót quẻ, là chủ sự “sáng đau”, lại là trên đất cuộc “sáng đau”, một chỗ rất cao. Ở chỗ rất cao, vốn nên soi xa, sự sáng đã bị đau hại, cho nên không sáng mà lại tối tăm. vốn ở chỗ cao, sự sáng nên tới nơi xa, ấy là “đầu lên chưng trời”. Bị đau hại sự sáng mà tôi tăm, ấy là “sau vào chưng đất”. Hào Trên ở chót quẻ Minh di, lại ở chót thể Khôn Âm, ấy là sáng đau đến tột bậc.Bản nghĩa của Chu Hy. - Lấy chất Âm ở chỗ cùng cực thể không chẳng làm cho đức mình sáng ra, để đến phải tôi, lúc đầu thì ở ngôi cao, để làm hại sự sáng của người, lúc chót ắt đến tự mình hại mình, mà hỏng tính mệnh, cho nên tượng nó như thế, mà chiêm cũng ỗ trong đó.LỜI KINH象曰: 初登于天, 照四國也, 後入于地, 失則也.Dịch âm. - Tượng viết: Sơ đăng vu thiên, chiếu tứ quốc dã; hậu nhập vu địa, thất tắc dã.Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Đầu lên chưng trời, soi bốn nước vậy; sau vào chưng đất, mất phép vậy.GIẢI NGHĨATruyện của Trình Di. - Đầu lên chưng trời, là ở chỗ cao mà sáng, thì nên soi tới bốn phương; thế mà bị hại mà tối tăm, thì là “sau vào chưng đất” mất cách sáng vậy. “Mất phép” nghĩa là mất phương pháp vậy.Bản nghĩa của Chu Hy. - “Soi bốn nước” là theo về ngôi mà nói.