PHƯƠNG VỊ SÁU MƯƠI TƯ QUẺ CỦA PHỤC HY

     ác thuyết về bốn hình vẽ trên đây, đều do họ Thiệu(29) vẽ ra. Đó là họ Thiệu học được của Lý (chi tai) Đĩnh Chi, Đĩnh Chi học được của Mục (Tu) Bá Trưởng, Bá Trưởng học được của ông Hy Di Trần (Đoàn) Đồ Nam ở Hoạ Sơn, vẫn gọi môn học Tiên thiên.
Trong hình vẽ này, chỗ xếp vuông là: Kiền hết giữa ngọ, Khôn hết giữa tý, Ly hết giữa mão, Khảm hết giữa dậu, Dương sinh trong tý, chót ở trong ngọ, Âm sinh trong ngọ, chót ở trong tý, Dương ở về Nam, Âm ở về Bắc; chỗ xếp vuông là: Kiền bắt đầu ở Tây Bắc, Khôn cùng tận ở Đông Nam, Dương ở về Bắc, Âm ở về Nam. Hai cách xếp đặt đó, tức là độ số Âm Dương đối nhau, tròn mà ở ngoài là Dương, vuông mà ở trong là Âm; tròn thì động mà là trời, vuông thì tĩnh mà là đất.
LỜI BÀN CỦA TIÊN NHO
Thiệu tử nói rằng: Thái cực đã chia, hai Nghi dựng rồi(1) dương giao lên với Âm, Âm giao xuống với Dương, mà bốn Tượng sinh ra(30); Dương giao với Âm, Âm giao với Dương sinh ra bốn Tượng của trời; cứng giao với mềm, mềm giao với cứng, sinh ra bốn Tượng của đất(1).
Tám quẻ cọ nhau mà sau muốn vật mới sinh ra.
Cho nên một chia làm hai, hai chia làm bốn, bốn chia làm tám, tám chia làm mười sáu, mười sáu chia làm ba hai, ba hai chia làm sáu tư, như rễ có gốc, gốc có cành, càng lớn càng ít, càng nhỏ càng nhiều. Cho nên Kiền dùng để chia, Khôn dùng để hợp, Chấn dùng để làm cho lớn lên, Tốn dùng để làm cho tiêu đi. Lớn thì phải chia, chia thì phải tiêu, tiêu thì phải hợp. Kiền, Khôn là ngôi nhất định, Chấn, Tôn là cuộc giao hợp thứ nhất; Đoái, Ly, Khảm, Cấn là cuộc giao hợp thứ hai. Cho nên Chấn Dương ít mà Âm còn nhiều; Tốn Âm ít mà Dương còn nhiều; Đoái, Ly, Dương nhiều hơn Khảm, Cấn Âm nhiều hơn.
Lại nói: Trước khi Vô cực, Âm ở trong Dương: sau khi có Tượng, Dương tách với Âm, Âm là mẹ của Dương, Dương là cha của Âm, cho nên mẹ chửa con trai cả thành ra quẻ Phục, cha sinh con gái cả thành ra quẻ Cấn; vì vậy Dương khởi ở quẻ Phục, Âm khởi ở quẻ Cấn.
Lại nói: Dương ở trong Âm, đi ngược, Âm ở trong Dương, đi ngược, Dương ở trong Dương, Âm ở trong Âm, thì đều đi xuôi(2).Đó là cái lẽ chân thật cùng tột, theo hình vẽ trên mà xét, có thể thấy được(31).
… Lại nói: “từ quẻ Phục đến quẻ Kiền, tất cả một trăm mười hai hào Dương; từ quẻ Cấn đến quẻ Khôn tất cả tám mươi hào Dương: từ quẻ Cấn đến quẻ Khôn tất cả một trăm mười hai hào Âm; từ quẻ Phục đến quẻ Kiền, tất cả tám mươi hào Âm(32).
Lại nói: Khảm Ly là giới hạn của Âm Dương, cho nên Ly ngang vào Dần. Khảm ngang vào Thân, mà số của nó vẫn thường vượt qua. Đó là Âm Dương thừa ra, nhưng cái dụng số thì chẳng hề quá mực giữa(2).
Chu tử nói rằng: Hình vẽ tròn, Kiền ở phương Nam, Khôn ở phương Bắc; hình vẽ vuông, Khôn ở phương Nam, Kiền ở phương Bắc. Ngôi Kiền hợp nhiều vạch Dương, ngôi Khôn hợp nhiều vạch Âm. Đó là Âm Dương theo loại mà tụ, đều có pháp tượng tự nhiên.
Lại nói: Hình vẽ tròn giống trời, một đường xuôi và một đường ngược, trong cuộc lưu hành vẫn có đăng đôi. Như tám quẻ cung Chấn đôl với tám quẻ cung Tốn v.v… Hình vẽ vuông giống đất, có đường ngược không có đường xuôi. Trong ngôi nhất định cũng có đăng đôi, - bốn góc đôi nhau. - Như tám quẻ cung Kiền đối với tám quẻ cung Khôn v.v… Đó là sự khác nhau của hình vẽ vuông và hình vẽ tròn.
Hình vẽ tròn giống trời, nghĩa là trời tròn mà xoay, bao bọc ngoài đất. Hình vẽ vuông giống đất, nghĩa là đất vuông mà đứng im, bị nhốt trong trời. Hình vẽ tròn là đạo trời, có Âm có Dương;
hình vẽ vuông là đạo đất, có cứng có mềm. Chấn, Ly, Đoái, Kiền là phần Dương của trời, phần cứng của đất, Tốn, Khảm, Cấn, Khôn là phần Âm của trời, phần mềm của đất. Đạo đất phải theo đạo trời, đem cái cứng mềm của đất, ứng với Âm Dương của trời, vẫn cùng một lẽ. Có điều, ở trời thì một đường xuôi, một đường ngược, khí của các quẻ nhờ đó mà vận hành; ở đất chỉ có đường ngược, vạch của các quẻ nhờ đó mà làm nên, thế thôi.
Có người hỏi Thiệu tử nói rằng: “Cái học Tiên thiên tức là tâm pháp(3). Hình vẽ đều bắt đầu từ giữa. Muốn “hoá”(4), muốn việc đều do trong bụng sinh ra”, như thế là nghĩa làm sao?
Đáp rằng: ở trong hình vẽ, chỗ trắng là Thái cực, ba hai quẻ Âm, ba hai quẻ Dương là hai Nghi; mười sáu quẻ Âm, mười sáu quẻ Dương là bốn Tượng, tám quẻ Âm tám quẻ Dương là tám Quái. Lại nói: “Muốn vật muốn hoá đều tự trong đó trôi ra”. Đó là tâm pháp bắt đầu từ giữa(1).
Lại hỏi: “Hình vẽ dù không có chữ, ta nói suốt ngày vẫn cũng không lìa nó câu ay là thế nào?
Đáp rằng: Hình vẽ Tiên thiên nay vẽ ra đó là nói về cuộc vận hành một năm. Nếu lớn ra, mười hai vạn chín nghìn sáu trăm năm của cổ kim chỉ là cái vòng ấy, mà nhỏ lại, mười hai giờ trong một ngày cũng chỉ là cái vòng ấy, đều từ quẻ Phục tính đi… Nói về một tháng, thì từ Khôn đến Chấn, là trăng mới mọc, tức ngày mồng ba; đến Đoái là trăng thượng huyền, tức ngày mồng tám; đến Kiền, là trăng tuần vọng, tức ngày mười lăm; đến Tốn là trăng mới khuyết; tức ngày mười tám; đến Cấn, là trăng hạ huyền, tức ngày hai ba; đến Khôn, là trăng tuần hồi, tức ngày ba mươi… Một ngày có vận một ngày, một năm có vận một năm, lớn thì đầu chót của trời đất, nhỏ thì sống thác của người và vật, xa thì cuộc thay đổi của đời xưa đời nay, đều không ra ngoài vành ấy và chỉ là lẽ đầy vơi, tiêu, lớn mà thôi.
Chữ Dịch chua là biến đổi lại chua là giao đổi, đó là cái nghĩa truyền đổi, cứ coi hình vẽ Tiên thiên thì thấy: Một vạch Âm ở phía Đông thì đôl với một vạch Dương ở phía Tây. Bởi vì cả một phía Đông vốn đều là Dương, cả một phía Tây vốn đều là Âm; vạch Âm ở phía Đông nguyên đều ở phía Tây sang, vạch Dương ở phía Tây nguyên đều ở phía Đông lại; quẻ Cấn ở phía Tây là năm vạch Dương từ phía Đông sang; quẻ Phục ở phía Đông là năm vạch Âm ở phía Tây lại, truyền đổi lẫn nhau mà thành sự biến đổi của Dịch. Tuy có nhiều cách, nhưng đó là cuộc biến đổi thứ nhất…
Trong Dương có Âm, trong Âm có Dương, Đông Tây giao dịch, mỗi chỗ đều có đối nhau. Thật ra, không phải là cái này đi mà cái kia lại, chỉ là tượng nó như thế. Thánh nhân lúc đầu cũng không nghĩ tính như vậy, chỉ là vạch một nét Âm, vạch một nét Dương, mỗi cái lại sinh ra hai cái nữa: trên một vạch Dương lại sinh ra một vạch Dương và một vạch Âm, trên một vạch Âm lại sinh ra một vạch Âm và một vạch Dương. Chỉ cứ như thế mà đi, từ một ra hai; hai ra bốn, bốn ra tám, tám ra mười sáu, mười sáu ra ba hai, ba hai ra sáu tư, thành rồi, thì liền chỉnh tề như thế. Đó đều là những sự mầu nhiệm bản nhiên của trời đất, chỉ mượn qua tay thánh nhân vạch ra…
Lại khi đáp Diệp Vĩnh Khanh, Chu Hy có nói: Theo thuyết Tiên thiên, trước hết nên đem sáu mươi tư quẻ làm hình vẽ ngang, thì Chấn, Tôn, Phục, cấn vừa ở chính giữa. Trước hãy từ Chấn và Phục đi lùi đến Kiền, rồi lại từ Tốn và cấn đi xuôi đến Khôn thì thành hình tròn, mà Xuân, Hạ, Thu, Đông, hối, sóc, huyền, vọng, ngày, đêm, sớm, tối, đều có thứ tự, đó là đại ý của việc làm ra hình vẽ.
Lại nữa: một trăm chín mươi hai hào phía tả đều thuộc về Dương; một trăm chín mươi hai hào phía hữu đều thuộc về Âm, ấy là vì sự đối vọng, truyền đổi với nhau mà thành hình ấy. Nếu không bắt đầu từ giữa đi ra hai đầu, mà chỉ từ đầu đến đuôi, thì những loại ấy đều không thể thông. Thử dùng ý đó mà suy, tự nhiên thấy rõ.
Hình vẽ Tiên thiên vốn của Phục Hy, không phải Khang Tiết chế ra. Tuy nó không có lời lẽ gì cả, nhưng mà cai quát rất rộng, ở trong Kinh Dịch ngày nay, không có một chữ hay một nghĩa nào mà không do đó trôi ra.
THỨ Tự TÁM QUẺ CỦA VĂN VƯƠNG
Kiển cha
Khôn mẹ
Đoá
Ly Ton
Cấn
Khảm
Chấn
Chản
con
trai
lớn
Tôn
con
gâi
lởn
Ly
con
gái
nhỡ
Đoái
con
gái
nhỏ
Được
hào
đẩu
của
Khôn
Được
hảo
giứa
của
Khèn
Được
hảo
Trên
của
Khôn
c&n Khảm
con con
Hình vẽ trên đây thấy ở Thuyết quái
LỜI BÀN CỦA TIÊN NHO
Thiệu tử nói rằng: Khôn tìm Kiền, được hào Chín Đầu(1) của nó mà thành ra Chấn, cho nên nói rằng: “Tìm một lần mà được con trai”. Kiền tìm ở Khôn, được hào Sáu Đầu(33) của nó mà thành ra Tốn, cho nên nói rằng: “Tìm một lần mà được con gái”(3) Khôn tìm đến lần thứ hai, được hào Chín Hai của Kiền mà thành ra Khảm, cho nên nói rằng: “Tìm hai lần mà được con trai”. Kiền tìm đến lần thứ hai, được hào Sáu Hai của Khôn mà thành ra Ly, cho nên nói rằng: “Tìm hai lần mà được con gái”. Khôn tìm đến lần thứ ba, được hào Chín Ba của Kiền mà thành ra Cấn, cho nên nói rằng: “Ba lần tìm mà được con trai”. Kiền tìm đến lần thứ ba, được hào Sáu Ba của Khôn mà thành ra Đoái, cho nên nói rằng: “Ba lần tìm mà được con gái”(4). Lại nói: “Kiền tìm ở Khôn mà được con gái, Khôn tìm ở Kiền mà được con trai. Lúc đầu vạch quẻ không phải như thế. Chỉ là sau khi vạch quẻ, thì thấy có những Tượng ấy.