Từ khi con chim đầm lầy xuất hiện, Taran dẫn cả nhóm đi thật nhanh, không chút chần chừ theo một hướng giờ đây đã trở nên hết sức rõ ràng. Cậu cảm thấy những cơ bắp khỏe khoắn của Melynlas chuyển động bên dưới thân mình và điều khiển con ngựa một cách khéo léo chưa từng thấy. Con tuấn mã đáp lại đôi bàn tay mới mẻ trên dây cương bằng cách vụt tăng tốc, mạnh mẽ đến nỗi Lluagor khó mà theo kịp. Fflewddur kêu lớn gọi Taran dừng lại một chút để tất cả nghỉ chân. Gurgi, nom như một đống rơm bị gió thổi bạt, trèo xuống yên ngựa vẻ biết ơn. Ngay cả Eilonwy cũng thở ra một hơi dài nhẹ nhõm. “Giờ chúng ta đã dừng lại rồi,” Taran nói, “có lẽ Gurgi nên chia một ít thức ăn luôn thể. Nhưng tốt hơn hết là chúng ta đi tìm chỗ trú ẩn đã, nếu không muốn bị ướt.” “Ướt ấy à?” Fflewddur kêu lên. “Nhân danh Belin Vĩ Đại, trên trời không có lấy một gợn mây mà! Hôm nay đúng là một ngày đẹp trời – xét về mọi mặt rồi đấy nhé.” “Nếu tôi là ông,” Eilonwy khuyên chàng ca sĩ đang ngơ ngác, “thì tôi sẽ nghe lời anh ấy. Bình thường thì đó không phải là một điều khôn ngoan cho lắm, nhưng giờ thì mọi chuyện hơi khác rồi.” Chàng ca sĩ chún vai lắc đầu, nhưng vẫn theo Taran băng qua cánh đồng rộng đến một hẻm núi nông. Ở đó, họ tìm thấy một cái hốc rộng và khá sâu nằm bên một vách đồi. “Tôi hi vọng là cậu không bị thương.” Fflewddur nhận xét. “Vị tướng ở quê tôi có một vết thương cũ, cứ mỗi khi trở trời là lại nhức nhối. Tôi phải thừa nhận như thế khá tiện, nhưng dự đoán thời tiết theo kiểu đó thì có vẻ đau quá. Tôi luôn nghĩ rằng chỉ việc ngồi đợi thôi thì dễ dàng hơn nhiều, vì chẳng sớm thì muộn một kiểu thời tiết nào đó cũng sẽ xuất hiện.” “Gió đã đổi chiều rồi.” Taran nói. “Giờ nó đang thổi từ biển tới. Nó có vẻ bất an và có vị mằn mặn. Còn có cả mùi lau sậy nữa, chúng khiến tôi nghĩ là chúng ta không còn cách xa Morva bao nhiêu. Nếu mọi chuyện ổn thoả thì ngày mai chúng ta sẽ đến được khu đầm lầy.” Chỉ một thoáng sau, quả thực mây đen đã kéo đến che kín bầu trời và một cơn mưa lạnh buốt đổ xuống quả đồi. Nó nhanh chóng chuyển thành một trận mưa rào như trút nước. Nước chảy thành dòng ở hai bên nơi trú ẩn của họ, nhưng nhóm bạn vẫn được khô ráo. “Chủ nhân mới khôn ngoan làm sao,” Gurgi reo lên, “vì đã bảo vệ chúng ta khỏi bị ướt sũng như chuột lột!” “Tôi phải thừa nhận là,” chàng ca sĩ nói, “cậu dự đoán đúng thật.” “Không phải tôi đâu.” Taran nói. “Nếu không có chiếc trâm cài của Adaon, tôi sợ chúng ta đều đã ướt sũng cả rồi.” “Sao lại thế được nhỉ?” Fflewddur bối rối hỏi. “Tôi cứ nghĩ một chiếc trâm thì chẳng liên quan gì đến việc này cả.” Như đã giải thích với Eilonwy, Taran kể lại cho chàng ca sĩ những điều cậu khám phá ra về chiếc trâm. Fflewddur thận trọng xem xét kĩ chiếc trâm cài trên cổ Taran. “Hay thật.” anh nói. “Không biết nó còn mang những phép thuật gì khác không, nhưng nó dấu hiệu của những ca sĩ hát rong – ba đường kẻ kia, giống như đầu mũi tên vậy.” “Tôi có nhìn thấy chúng,” Taran nói, “nhưng tôi không hiểu chúng có nghĩa gì.” “Tất nhiên là cậu không biết.” Fflewddur nói. “Nó là một phần của những tri thức bí mật mà các ca sĩ phải biết. Tôi chỉ nhớ được có ngần ấy khi học để chuẩn bị cho kỳ thi.” “Nhưng chúng có nghĩa là gì?” Taran hỏi. “Theo như tôi nhớ,” Eilonwy xen vào, “lần gần đây nhất khi tôi nhờ ông ấy đọc những dòng chữ cổ…” “Phải, phải,” Fflewddur ngượng ngùng nói, “nhưng đó lại là chuyện khác. Tôi biết rất rõ biểu tượng của giới ca sĩ. Nó là một điều bí mật, nhưng vì cậu đã có chiếc trâm nên tôi nghĩ cho cậu biết cũng chẳng hại gì. Ba đường đó tượng trưng cho tri thức, chân lý và tình yêu.” “Nghe hay nhỉ.” Eilonwy nói, “Nhưng tôi không thể tưởng tượng được tại sao tri thức, chân lý và tình yêu lại là một bí mật lớn đến thế.” “Có lẽ tôi nên nói nó vừa khác thường vừa bí mật thì đúng hơn.” Chàng ca sĩ đáp. “Tôi vẫn thường nghĩ rằng để tìm được chỉ riêng một trong ba điều đó thôi cũng đã đủ khó rồi. Đặt chúng bên cạnh nhau thì chúng sẽ trở thành một thứ quyền lực vô cùng mạnh mẽ.” Taran mâm mê chiếc trâm vẻ trầm ngâm, bỗng cậu dừng lại và lo ngại nhìn quanh. “Nhanh lên,” cậu nói, “ta phải ra khỏi đây ngay.” “Taran xứ Caer Dallben,” Eilonwy kêu lên, “anh đi quá xa rồi đấy! Tôi có thể hiểu vì sao chúng ta chạy khỏi cơn mưa, nhưng tôi không hiểu vì sao bây giờ lại đi thẳng vào nó.” Tuy thế, cô vẫn đi theo; và những người bạn đồng hành, theo lệnh cấp bách của Taran, cởi dây buộc ngựa và chạy khỏi sườn đồi. Họ chưa đi được mười bước thì toàn bộ sườn đồi, bị nước mưa xói mòn, sụp xuống trong tiếng kêu lớn ầm ầm. Fflewddur đưa tay lên chống nạnh và huýt sáo. “Chà, chà, thử tưởng tượng xem, chỉ một phút nữa thôi là chúng ta có thể bị chôn sống vĩnh viễn trong đó rồi. Đừng bao giờ rời chiếc trâm cài ấy ra, anh bạn ạ. Nó đúng là một kho báu đấy.” Taran im lặng. Cậu đưa tay lên chiếc trâm của Adaon và nhìn sườn đồi vừa sụt lở với vẻ băn khoăn. Mưa ngớt một chút trước khi trời tối. Mặc dù ướt sũng và lạnh buốt đến tận xương, nhóm bạn vẫn đi một quãng đường dài cho đến khi Taran cho phép họ dừng lại nghỉ. Ở đây, những cánh đồng hoang xám xịt buồn thảm trải dài trước mặt. Gió và nước mưa đã xói mòn trên mặt đất những rãnh sâu tựa như bị những ngón tay của một tên khổng lồ cào xuống. Nhóm bạn cắm trại trong một khe núi hẹp, mừng vì được nghỉ ngơi, cho dù trên mặt đất bùn lầy. Taran ngủ thiếp đi với một bàn tay đặt lên chiếc trâm, tay kia nắm chuôi gươm. Cậu không kiệt sức như cậu đoán, bất chấp cuộc hành trình dài mệt mỏi. Một cảm giác hồi hộp kì lạ khiến cậu thấy phấn khích, rất khác với cảm giác khi cụ Dallben trao cho cậu thanh gươm. Thế nhưng những giấc mơ đêm hôm ấy vẫn rối loạn và không lấy gì làm vui vẻ. Khi ánh mặt trời đầu tiên hiện ra và nhóm bạn tiếp tục cuộc hành trình, Taran kể lại cho Eilonwy nghe những giấc mơ của mình. “Tôi không thể hiểu được chúng.” cậu ngập ngừng nói. “Tôi thấy Ellidyr bị nguy hiểm đến tính mạng. Trong lúc đó thì dường như tôi đang bị trói và không thể giúp anh ta được.” “Tôi e là anh chỉ có thể thấy Ellidyr trong mơ thôi.” Eilonwy đáp. “Chẳng thấy bóng dáng hắn đâu hết. Theo như những gì chúng ta biết thì có thể hắn đã đến Morva và rời đi rồi, hoặc là không hề đến được khu đầm lầy cũng nên. Thật tiếc khi anh không mơ thấy cách nào dễ hơn để tìm ra chiếc vạc và chấm dứt tất cả những chuyện này. Tôi vừa lạnh vừa ướt và đến nước này thì tôi bắt đầu chẳng thèm quan tâm xem ai đang có nó nữa.” “Tôi cũng mơ thấy chiếc vạc nữa.” Taran lo ngại nói. “Nhưng mọi thứ đều rối rắm và mù mờ. Tôi thấy hình như chúng ta đã tìm thấy chiếc vạc. Vậy mà,” cậu nói thêm, “khi chúng ta tìm được nó thì tôi lại oà khóc.” Lần này thì cả Eilonwy cũng lặng ngắt, và Taran không còn lòng dạ nào để nói về giấc mơ nữa. Sau buổi trưa một lát thì họ đến khu đầm lầy Morva. Taran đã cảm nhận được chúng từ lâu trước đó, khi mặt đất nhũn ra và trở nên hiểm trở hơn dưới vó Melynlas. Cậu nhìn thấy nhiều loại chim đầm lầy hơn và nghe thấy vẳng từ xa tiếng kêu kỳ lạ và đơn độc của một con chim lặn. Từng cuộn sương mù, luồn lách và uốn éo như những con bạch xà đã dần bốc lên từ mặt đất hôi hám nồng nặc. Đến đây thì nhóm bạn dừng lại, và im lặng đứng trước một lối đi thắt cổ chai dẫn vào đầm lầy. Từ đó, khu đầm lầy Morva trải dài về hướng Tây mãi đến tận đường chân trời. Ở chỗ này, những bụi kim tước khổng lồ đầy gai vươn lên. Phía đằng xa, Taran nhận thấy những cụm cây khẳng khiu ảm đạm. Bên dưới bầu trời xám xịt, những vũng nước tù gợn lăn tăn giữa đám cỏ chết và lau sậy ngã rạp. Mùi thối rữa lưu cữu xông lên làm nghẹt lỗ mũi cậu. Một tiếng rên rỉ đều đều không ngừng run rẩy vang vọng trong không trung. Mắt Gurgi tròn xoe kinh hãi và chàng ca sĩ lo lắng cựa mình trên lưng Lluagor. “Vậy là anh đã dẫn đươc chúng tôi đến đây rồi.” Eilonwy nói. “Nhưng làm sao anh lại mong có thể tìm được chiếc vạc ở một nơi như thế này?” Taran ra hiệu cho cô im lặng. Trong khi cậu nhìn quanh khu đầm lầy đáng sợ, một điều gì đó bỗng cựa quậy trong trí nhớ cậu. “Đừng cử động.” cậu hạ giọng cảnh báo. Cậu liếc nhìn nhanh về phía sau. Những hình thù xam xám đã hiện ra sau rặng cây mọc rải rác trên một gò đất. Chúng không phải hai con sói như cậu tưởng khi mới thoạt nhìn, mà là hai tên Thợ Săn mặc áo lông sói. Một tên thợ săn khác, trong chiếc áo nặng nề làm bằng da gấu, đang khom mình bên cạnh chúng. “Bọn Thợ Săn đã tìm thấy chúng ta rồi.” Taran nhanh chóng nói tiếp. “Hãy theo sát tôi từng bước. Nhưng đừng cử động cho đến khi tôi ra hiệu.” Giờ cậu đã hiểu rõ giấc mơ về hai con sói và biết chính xác mình phải làm gì. Bọn Thợ Săn tưởng có thể bắt được con mồi lúc họ không cảnh giác, đang tiến lại gần hơn. “Đi!” Taran hét. Cậu thúc Melynlas về phía trước và phi thẳng vào khu đầm lầy. Thở hổn hển và cố sức lao đi, con tuấn mã vật lộn vượt qua bãi lầy. Với một tiếng gầm lớn, bọn Thợ Săn đuổi theo cậu. Có lúc Melynlas suýt nữa bị sa lầy trong một vũng bùn sâu. Những sải chân dài của bọn Thợ Săn đưa chúng lại gần hơn, gần đến nỗi khi khiếp sợ liếc nhìn lại phía sau, Taran thấy một tên đang nhe răng gầm gừ, tay vươn tới hòng túm lấy bàn đạp của Lluagor. Taran quay ngoắt Melynlas sang phải, Lluagor lao theo. Một tiếng la kinh hoàng vang lên sau lưng họ. Một tên mặc áo lông sói bị trượt chân và ngã nhào về phía trước, hắn gào thét trong khi vùng lầy đen sì túm lấy và nhấn chìm hắn. Hai tên đồng bọn của hắn bám víu lấy nhau, cố sức một cách vô ích để thoát khỏi mặt đất đang rã ra dưới chân chúng. Tên Thợ Săn khoác áo da gấu vung tay ra chụp lấy đám lau sậy, gầm lên trong cơn thịnh nộ; tên chiến binh cuối cùng giẫm lên đầu những kẻ đang chìm, tuyệt vọng tìm một chỗ đặt chân để thoát ra khỏi vũng lầy chết người. Melynlas phi nước đại phóng tới trước. Những tia nước lợ phun lên dưới móng nó, nhưng Taran điều khiển con tuấn mã đi theo một dải đất chìm, không hề dừng lại ngay cả khi đã sang đến bờ bên kia của đầm lầy. Ở đây, trên mặt đất cứng, cậu lao qua đám kim tước và đi xa hơn cả những cụm cây. Trong khi Lluagor gõ món rầm rập phía sau lưng, Taran men theo rãnh nước dài, đi tới một gò đất cao an toàn. Đột nhiên cậu ghìm cương con tuấn mã lại. Ở một mé gò, thoạt trông thì tưởng là một phần của bãi lau sậy, một căn nhà tranh thấp lè tè vươn lên. Nó được che đậy bằng cỏ và cành cây khéo đến nỗi Taran phải nhìn lại mới thấy được ô cửa. Bao quanh gò đất là một dãy chuồng ngựa xiêu vẹo và cái gì đó nhìn như một chuồng gà đổ nát. Taran kéo Melynlas lùi ra xa đám nhà cửa lạ lùng này và cảnh báo những người khác giữ im lặng. “Tôi sẽ không lo về việc ấy đâu.” Eilonwy nói. “Nếu có ai sống ở đây thì chắc hẳn họ đã nghe thấy tiếng chúng ta phóng ngựa đến rồi. Nếu đến giờ mà họ vẫn chưa ra đón chào hay đánh nhau với chúng ta thì tôi nghĩ rằng ở đó chẳng có ai đâu.” Cô nhảy từ trên lưng Melynlas xuống và bước về phía căn nhà tranh. “Quay lại đi!” Taran gọi. Cậu rút gươm ra và đi theo cô. Chàng ca sĩ và Gurgi cũng xuống ngựa và rút vũ khí ra. Cảnh giác và thận trọng, Taran tiến lại gần ô cửa thấp lè tè. Eilonwy phát hiện ra khung cửa sổ bị cỏ mọc che khuất hết phân nửa và giờ đang nhòm vào đó. “Tôi chẳng thấy ai cả.” cô nói trong khi những người khác đi tới. “Anh tự nhìn xem.” “Thật ra,” chàng ca sĩ nói, cúi đầu xuống và nheo mắt nhìn qua Eilonwy. “tôi nghĩ là không có ai ở đây đã từ lâu lắm rồi. Càng tốt! Dù thế nào thì chúng ta cũng có chỗ khô ráo để nghỉ ngơi.” Taran thấy quả là gian buồng có vẻ bị bỏ hoang thật, ít ra là không có người ở, bởi nó còn bị chồng chất bừa bộn hơn cả phòng của thầy Dallben nữa. Ở một góc phòng là chiếc khung cửi với vô số sợi tơ rũ xuống lòng thòng. Miếng vải trên khung cửi chưa dệt xong một nửa và bị thắt nút rối tung đến nỗi cậu không thể tưởng tượng nổi có ai lại muốn tiếp tục dệt nó. Bát đĩa bằng sành nứt rạn chất đầy trên một cái bàn nhỏ. Nằm vương vãi xung quanh là những món vũ khí đã gãy và rỉ sét cả. “Mi sẽ thích thú đến mức nào,” một giọng vui vẻ cất lên sau lưng Taran, “nếu bị biến thành một con cóc và bị giẫm lên?”